Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lý Tưởng Bồ Tát Trong Đời Sống Xã Hội

25 Tháng Tư 201510:00(Xem: 5844)
Lý Tưởng Bồ Tát Trong Đời Sống Xã Hội
LÝ TƯỞNG BỒ TÁT TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

Huệ Thành


Lý Tưởng Bồ Tát Trong Đời Sống Xã HộiCó thể nói rằng một trong những học thuyết nổi bật của Phật giáo Đại thừahọc thuyết Bồ-tát, mặc dù khái niệm Bồ-tát đã xuất hiện trước đó trong Phật giáo Theravāda. Với việc xây dựng hình tượng Bồ-tát lý tưởng đi cùng với những nguyên tắc tu tậpthệ nguyện cứu độ chúng sanh, Phật giáo Đại thừa thể hiện là một tôn giáo đề cao tinh thần nhập thế tích cực.

Những luật tắc, phẩm hạnh và những thệ nguyện của Bồ-tát, cũng như việc thực hành con đường Bồ-tát, được giảng giải khắp các kinh luận Đại thừa. Nói chung Bồ-tát được xem là mẫu người có nhân cách lý tưởng và cao thượng; và những giới luật Bồ-tát được xem như những chuẩn tắc đưa đến một đời sống đạo đức và giúp xây dựng một xã hội tốt đẹp, cuối cùng là đưa hành giả đến sự giải thoát. Hẳn nhiên rằng khi thực hành theo những chuẩn tắc cùng những thệ nguyện mà mình phát nguyện, Bồ-tát sẽ trở thành những tấm gương sáng trong cuộc đời. Bồ-tát đi vào trong đời, vừa tu tập hoàn thiện bản thân và vừa làm cho cuộc đời tốt đẹpnhân bản hơn. Chính vì điều này mà kinh Hoa nghiêm (Avataṃsaka Sūtra) nói rằng Bồ-tát đóng chức năng như một ngọn đèn có thể soi sáng thế gian.

Bản chất cốt tủy của Bồ-tát là lòng đại từ bi, và tất cả chúng sanh là đối tượng của lòng từ bi đó. Và bản chất của lòng đại từ bi mà nó hình thành nên một trong những đặc điểm quan trọng của chư Bồ-tát là không bao giờ rời bỏ những chúng sanh đang khổ đau phía sau cuộc hành trình của họ. Tuệ quán của chư Bồ-tát là nhận thứctính không của tất cả các pháp, nhưng công việc cứu độ của họ thì không bao giờ nằm ngoài thế giới khổ đau. Điều kiện sống của Bồ-tát là ở nơi đời sống của những con người bình thường, và lòng từ bi sẽ trở thành nền tảng của tất cả hành động. Con đường Bồ-tát do đó không phải là con đường êm đềm phẳng lặng, bởi vì cõi đời vốn gập gành và luôn đầy những chướng ngại trên lối đi.

Theo kinh Lăng-già, Bồ-tát vì muốn độ tất cả chúng sanh đạt đến Niết-bàn nên phát nguyện ở lại thế giới nhiều khổ đau này để làm lợi ích cho chúng sanh. Kinh điển Đại thừa phác vẽ một hình tượng Bồ-tát đi vào đời hoằng hóa bằng nhiều phương cách khác nhau. Trong phẩm Phổ môn của kinh Pháp hoa, Bồ-tát có thể “hóa hiện” thành những hình hài khác nhau để cứu độ chúng sanh. Bồ-tát có thể ở trong hình hài phụ nữ, trong hình hài người nam, trong hình hài cư sĩ, trong hình hai tu sĩ, trong hình hài vua quan, trong hình hài thường dân, trong hình hài người lớn tuổi, trong hình hài trẻ thơ… Nhưng dù ở trong hình hài nào, mục đích của Bồ-tát là để cứu độ tha nhân. Và như vậy, bất kể mang hình hài tu sĩ hay cư sĩ, nếu suy nghĩviệc làm lúc nào cũng vì tha nhân, hy sinh bản thâncuộc đời và những người cùng khó, và luôn sống theo những thệ nguyện cao cả thì người đó đang thực hành Bồ-tát đạo. Điều này cũng có thể nhìn thấy nơi kinh Duy Ma Cật, một bản kinh quan trọng của Phật giáo Đại thừa, nơi lý tưởng Bồ-tát được thể hiện sống động cùng với giáo lý Phương tiện: “Ông chấp trì luật pháp, duy trì trật tự dưới trên. Hợp tác hài hòa trong tất cả sự nghiệp buôn bán, tuy cũng gặt hái những tài lợi thế tục, ông không lấy đó làm mừng. Rong chơi trên các ngõ đường để giúp ích mọi người. Vào chốn công đường để bảo vệ kẻ thế cô. Tham gia các luận nghị để đưa người vào Đại thừa. Đến các trường học để khai sáng tâm mọi người. Vào nơi kỹ viện để cho thấy tai họa của dục vọng. Vào trong tửu lâu để khiến mọi người giữ vững ý chí”. Và, “Bằng gia sản bất tận của mình, ông bao bọc người cùng khổ. Bằng giới thanh tịnh, ông bao bọc người hủy phạm cấm giới. Bằng sự nhu thuận của nhẫn, ông bao bọc người sân hận hung dữ. Bằng đại tinh tấn, ông bao bọc người biếng nhác. Bằng nhất tâm, thiền định, tịch tĩnh, ông bao bọc những kẻ có tâm ý tán loạn. Bằng tuệ quyết định, ông bao bọc những hạng vô trí” (bản dịch của TT.Tuệ Sỹ).

