Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Khổ Thánh Đế

01 Tháng Năm 201509:00(Xem: 5728)
Khổ Thánh Đế
KHỔ THÁNH ĐẾ

Chân Hiền Tâm


Khổ Thánh ĐếTôi đến với Phật pháp vì … quá khổ.

Khổ, vì mọi thứ được đặt nền tảng trên cái «quá sướng». Sướng trong hiện tại, dù hiện tại đó đã thành quá khứ, mà có lẽ cả trong quá khứ, là những kiếp về trước khi phước báu khá đầy đủ. Nó đã ghi lại đâu đó trong tiềm thức của tôi, nên khi mới khổ chút, đã thấy khổ vô vàn, khổ cùng cực. «Nhà giàu đứt tay ăn mày đổ ruột». Chuyện tất nhiên trong thế giới này. Một thế giới mà giá trị của pháp không phải tự bản thân nó gầy dựng giá trị cho nó mà được hình thành bằng sự đối đãi hoặc tương đãi,[1] Phật gọi là Duyên khởi.

Cái sướng ở quá khứ làm duyên để tôi cảm nhận cái khổ trong hiện tại. Và chính cái khổ đó lại là duyên giúp tôi đến với Phật pháp. Không khổ ít ai nghĩ đến Trời Phật. Khổ và hạnh phúc là một cặp đối đãi làm nên giá trị cho nhau. Lão Tử chiêm nghiệm và ghi lại trong Đạo Đức Kinh: «Thiên hạ đều biết cái đẹp này là đẹp, cái kia xấu. Đều biết cái thiện này là thiện, cái kia là bất thiện. Có và không sinh nhau, khó và dễ làm thành nhau, dài và ngắn so nhau, cao và thấp úp nhau, âm và thanh hòa nhau, trước và sau theo nhau…». Cái này luôn có mối liên hệ với cái kia. Nhờ cái kia mới có cái này. Mọi thứ ở thế gian đều hình thành theo cách như thế. «Dù chư Như Lai xuất hiện ở đời hay không xuất hiện ở đời, bản chất các pháp là thế. Vẫn quyết định tánh ấy. Vẫn theo duyên như thế». Là theo duyên «Do duyên sinh, lão tử có mặt».[2]

Khổ và tập

Khổ, là một chi phần trong Tứ thánh đế. Song nếu chỉ nói đến « khổ » mà cho là « khổ thánh đế » thì kinh Niết Bàn nói: «Nói khổ đó, chẳng phải là Tứ thánh đế, vì nếu nói khổ là khổ thánh đế thì tất cả trâu, dê, lừa, ngựa cùng người ở địa ngục lẽ ra đều có thánh đế».[3] Nhưng trâu dê lừa ngựa không phải là thánh. Nên biết, « khổ » nếu không đi liền với « tập », « diệt » và « đạo » thì « khổ » chỉ là khổ, không phải là « khổ thánh đế ». Kinh nói: «Người nào không tu tập như vậy thì gọi là khổ, không phải khổ thánh đế». Là «Tu tập được giải thoát và chứng biết như thật Như Lai thường trụ không có biến đổi».[4] Khổ chỉ được gọi là « khổ thánh đế » khi có sự tu tập và chứng biết. Tức không lìa « tập », « đạo » và « diệt ». Vì thế nói đến « khổ thánh đế » là phải nói đến « tập », đến « diệt », đến « đạo ».

Schopenhauer, một triết gia ở thế kỷ thứ XIX nói về nỗi khổ ở thế gian như sau: «Nếu ta chỉ cho một người thấy rõ những khổ đau và cay cực ghê ghớm mà cuộc đời của y phải chịu đựng miên viễn, y sẽ vô cùng kinh hãi. Và nếu ta dẫn người lạc quan kinh niên qua những bệnh viện, chẩn y viện, nhà tù, phòng tra tấn, củi nhốt nô lệ, qua bãi chiến trường và hành quyết… thì cả những người lạc quan kia cuối cùng cũng sẽ hiểu được bản chất của cái thế giới tốt đẹp nhất trong mọi thế giới khả hữu này. Từ đâu Dante đã lấy tài liệu cho địa ngục của ông nếu không phải từ chính thế giới thực thụ của chúng ta? Và rồi ông đã làm nó trở thành một địa ngục rất đặt biệt. Trái lại, khi mô tả thiên đường và những lạc thú của nó, Dante gặp một khó khăn không thể vượt, vì thế giới chúng ta không cung cấp một chút gì về điều đó».[5] Một cái nhìn được người đời cho là vô cùng bi quan, nhưng không hề thiếu tính xác thực. Ít ai dám nói thế giới này không khổ.

Người ta không nhận ra khổ hoặc có nhận ra cũng không biết do đâu có khổ và bản chất thực của khổ là gì. Cho nên, dù cách giải quyết khổ không sai, là phá bỏ những gì mang đến khổ cho mình, nhưng kết quả không mấy khả quan. Nếu khả quan, có khi lại tạo ra những nhân khổ mới. Bởi chỉ biết phá bỏ cái khổ từ ngoại cảnh mang đến mà gốc tạo khổ là ở bản thân thì không biết đến.

Với luận Đại Thừa Khởi Tín, « khổ » đơn giản chỉ vì động. «Động tức có khổ. Vì quả chẳng lìa nhân». Cái gì động? Tâm động. Bởi bất giác tâm động mà có quả khổ sinh tử. Do tâm bất giác vọng động mà xuất hiện thế giớichúng sinh. Nói gần hơn chút nữa. Con người khổ là vì có « tập ». « Tập » là sự tích tụ, là chi phần thứ hai trong Tứ thánh đế. Tâm bất giác vọng động rồi xuất hiện sự tích tụ. Vì tích tụ mà có khổ. Vọng động ra sao, tích tụ thế nào chỉ có Phật và hàng đại Bồ-tát mới thấu được, nhưng không vì thế mà ta không kiểm nghiệm được nó ở những việc nhỏ nhặt trong đời sống thường ngày.

Nghiện, là một dạng của tích tụ. Sự tích tụ của vô số các hành động như nhau, có thể khác nhau ở mức độ nhưng hình thức và nội dung thì không khác. Chúng được lặp đi lặp lại nhiều lần và trở thành thứ mà ta gọi là thói quen. Nghiện, là hình thức của một thói quen đã thành nặng ký. Nghiện bất cứ thứ gì đều khiến ta trở thành nô lệ cho thứ đó. Khổ xuất hiện khi sự thỏa mãn không được đáp ứng. Song với cái nhìn của đạo và những người mà quan niệm tự do là trên hết thì nô lệ, bản chất của nó đã là khổ, không đợi đến khi sự thỏa mãn không được đáp ứng mới thấy khổ. Khổ nhất là từ cái khổ đó, do muốn thoát khổ, ta lại gây tạo thêm nhiều nhân khổ mới.

Thế gian này có rất nhiều thứ khiến ta bị nô lệ. Làm một kẻ nô lệ tình nguyện. Tiền tài, danh vọng, tình cảm, danh dự v.v... Ta tình nguyện hiến dâng dời mình cho chúng và đánh mất viên minh châu vô giá trong mỗi người.

« Khổ » và « tập », ở mặt khái niệm và giải thích, không có gì khó hiểu. Nhưng để thực hiểu về chúng, đòi hỏi ta phải như thật biết thế nào là « khổ », là « tập ». Kinh Lăng Già Tâm Ấn có đề cập đến ba tướng thánh trí mà Bồ-tát phải tu học, trong đó có tướng «Chỗ tự nguyện của tất cả chư Phật», là chỗ chư Phật trước tự nguyện tu sinh. Đại sư Hàm Thị bàn rằng: «Kinh Anh Lạc nói: ‘Chưa qua khổ đế khiến qua khổ đế, chưa hiểu tập đế khiến hiểu tập đế, chưa an đạo đế khiến an đạo đế, chưa được diệt đế khiến được diệt đế’. Đây là bốn hoằng thệ, y nơi giáo Biệt và Viên, đều duyên hai thứ Tứ thánh đế hữu tácvô tác. Chính là tướng Phật trước tự nguyện. Bồ-tát phát tâm không đồng với Nhị thừa».[6] Kinh qua khổ đế là một trong bốn hoằng thệ của hàng Bồ-tát Đại thừa. Bồ-tát tu hành không sợ khổ xứ. Bởi không tự bản thân mình trải qua, không thể hiểu khổ là gì. Cũng không thể hiểu được tha nhân khổ ra sao mà động chủng từ bi. Không khổ, khó từ bỏ những gì mang đến khổ. Cũng khó nhận ra gốc của khổ. Không nhận ra được thì khó mà giải quyết khổ cho đến nơi đến chốn.

Vào khổ xứ mà có « đạo » và « diệt » làm nền tảng thì khổ là môi trường giúp tâm người tu thêm vững vàng. Cũng là nơi để kiểm nghiệm cái gọi là « đạo » và « diệt » mà mình đã thực hànhthực chứng. Bởi tướng thánh trí cuối cùng mà Bồ-tát phải đạt là «Tất cả chỗ, chứng được cảnh giới tự tâm hiện lượng».[7] Không kinh qua khổ xứ, sao biết « đạo » mình học, « diệt » mình chứng ứng duyên đã tới đâu? Phồn vinh và hưởng thụ là quả báo của phúc đức, nhưng cũng là nhân của sự yếu hèn. Cảnh tĩnh lặng, cần thiết cho việc tu tậpan định tự tâm, song nếu bám vào đó để tìm một sự thanh nhàn thì thành họa cho bản thân. Xem ra, thứ mà người đời cho là quả báo của phúc đức, với người tu cũng chỉ là một loại khổ xứ đáng tỉnh giác hơn cả nghịch cảnh. Bởi nghịch cảnh, khiến con người muốn ly. Thuận cảnh, khiến con người dễ bám víu.

Muốn thẩm thấu được tính Duyên khởi của vạn pháp cũng phải từ thế giới sai biệt mà vào. Kinh nói: «Bồ-tát không bỏ các thứ sai biệt đã có ở thế gianxuất thế gian mà được chỗ thẩm bày của phi 108 câu».[8]

Nói chung, không có phần « chư Phật trước tự nguyện tu sinh » thì mọi thứ chỉ hạn cuộc trên sách vở. Song kinh luận không thể tải hết những gì mà chư Phật muốn nói với chúng sinh. Vì thế, chưa qua khổ đế khiến qua khổ đế…

Chết là khổ. Vì nó là sự ra đi, chia lìa, phân tán. Có những sự phân tán thấy hãi hùngđau đớn, không phải chỉ cho người chết mà cả cho người sống, như hàng loạt các vụ tai nạn xảy ra gần đây. Chết là một trạng thái mà có lẽ sau đó, con người không còn cơ hội để rút kinh nghiệm. Nhưng đa phần đều sợ chết vì nó vẫn in đậm nét đâu đó trong tiềm thức của mình về những lần chết trước. Một sự ẩn tàng chi phối con người khá mạnh khi đủ duyên, khiến ta sợ hãi khi nghĩ về cái chết. Cho đến khi giác ngộ được bản chất của chết là gì.

Sinh cũng khổ. Một đứa bé ra đời là cả một sự kỳ diệu của tạo hóa nhưng cũng chất khá nhiều khổ não trong đó. Chưa lần nào đau đớn mà tôi thực sự giác ngộ «đời là bể khổ» khi sinh con gái đầu lòng. Chỉ là chưa đủ năng lực tỉnh giác trong thân một trẻ sơ sinh để biết cái khổ trong vai trò sở sinh. Song khóc thét, không phải là trạng thái sung sướng hay vui mừng. Con nít chỉ khóc khi nó đau, hoặc nhu cầu ăn uống không được thỏa mãn hay ít nhất là đang cảm nhận một cảm giác bất an khi phải rời khỏi môi trường quen thuộc, một dạng của sự tích tụ, nhân duyên tạo ra khổ.

Còn khoảng giữa của sinh và tử? Không thiếu những khoảng đau khổ hư vọng. Đầy dẫy những bất ổn và lo toan.

Bất an, lo lắng v.v… không phải là trạng thái hạnh phúc khi bạn chưa giác ngộ được bản chất của nó và đặt nó trong tầm kiểm soát của bạn.

Tôi không chỉ có một mình. Tôi có gia đình. Có một ít bạn bè và người thân cùng láng giềng. Kiếm một người thứhai như chồng tôi không phải dễ. Tìm cho ra những đứa con như tôi đang có, không có nhiều. Nhưng tôi vẫn nói với bạn rằng tôi không thấy có gì phức tạp hơn đời sống một gia đình. Đời sống xã hội không phải không phức tạp (nơi nào có tập thể, nơi đó có ít nhiều phức tạp), nhưng vì nó « không phải là của mình », mình không phải đối diện chung chạ nhiều như cùng trong một nhà, nên với tôi đời sống gia đình vẫn là đời sống phức tạp nhất.

Đơn giản đã được phức tạp hóa vì những ý thích và quan niệm không trùng nhau, nhưng lại không biết cách buông xả để hòa hợp. Vì những thứ không thuộc tôi đã trở thành của tôi, nhưng vẫn không thể là của tôi. Sự khác biệt về ý nghĩ cũng như lối sống giữa các thế hệ trong cùng một gia đình khiến mọi chuyện dễ phát sinh. «Chúng ta không hạnh phúc khi đã kết hôn nhưng không kết hôn chúng ta lại không hạnh phúc. Chúng ta bất hạnh khi ở một mình, bất hạnh trong xã hội. Chúng ta giống như những con nhím tụ lại cùng nhau để sưởi ấm và cảm thấy bất tiện khi quá ép lại gần nhau, nhưng lại khổ sở khi rời xa nhau».[9] Đó là những mâu thuẫncon người trong xã hội ngày nay hay gặp phải. Ái dục kéo con người lại gần nhau nhưng quan điểm, định kiến, sở thíchthói quen khác nhau khiến con người không chịu đựng nổi nhau.

Ái dục, gần như là thứ chỉ đạochi phối suy nghĩ cũng như hành động của con người. Cảm giác hoan lạc hạnh phúc trong ái dục, dù chỉ là trên mặt tinh thần, cũng khiến con người dễ dính mắc vào đó. Không phải chỉ người đời, ngay cả người tu cũng không thoát được. Có khi còn mê mờ hơn cả người đời. Cho đến khi mặt duyên khởi của cái hoan lạc ấy xuất hiện. Khổ. Mới lôi người ta ra được ít nhiều. Nhờ khổ, mới biết tỉnh giác mà tính chuyện lìa bỏ. Không thì cũng như người đời, yêu thương, trông mong và cũng thể hiện sự tranh dành ghen tuông một cách rất tự nhiên, quên mất mình đang mặc chiếc áo thanh tịnh của Như Lai. Bởi tập tính ái dục ẩn sâu trong tiềm thức. Đủ duyên liền sinh khởi và dấy lực lôi mình đi. Chỉ khi khổ xuất hiện mới dừng được ít nhiều. Xem ra, ở mặt nào đó, « khổ » chính là « đạo ». Vì nó giúp ta từ bỏ.

Nietzche, trong một phút yếu đuối đã si tình cô nàng Lou Salomé nhưng Lou Salomé không đáp lại. Chàng thất vọngbỏ ra đi. Đi từ Ý đến những miền cao của dãy Alpes ở Sil, không yêu đàn ông cũng không yêu đàn bà mà chỉ cầu nguyện cho con người có thể siêu việt. Trên những miền cao cô quạnh đó, chàng thanh niên đã cảm hứng:

Tôi ngồi đây chờ đợi, chờ đợi hư vô

Đã vượt ngoài thiện ác…

Bây giờ tôi thưởng thức

Ánh sáng và bóng râm

Chỉ có ngày, hồ, ban trưa, thời gian vô tận…

Nhưng bỗng nhiên bạn hỡi ! Một đã thành hai.

Và Zarathustra lướt qua cạnh tôi.

Những câu văn chất đầy mùi đạo: Một tâm thức vượt ngoài thiện và ác, chỉ biết đến những gì đang hiển bày trong hiện tại. Và tâm từ bi nở hoa: «Hỡi những vì sao vĩ đại ! Hạnh phúc của ngươi sẽ là gì, nếu không có những người mà ngươi chiếu cho họ ánh sáng?».[10]

Tuy vậy, « khổ » không phải là « đạo ». Bởi nó giúp người ta từ bỏ nhưng lại không cho người ta một con đường dẫn đến thiên đường hay niết bàn. Người ta có thể từ bỏ cái khổ này nhưng có khi lại bước sang cái khổ khác. Chúng ta loay hoay trong những được, mất, hơn, thua… không có lối thoát và bế tắc với những suy nghĩ và hành động của mình. Cuối cùng là điên hay tự tử. Một cách mà chúng sinh thường dùng để giải quyết nỗi thống khổ ở đời.

Mười mấy năm trước, tôi đã nhìn thấy cảnh này tại bệnh viện Sài gòn: Một người phụ nữ đã tự tử bằng thuốc rầy. Cô nhập vào thân người con gái của gia đình mà cô oán hận và nhảy ra đường cho xe đụng để gia đình đưa cô gái vào đúng cái gường mà cô đã chết. Người mẹ khóc lóc van xin, nhưng người phụ nữ đau dớn đấm vào ngực mình mà nói: «Bà van xin tôi buông tha con bà, nhưng còn cái nóng bức đau đớn tôi đang chịu đây, ai buông tha cho tôi?». Thuốc rầy và nỗi uất hận khi chết đã làm cô đau đớn nóng bức không nguôi. Chỉ muốn trả thù. Tội là ở đó. Khổ có khi giúp ta từ bỏ nhưng có khi… Cho nên, cần « đạo ».

Có « đạo » để nhận ra « khổ », nhận ra gốc của « khổ ». Muốn hết « khổ » cũng phải nhờ « đạo ». Vì thế « đạo » được lập thành một chi phần riêng trong Tứ thánh đế. Nó là nhân đưa đến thiên đường hay niết bàn, chính là « diệt ».

Phần đoạn sinh tử khổ

Biến dịch sinh tử khổ

Theo luận Đại Thừa Khởi Tín, khổ có hai thứ : Khổ của phàm phu và khổ của thánh nhân.

Thánh nhân vẫn còn khổ?

Ngoại trừ Phật, còn lại chưa ai hết động. Dù động ở thánh nhân không thô phù như ở phàm phu nhưng cũng là động. «Động tức có khổ, vì quả chẳng lìa nhân». Song hình thức và mức độ khổ của hai không như nhau.

Phàm phu khổ vì danh lợi, cơm ăn, áo mặc, bất như ý mà khổ v.v... Phật nói chúng sinh có tám thứ khổ: Sinh, lão, bệnh, tử, ghét mà ở gần nhau, thương lại phải xa nhau, muốn mà không được, và cuối cùngngũ ấm thạnh khổ. Luận Du-già Sư Địa thì nói tám khổ là lạnh, nóng, đói, khát, không được tự do, tự làm khổ lấy mình, bị người khác bức bách, phải chịu ở một tư thế nào đó trong suốt thời gian dài.[11]

Thánh nhân khổ, vì chưa chứng được hoàn toàn tâm chân như, vẫn còn chịu cái khổ biến dịch vi tế của chuyển thức mà gốc trợ nó là Căn bản vô minh, là Vô minh trụ địa nói trong kinh Thắng Man. Vậy nên nói thánh nhân khổ là so với bốn đức thường, lạc, ngã tịnh của Phật mà nói khổ. Không như khổ của phàm phu, do nghiệp trói buộc mà khổ.

Phần đoạn sinh tử, theo luận Thành Duy Thức[12], là các nghiệp hữu lậu do thế lực của phiền não chướng làm duyên trợ giúp mà chiêu cảm ra quả Dị thục thô phù trong ba cõi với thân mạng sống lâu hay chết yểu. Do sức nhân duyên mà có sự hạn định, nên gọi là Phần đoạn sinh tử.

Luận Đại Thừa Khởi Tín nói «Tăng trưởng phân biệt sự thức huân tập khiến cho phàm phu phải chịu cái khổ do nghiệp trói buộc». Là đối với cảnh trước mắt, không biết duy tâm sở hiện, khởi phân biệt mà sinh yêu ghét. Từ cái yêu ghét đó sinh ra khổ vui, thức tâm khởi niệm tương ưng chẳng dứt. Đối với cảnh ưa thích sinh tâm chấp thủ tham muốn. Với cảnh không ưa thích, sinh tâm sân giận rồi tìm cách xa lìa. Từ đó mà tạo nghiệp. Y nghiệp đã tạo mà thọ báo, không thể tự tại, nên nói bị nghiệp trói buộc.

Bất tư nghì biến dịch sinh tử, là các nghiệp vô lậu do thế lực của sở tri chướng làm duyên trợ giúp chiêu cảm ra quả Dị thục với thân mạng thù thắng vi tế. Do sức bi nguyệnthân mạng này chuyển dịch không hạn định, nên gọi là biến dịch. Vì do định vô lậu làm duyên trợ giúp chiêu cảm, diệu dụng khó lường, nên nói «bất tư nghì». Thân biến dịch này là ý sinh thân (tùy ý nguyện mà sinh) của hàng Bồ-tát.

Luận Đại thừa Khởi Tín nói: «Nghiệp thức căn bản huân tập khiến cho A-la-hán, Bích Chi Phật và tất cả Bồ-tát phải chịu cái khổ sinh diệt». Tự thể chân như không có tự tánh, bất giác mà có vô minh. Vô minh huân trở lại chân như biến chân như thành nghiệp thức. Từ nghiệp thức đó mà có chuyển thứchiện thức v.v… tức Tam tếLục thô.

Nếu lấy Trí tướng trong Lục thô làm mốc thì phàm phu có đủ 9 tướng. Thánh nhân, tùy địa vị sâu cạn, chỉ bị các tướng từ Trí tướng trở lên chi phối. Như La-hán, phạm hạnh đã thành, không còn sinh tử, tức không còn bị nghiệp trói buộc, nên không bị cái khổ của phàm phu chi phối. Nhưng vì chưa chứng chân như, chưa mãn thành quả Phật, nên vẫn bị chuyển thức chi phối mà nói khổ.

Thân Biến dịch tuy là sinh tử khổ của thánh nhân nhưng là thành quả tu hành của hàng phàm phu trong một giai đoạn nào đó. Cho nên, với phàm phu, Biến dịch sinh tử không gọi là khổ. Chỉ gọi là khổ khi phàm phu đã thành thánh nhân và đứng ở gốc độ Tam tế Lục thô mà xét. Luận Đại Thừa Khởi Tín chỉ nói phàm phu chịu cái khổ của Phần đoạn sinh tử, không nói chịu hai cái khổ là Phần đoạn và Biến dịch. Lý của pháp Duyên khởi là vậy, niết bàn của hạng này có khi vẫn là khổ của hạng kia.

Theo Lăng Già Tâm Ấn,[13] phải là hàng Bồ-tát từ Sơ địa (đã đoạn hết kiến hoặc) trở lên mới có ý sinh thân. Song luận Đại Thừa Khởi Tín lại nói « tất cả Bồ-tát » là do «nhiếp vào phương tiện ngôn mà nói. Vì mỗi vị cuối cùng đều đến Phật địa».[14]

A-la-hán, Bích Chi Phật và hàng Bồ-tát đại lực đã đoạn hết phiền não chướng (Tứ trụ địa), nên không còn thọ thân Phần đoạn đời sau. Muốn tu Bồ-tát hạnh để được quả bồ-đề, phải nương thân Biến dịch, tức dùng nguyện lực của thắng định vô lậu, mà trở lại tam giới hành Bồ-tát đạo.[15]

Chân Hiền Tâm NSGN số 206
[1] Đối đãi: Đợi có đối nhau mới thành. Như ngón tay áp út, bản thân nó không dài, không ngắn. Chỉ khi so với ngón dài hơn là ngón giữa thì nó thành ngắn. So với ngón ngắn hơn là ngón út thì nó mới có giá trị dài.
Tương đãi: Đợi nhau mà thành. Như ngón tay được hình thành từ nhiều duyên, do tứ đại họp thành.
[2] Bài kinh Thánh Cầu – Kinh Trung Bộ.
[3] Kinh Đại Bát Niết Bàn – HT Trí Tịnh dịch.
[4] Phẩm Tứ đế - kinh Đại Bát Niết-bàn quyển 1.
[5] Câu Chuyện Triết Học – Will Durant – Trí Hải và Bửu đích dịch.
[6] Kinh Lăng Già Tâm Ấn - Đại sư Hàm Thị chú giải – Bản dịch của HT Thanh Từ.
[7] Đại sư Hàm Thị.
[8] Kinh Lăng Già Tâm ẤnĐại sư Hàm Thị trực giải. HT Thích Thanh Từ dịch.
[9] Schopenhauer – Câu Chuyện Triết Học của Will Durant. Bản dịch của Trí Hải và Bửu Đích.
[10] Câu Chuyện Triết Học của Will Durant. Bản dịch của Trí Hải và Bửu Đích.
[11] Tự điển Phật Học Huệ Quang.
[12] HT Thích Thiện Siêu dịch và chú. Phần Biến dịchPhần đoạn sinh tử dều được trích ra từ luận này.
[13] Lăng Già Tâm Ấn - Đại sư Hàm Thị trực giải. HT Thanh Từ dịch
[14] Lời của Tổ Hiền Thủ trong Hoa Nghiêm Thám Huyền Kí - Phẩm Thập Hạnh.
[15] Luận Thành Duy Thức – HT Thiện Siêu dịch và chú thích


Mục Lục
Tuyển Tập Kính Mừng Phật Đản
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12200)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15317)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12217)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11483)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14272)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 24608)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10692)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12500)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10382)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12347)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11645)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 12052)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13010)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11445)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 17447)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21398)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10679)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19240)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12408)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26047)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14382)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 13730)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16840)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17586)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13131)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12534)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11610)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11618)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 20486)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18995)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19569)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18654)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 15030)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15037)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13995)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15523)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 14557)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 15853)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12885)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18423)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15781)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11083)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53666)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12999)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16532)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15411)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19948)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15563)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15360)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15153)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 10394)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20356)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 15499)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13044)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20156)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13296)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29032)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11716)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18309)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant