Tất cả người xuất gia cũng như người tại gia, một khi phát tâmtu hành đều mong muốn bớt khổ được vui, đạt đếncon đườngvô ngã, thể nhậpchân tâmPhật tánh. Nói xa chút nữa, sau khi từ bỏ cõi đời này, nếu chưa được giải thoát sẽ sanh về cõi lành, trở về cõi đời này, được làm người tốt đẹp hơn, gặp được minh sư, gặp được chánh pháp. Nhưng tại sao có những lúc trong tâm ta nhiều khi không được an ổn, hạnh phúc? Là bởi vì chúng ta còn những kiết sử nên chưa thể nhập được chân tâmPhật tánh của chính mình.
“Kiết” là trói buộc, “sử” là sai khiến. Nếu chúng ta không chánh niệm, tỉnh giác trong giờ phút thực tại này thì những kiết sửsai khiến, trói buộc mình ý nghĩ bậy, thân làm bậy và lời nói không được chánh niệm.
Nếu những hạt giống còn tiềm ẩn trong tâm chúng ta như tật đố, ích kỷ, san tham, nếu chúng ta không khéo chuyển hóa thì sau khi từ giã cõi đời này sẽ đưa mình đến những cảnh giới xấu. Muốn chuyển hóa những hạt giống này phải dùng phương thuốc tùy hỷ.
II. NĂNG LỰC CỦA SỰ TÙY HỶ
Năng lực là một sức mạnh, là chất liệu mà nếu chúng ta không có thì tu mãi cũng vô ích. Tùy là theo, hỷ là vui. Tùy hỷ là vui theo.
Trong Kinh Pháp bảo đàn, Lục tổ lúc còn là cư sĩ ở chỗ Ngũ Tổ, khi được Ngũ Tổ bảo xuống nhà trù liền thưa: “Bạch Hòa thượng, tự tánh con thường sanh trí tuệ, tức là phước điền”.
Không phải quý Phật tử đến chùa bố thí, cúng dường, cất chùa, độ tăng là phước điền. Thấy tất cả mọi sự, mọi việc, chúng tatùy hỷ, vui theo, cái gì thấy được chỗ đó. Như quý vị làm việc thiện nhưng trong tâm còn tật đố, ích kỷ, san tham thì cái phước đó là phước tạo tác. Còn một người ngộ nhậptri kiếnBát Nhã rồi, từ tự tánh khởi dụng ra thì cái đó là chân thật.
Trong Kinh TứThập Nhị Chương, Phật dạy rất rõ: “ Một người bố thí và một người không bố thí nhưng tùy hỷ thì phước bằng nhau”. Tại sao? Tại vì người bố thí xả bỏ tâm tham, còn người tùy hỷxả tâm tật đố nên phước bằng nhau.
Đức Phật cũng khẳng định rằng muốn tìm được hạnh phúc, muốn tìm được sự an lạc là ngay trong cuộc sống giữa đời thường này thì phải cần đến năng lực của sự tùy hỷ..
Trong Kinh Tăng Chi Bộ, có một vị Tỳ kheo đến hỏi Phật: “Bạch Đức Thế tôn, làm thế nào một người tín thí trong cuộc đời này tu tập được an ổn, được hạnh phúc?”
Đức Phậttrả lời: “Này các Thầy Tỳ kheo, có một người buổi sáng ýnghĩ thanh tịnh, lời nóithanh tịnh, thân hành động thanh tịnh. Người đó được một buổi sáng an ổn và hạnh phúc. Này các Thầy Tỳ kheo, buổi trưa có một người ý nghĩ điều lành, miệng nói lời lành, thân hành động lành. Người đó được một buổi trưa an ổn và hạnh phúc. Này các Thầy Tỳ kheo, có một người buổi chiều ý nghĩ điều lành, miệng nói lời lành, thân làm điều lành. Người đó được một buổi chiều an ổn và hạnh phúc”.
Như vậy, đạo là ở chính mình, nhưng nếu chúng ta không khéo gạn lọc, không khéo chuyển hóa thì thân chúng ta làm điều ác, miệng chúng ta nói lời ác và ý nghĩ về điều ác.
Trong Kinh Tăng Chi Bộ, Phật dạy: “Người thù địch có bảy điều kiện mong muốn cho kẻ thù mình.
1. Mong cho kẻ thù mình nhan sắc xấu. (Mình tu học rồi, niệm dấy lên phải chuyển hóa, không sẽ tạo thành hạt giống xấu, đủ nhân, đủ duyên sẽ phát tác. Tu thiền là phải luôn luôn theo dõi từng tâm niệm của mình). 2. Mong cho kẻ thù với mình ngủ không được. 3. Mong cho kẻ thù với mình không được lợi ích, thường tổn giảm. 4. Mong cho kẻ thù với mình bị phá sản. 5. Mong cho kẻ thù với mình không được danh vọng. 6. Mong cho kẻ thù với mình không được bạn bè. 7. Mong cho kẻ thù với mình chết đọa đường dữ.
Phật thấy được vọng tưởngđiên đảo của chúng sanh nên nói ra để chỉ cho mình. Sau khi biết được rồi, lỡ tâm niệm có dấy lên thì tức khắc phải chuyển hóa. Mà muốn chuyển hoá được phải gia côngtu tập chứ không chỉ có lý thuyết suông.
III.CON ĐƯỜNGCHUYỂN HÓA NỘI TÂM
Con đườngchuyển hóa nội tâm này là con đường của GIỚI, ĐỊNH, TUỆ. Trong Kinh Pháp cú, Phật nói rõ: “Ý dẫn đầu các pháp, Ý làm chủ, ý tạo Nếu với ý ô nhiễm Nói lên hay hành động Khổ não bước theo sau Như xe chân vật kéo". Mình phải tùy hỷ, coi tất cả với mình là một.
Thiền sưThiên Cơ dạy: “Hạ thủ công phutu thiềnhoàn toàn ở chỗ giác ngộ, cần biết phàm phu một niệm giác tức một niệm là Phật. Phật một niệm chẳng giác tức một niệm là phàm phu”.
Tu là phải trên từng niệm. Mình phải tùy hỷ, coi tất cả mọi người và mình là một. “Bởi vì giác tức là Phật, Phật tức là giác. Phật với phàm phu chỉ tại giác cùng chẳng giác mà thôi. Tâm người có giác tức là có Phật. Giác hay mở cửa lục độ, hay vượt quakiếp hải ba a tăng kỳ, khắp làm lợi ích như cát bụi, khuếch trương phước huệ, được sáu thứ thần thông tròn đầy quả Phật trong một đời. Cảnh khổ trong địa ngục, nào vạc dầu sôi, sông băng nghe đến giác liền biến thànhhương lâm (rừng hương), uống nước đồng sôi, nuốt hòn sắt nóng nghe đến giác thảy đều sanh Tịnh độ.
Trong giờ phút thực tại này, nếu chúng ta mê mờ, tật đố, ích kỷ, nhưng sau khi nghe lời dạy của Hòa thượng, lại hạ thủcông phu nữa thì giác được phần nào, giải thoát được phần ấy. Đấy gọi là giác ngộ trong từng niệm. Có một vị Thiền sưNhật Bản nói: “Muốn biết người đó mai kia ra đi được tự tại, an ổn, hạnh phúc hay không thì trong cuộc sống giữa đời thường này nhìn vào hành động của người đó”.
Thấy người khác được hạnh phúc, được an ổn, được tài giỏi hơn mình, nếu chúng ta còn tâm cù cặn, tật đố, chắc chắn tu không có kết quả. Ngồi thiền mà chưa quét sạch được những tật đố, san tham thì đó là tướng ngồi thiền chứ không phải tâm ngồi thiền.
Học thiền phải kiểm nghiệm chỗ đó thì tu ít mà có kết quả nhiều. Còn gia côngtu hành, làm như khổ hạnh lắm mà không bỏ được tâm tật đố, san tham, ích kỷ thì thậm chí không bằng những người tu có vẻ như chơi, luôn tùy hỷ, tha thứ, có lòng thương, bao dung.
Trong Kinh A Hàm, có một hôm, Ngài A Nan cùng đi khất thực với Đức Phật, đi ngang qua một khu rừng, thấy một thầy Tỳ kheo đang ngủ, Phật mỉm cười. Đi một lúc xuống thành thị thì thấy một thầy Tỳ kheo đang ngồi thiền rất trang nghiêm, Phật nhíu mày. Ngài A Nan rất ngạc nhiên, bèn thưa: “Bạch Đức Thế Tôn, tại sao một thầy Tỳ kheonằm ngủ trong rừng mà Thế Tôn lại mỉm cười, còn thầy Tỳ kheo ngồi rất tinh tấn, trang nghiêm ở trong thành thị thì Thế Tôn lại nhíu mày?” Phật đáp: “Thầy Tỳ kheo ở trong rừng, tuy ngủ nhưng dậy là ngồi thiền. Còn Tỳ kheo ở thành thị sau khi xả thiền lại buông lung”.
Do đó, quý vị thấy Phật dạy ở đây là dạy về chuyển hóa nội tâm. Trong Chuyển nghiệp lục, có một người hỏi một thiền sư: “Tại sao Đề Bà Đạt Đa ở dưới địa ngục lại vui như cõi trời tam thiên?” Thiền sưtrả lời: “Nghiệp tại kỳ trung". Sống trong cõi dục mà tâm hằng giác tức cõi này là cõi Tịnh độ.
IV.CHUYỂN HÓATÂM THỨC VÀO CUỘC SỐNG GIỮA ĐỜI THƯỜNG
Thấy người khác được an ổn, hạnh phúc thì mình phải tùy hỷ, còn nếu sinh tâm tật đố, ích kỷ thì đó là bệnh, sẽ phải chịu quả báo xấu.
Một hôm Mạt Lợi phu nhân đến hỏi Đức Phật:
“Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ở đây một số nữ nhân dung sắc xấu, hình dánghạ liệt, nghèo khổ, tài sản ít, ảnh hưởnguy tín ít?” Phật nói: “Một số nữ nhân dung sắc xấu, hình dánghạ liệt, nghèo khổ, tài sản ít, ảnh hưởnguy tín ít là hay phẫn nộ, san tham, tật đố, ích kỷ.
“Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ở đây một số nữ nhân dung sắc xấu, hình dánghạ liệt nhưng giàu sang, tài sản lớn, sở hữu lớn, ảnh hưởnguy tín lớn?” Phật nói: “Một số nữ nhân dung sắc xấu, hình dánghạ liệt là hay phẫn nộ nhưng biết bố thí, biết cúng dường, biết tùy hỷ những sở hữu của người khác.
“Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ở đây một số nữ nhân dung sắc đẹp, ưa nhìn nhưng nghèo khổ, tài sản ít, sở hữu ít, ảnh hưởnguy tín ít?” Phật nói: “Một số nữ nhân dung sắc đẹp, được ưa nhìn nhưng nghèo khổ, tài sản ít, ảnh hưởnguy tín ít là do ít phẫn nộ nhưng không tùy hỷ, bố thí cúng dường”.
“Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ở đây một số nữ nhân dung sắc đẹp, ưa nhìn, tịnh tín, giàu sang, tài sản lớn, ảnh hưởnguy tín ít?” Phật nói: “Một số nữ nhân dung sắc đẹp, được ưa nhìn, tịnh tín, giàu sang, tài sản lớn, ảnh hưởnguy tín lớn”.
Trong Kinh Bảo Tích, phẩm Văn Thù Sư Lợithọ ký, Phật dạy: “Này Xá Lợi Phất, Bồ Tát thấy người được lợi ích sanh lòng tùy hỷ có 4 điều lợi ích: 1. Thường sanh tâm này, tôi nhiếp chúng sanh phải cho họ được lợi lạc. 2. Nay họ được lợi lạc nên tôi sanh lòng vui mừng. (Tu tập là phải luôn luôn kiểm soát được niệm để chuyển hóa từng tâm niệm của mình). 3. Chỗ ở có tài vật, vua quan, giặc cướp, nước, lửa đều chẳng xâm đoạt được. 4. Tùy sanh xứ nào, của báu và các con thảy đều đầy đủ, vua còn chẳng đố kỵ huống là người khác.
V. KẾT LUẬN
Vậy sau khi nghe bài này xong, chúng ta phải tu học như thế nào, ứng dụng thế nào trong cuộc sống giữa đời thường này?
Trong Kinh tiểu nghiệp phân biệt, Phật dạy:
“Ở đây, này thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông thấy người khác được quyền lợi, được tôn trọng, cung kính, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường, sanh tâm tật đố, ôm tâm tật đố. Do nghiệp như vậy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, nó sanh vào ác thú, nếu được sanh ở loài người thì nó chỉ được quyền thế nhỏ, con đường đưa đến quyền thế nhỏ. Này thanh niên, tức là tật đố, ôm tâm tật đố”.
“Ở đây, này thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông không có tâm tật đố, đối với người khác được quyền lợi, được tôn trọng, cung kính, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường, không sanh tâm tật đố. Do nghiệp như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, nó sanh vào thiện thú, nếu được sanh ở loài người thì nó được quyền thế lớn, con đường đưa đến quyền thế lớn. Này thanh niên, tức là không tật đố, không ôm tâm tật đố”.
Phải luôn luôn có tâm tùy hỷ đến tất cả mọi người, nếu chưa được giải thoát thì sau khi chết, năng lựctùy hỷ sẽ đẩy mình đến những cảnh giới tốt.
Qua bài pháp này, chúng ta phải tu học để phát triển lòng từ, phát triển tâm tùy hỷ đến tất cả mọi người. chính những nhân tố đó sau này giúp chúng tatu họcthành Phật, tác Tổ.
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộkiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bácphi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồthành tín trên đường Đạo.
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinhtriệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
Hãy nôn ra lòng sân hậnđộc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúc và an lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phậttrong suốtlịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóanhân loại, những luồng sinh khí mà đạo Phật đã thổi vào...
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
Khi chúng tahiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộvì lợi ích của tất cả chúng sinh.
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đạithịnh trịđặc biệt về mọi mặt...
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giảnbình dị của Lục Tổ.
Con ngườibình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sửtư tưởngPhật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhãba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiếtkhổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
Mặc dầuhư vọng phân biệt là một khái niệm liên quanmật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩtại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộgiáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thứccon người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạngThánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanhchiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.