Kinh điển Đại thừa như vậy cho thấy phạm vi hành hoạt của Bồ-tát vô cùng đa dạng. Trong thời hiện đại, nhiệm vụ của Bồ-tát càng trở nên đa dạng hơn trong một xã hội với nhiều khía cạnh đan xen chất chồng. Sự nghiệp hành hoạt của một vị Bồ-tát, do đó, không chỉ giới hạn sự quan tâm của mình vào những người đã yên vị trong những thiền đường mát mẻ hay thảnh thơi niệm Phật trong những tòa chánh điện cao rộng, trong khi bên ngoài còn vô số con người đang chịu những đau khổ bởi những nguyên nhân khác nhau.

Ngày hôm nay, bước trên con đường Bồ-tát, hành giả không chỉ nhìn vào tâm mình và quán sát những cảm xúc sinh khởi, mà còn phải nhìn sâu vào phẩm chất của những cấu trúc cộng đồngtrật tự xã hội, đòi hỏi những xem xét thấu đáo hơn về môi trường vật lý và môi trường tâm lý của đời sống cộng đồng. Lòng từ bi và trí tuệ của Bồ-tát không giới hạn nơi sự tỉnh thứcgiác ngộ cá nhân, không giới hạn nơi việc “kiến tánh” cho riêng mình.

Bồ-tát là một con người và cũng là một trạng thái tâm được biểu hiện thành hành động. Chúng ta có thể nghe đến danh xưng những vị Bồ-tát, nhìn thấy tranh họa của những vị Bồ-tát, nhưng chúng ta cũng có thể gặp những con người thể hiện những hành vilời nói của một vị Bồ-tát. Chúng ta cần nghe đến danh xưng, hình ảnhhạnh nguyện của những vị Bồ-tát để quy hướng. Nhưng chính những lời nóiviệc làm trong đời sống thực thể hiện tinh thần Bồ-tát mới có thể làm cho lý tưởng Bồ-tát được hiện thực hóa.

Kinh điển Đại thừa, cụ thể như kinh Pháp hoa, nói đến loại hoa sen trắng thanh khiết mọc lên từ bùn lầy. Phép ẩn dụ này muốn nói rằng, việc đạt lấy trạng thái tâm thanh tịnh cần thực hiện giữa cuộc đời này, hay ngay giữa xã hội loài người, dù rằng điều này không dễ. Theo cách này, Bồ-tát không bao giờ chạy trốn thực tại, và không bao giờ rời bỏ chúng sanh đang chịu đau khổ trong cuộc đời còn riêng mình đắm say trong sự tĩnh tại cá nhân. Trong mười hạnh nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền, hạnh thứ chín nói đến việc “hằng thuận chúng sanh”, là tùy thuận theo chúng sanh, là tùy theo căn cơ, nghiệp lực, hoàn cảnh… của mỗi chúng sanh để tuỳ nghi hóa độ. Điều này đòi hỏi Bồ-tát không bao giờ được thoát ly khỏi thực tại xã hội, như lời nguyện của hoàng hậu Shrimala trong kinh Thắng man (Srimala Devi Sūtra): “Nếu tôi nhìn thấy những người cô độc bị cầm tù một cách bất công và đánh mất sự tự do, những người khổ đau vì bệnh tật, tai ách và đói nghèo, tôi sẽ không rời bỏ họ. Tôi sẽ đem lại cho họ sự an ổn cả vật chất lẫn tinh thần”.

Không rời bỏ chúng sanh không có nghĩa là ở chung với họ, mà là hành động vì những con người đó. Tất nhiên, một vị Bồ-tát có thể hành động theo nhiều cách để giúp người, giúp đời. Lên án cái xấu ác, cổ vũ cho điều thiện cũng là một hành động mang hạnh nguyện Bồ-tát. Makiguchi, người thành lập tổ chức Phật giáo nhập thế Soka Gakkai ở Nhật Bản, cho rằng: “từ bỏ điều xấu và đi theo điều tốt là hai hành động được sinh ra từ cũng một lực đẩy…. Chỉ những người đủ can đảm chiến đấu chống lại điều xấu mới có thể là một người bạn chân thật của điều tốt… Nó là không đủ khi vui thích một cách thụ động với điều tốt. Chúng ta phải có sự can đảm đạo đức một cách tích cực để theo đuổi điều tốt”. Makiguchi đã thể hiện tinh thần dấn thân tích cực của Phật giáo Đại thừa khi khởi xướng phong trào Soka Gakkai, và khi xem từ biý nghĩa tích cực chỉ khi nó được thể hiện qua hành động. Ông cho rằng khi chứng kiến một người sắp chết đuối, chỉ thể hiện một thái độ thích hợp đối với tình huống đó là không đủ, mà phải tìm cách cứu lấy mạng sống của người đó. Và lịch sử cần đến những người hành động hơn là cần đến những người bảo người khác hành động; cũng như cần đến những người tự thân tu tập hơn là người khuyên bảo người khác tu tập còn mình thì không!

Tuy nhiên với Phật giáo, hành động để cứu giúp tha nhân cần phải được tiến hành với sự chuyển đổi cá nhân. Việc đào luyện và chuyển hóa tâm là điều quan trọng trong lộ trình tu đạo. Bởi vì, cho dù một người cố gắng hết mình để làm điều tốt, nhưng nếu quên mất tâm bồ-đề, thì việc thiện đó cũng chỉ là hành động của ma. Tâm bồ-đề là tâm cầu giác ngộ, là tâm phát khởi cứu giúp chúng sanh, và cũng có thể gọi là những trạng thái tâm tốt sau khi đã nỗ lực gạn lọc những trạng thái tâm tiêu cực. Đánh mất tâm bồ-đề mà làm việc thiện, hay nói cách khác là các hành vi được thể hiện không khởi xuất từ động cơ trong sánglương thiện, thì việc thiện đó có khi chỉ là một hành vi che lấp cho một mục đích bất thiện, điều mà ta có thể bắt gặp bất cứ nơi đâu trong đời sống xã hội hiện nay.

Bổn phận của Bồ-tát là thiết lập đạo đức vào trong đời sống xã hội và sau đó hướng dẫn chúng sanh đến sự giác ngộ hoặc chí ít là hướng dẫn họ đi theo con đường giác ngộ. Do đó, việc làm của Bồ-tát chỉ có ý nghĩa thực sự khi đưa được người khác đến với đời sống đạo đức và phát triển đời sống tâm linh. Theo Phật giáo Đại thừa, một vị Bồ-tát làm lợi ích chúng sanh qua việc thực hành các ba-la-mật (pāramitā), nhưng nếu những việc làm đó không đưa người khác đến được đời sống đạo đức và phát triển đời sống tâm linh thì chúng được coi là thiếu “phương tiện thiện xảo”. Nói cách khác, nếu một người nỗ lực làm từ thiện để giúp cho chúng sanh vơi bớt những đói khổ tạm thời, nhưng nếu không thiết lập được nền tảng đạo đứcđời sống tâm linh cho những người đói nghèo đó, việc làm của người ấy không được xem là hoàn hảo theo ý nghĩa thực hành Bồ-tát đạo.

Vạn pháp trong thế gian luôn tương thuộc và chúng sanh trong cõi ta-bà này không thể tồn tại độc lập. Do vậy, khổ đau và những tổn hại của chúng sanh khác chớ vội nghĩ là không có dính líu đến chúng ta. Trưởng giả Duy Ma Cật đã thốt lên rằng: “tôi bệnh vì chúng sanh bệnh. Khi bệnh của chúng sanh được khỏi thì bệnh của tôi sẽ khỏi”. Thực hành Bồ-tát đạo là xem bệnh khổ của chúng sanh như bệnh khổ của mình, trách nhiệm đối với người khác và đối với xã hội cũng có nghĩa là có trách nhiệm đối với bản thân. Điều này không phải là điều gì đó quá trừu tượng và khó hiểu, nếu chúng ta đọc những dòng sau đây của Đức Dalai Lama, mà cũng mang ý nghĩa tương tự:

“Mỗi người trong thế giới của chúng ta đều tương quan và tùy thuộc. Hạnh phúc và sự an bình của bản thân tôi là mối quan tâm của tôi. Tôi có trách nhiệm đối với điều đó. Nhưng hạnh phúc và sự an bình của tổng thể xã hộiquan tâm của mọi người. Mỗi người trong chúng tatrách nhiệm cá nhân để thực hiện những gì chúng ta có thể để cải thiện thế giới của chúng ta. Trong thời đại của chúng ta, lòng từ bi là cần thiết, không phải là một sự xa xỉ. Con người là những động vật xã hộichúng ta phải sống cùng với nhau, cho dù chúng ta muốn hay không muốn. Nếu chúng ta thiếu những trái tim tốt và lòng từ bi đối với nhau, sự tồn tại của mỗi chính chúng ta sẽ bị đe dọa. Ngay cho dù chúng ta vị kỷ, chúng ta nên vị kỷ một cách khôn ngoan và hiểu rằng hạnh phúc và sự sống còn của chúng tatùy thuộc vào kẻ khác. Do đó, tử tế và từ bi đối với nhau là cốt tủy.

Con ong cái kiến không có tôn giáo, không có giáo dục hay triết học, tuy thế chúng hợp tác với nhau theo bản năng. Khi làm như vậy, chúng bảo đảm sự sống còn của thế giới của chúng và hạnh phúc của mỗi cá thể trong đó. Chắc hẳn loài người chúng ta, thông minhtinh tế hơn, có thể làm được điều đó. Vì vậy, mỗi chúng tatrách nhiệm cá nhân để giúp đỡ kẻ khác bằng bất cứ cách gì mà chúng ta có thể. Tuy nhiên, chúng ta chớ có mong đợi thay đổi cuộc đời ngay lập tức. Mỗi khi chúng ta chưa giác ngộ, những hành động của chúng ta làm lợi ích kẻ khác sẽ bị hạn chế. Không có sự an bình nội tại thì sẽ không có hòa bình thế giới. Do đó, chúng ta phải hoàn thiện bản thânđồng thời làm những gì chúng ta có thể để giúp đỡ người khác”.

Hoàn thiện bản thân và giúp đỡ tha nhân theo khả năng mình có là điều Phật giáo luôn nhấn mạnh. Cả hai điều này giúp cho người tu học theo Phật giáo, những người đang thực hành theo con đường Bồ-tát, viên mãn trong việc tự độ và độ tha. Cuối cùng xin được kể lại một câu chuyện ngắn mang tính ẩn dụ để kết thúc bài viết này:

Một đoàn người đang đi qua một sa mạc khô cháy và họ đang kiệt sứcmặt trời thiêu đốt và không còn nước uống. Nhưng trong số ấy, vẫn còn có một vài người có thể tiếp tục đi được và họ cố gắng vượt lên phía trước; và rồi họ đã gặp một hồ nước. Hẳn nhiên là họ vô cùng vui mừng khi nhìn thấy nước và việc đầu tiên là uống cho thỏa cơn khát đang thiêu đốt cơ thể. Trong số họ, có người sau khi uống xong, đã nghĩ đến việc nghỉ ngơi và chìm đắm trong sự thỏa mãn vừa có được; nhưng cũng có người, đã nghĩ đến những bạn đồng hành đang còn ở phía sau, nên hoặc là mang nước đến cho những người ấy, hoặc quay trở lại khuyến khích và bảo cho những người ấy biết rằng có một hồ nước đang ở phía trước, hãy cố gắng vượt lên để nhận lấy nước uống.

Những người khi tìm thấy nước, nghĩ đến người khác đang chịu cảnh khát cháy và muốn giúp những người đồng hành này, có thể được xem là mẫu người Bồ-tát. Và xã hội dù bất cứ ở thời kỳ nào cũng luôn cần đến những người như vậy, những người luôn nghĩ đến tha nhân, muốn chia sẻ những lợi ích vật chấttinh thần cho những người đang còn chịu nhiều đau khổ trong cõi ta-bà vốn uế trược và lắm bất an này.
Huệ Thành
(Nguyệt san Giác Ngộ)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 37185)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28223)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28827)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 27095)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 34493)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27726)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 33129)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28475)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30002)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25436)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 51163)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26624)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28545)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 24276)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27368)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31821)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30103)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27620)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35340)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27370)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 31648)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 24086)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 22937)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
(Xem: 26544)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28175)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29283)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33163)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21683)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 20540)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22147)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23886)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22772)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23101)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30305)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 21701)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 19179)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20086)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 32624)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33935)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27684)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 23753)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 23138)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 28019)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 19147)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24478)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21372)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23707)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 29299)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 30918)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25230)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 20034)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 18979)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20070)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 19981)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 19357)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22493)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 31051)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 19618)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 19637)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23900)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant