Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quán Sát Thân Hành

04 Tháng Sáu 201510:00(Xem: 6358)
Quán Sát Thân Hành
QUÁN SÁT THÂN HÀNH

Nguyễn Thế Đăng


Quán Sát Thân HànhTánh Khôngbản tánh của tất cả mọi sự vật, mọi hiện tượng, mọi hành động của thân khẩu ý, nên ở đâu trong không gian nào thời gian nào chúng ta cũng có thể nhận ra nó, tương ưng với nó, an trụ trong nó, sống với nó.

Ở đây chúng ta nói về hành động đi, một hành động ai cũng làm hàng ngày, và nếu quan sát, nhìn sâu vào hành động đi này, dần dần chúng ta có thể thấy ra tánh Không.

Kinh Đại Bát-nhã hay nói đến ba luân không tịch. Trong sự việc đi này thì ba luân không tịch là: người đi, hành động đi, quãng đường đi, cả ba đều không tịch. Chúng ta sẽ chú ý nhiều nhất vào hành động đi.

Kinh Đại Bát-nhã, phẩm Vô sanh tam quán, theo luận Đại Trí độ, tức là phẩm Vô sanh của Đại Bát-nhã Cưu-ma-la-thập, phẩm Viễn ly của Đại Bát-nhã Huyền Trang, nói:

“Xá-lợi tử! Sắc chẳng sanh, thọ tưởng hành thức chẳng sanh. Tại sao thế? Vì bản tánh Không vậy. Mắt chẳng sanh cho đến ý chẳng sanh. Tại sao thế? Vì bản tánh Không vậy. Địa giới chẳng sanh, thủy hỏa phong không thức giới chẳng sanh. Tại sao thế? Vì bản tánh Không vậy. Thân hành chẳng sanh, khẩu hành chẳng sanh, ý hành chẳng sanh. Tại sao thế? Vì bản tánh Không vậy”.

Ở đây chúng ta chỉ nghiên cứu tìm hiểu “Thân hành chẳng sanh”. Thân hành là hành động của thân. Chúng ta chỉ tập trung vào một hành động của thân là đi.

Thân hành chẳng sanh là sự đi chẳng sanh. Nói cách khác là không có sự đi, và nói rộng hơn, không có người đi và không có khoảng cách đi.

Khi thiền định, thân chúng ta hầu như không có. Với thiền định, dù ngồi hay đi hay đứng, chúng ta đều cảm thấy thân mình như một cái bóng, một cái bóng nhẹ nhàng trong gương. Một đám mây lơ lửng không trọng lượng giữa trời. Như thế, với một tâm an định, thân chúng ta hầu như không có, thế là sự đi đã trở nên nhẹ nhàng, tự do, không vướng mắc rồi.

Chuyện kể, vào đời Trần, một hôm Phạm Ngũ Lão ngồi đan sọt bên vệ đường. Trần Hưng Đạo và đoàn tùy tùng đi qua. Quân lính dẹp đường thấy Phạm Ngũ Lão vẫn ngồi, bèn lấy giáo chích vào đùi chảy máu mà ông vẫn không hay biết. Sau đó ông được Trần Hưng Đạo mời về và trở thành tướng giỏi của nhà Trần. Chỉ sự tập trung, cái định đã làm cho thân hầu như vắng bặt.

Tóm lại, khi ý thức đặt mạnh mẽ vào thân, cảm thọ về thân sẽ mạnh mẽ, thân hiện hữu rõ ràng. Còn khi ý thức không chú ý vào thân, thân hầu như biến mất.

Với thiền định như một căn bản, chúng ta tiếp tục thiền quán, nghĩa là quan sát hành động đi bằng một tâm an định. Chúng ta xem xét hành động đi để xem nó có thật ở một mức độ nào.

1. Trong sát-na. Như khoa học, chúng ta phân tích sự vật và sự việc thành những yếu tố nhỏ nhất, mà khoa học gọi là nguyên tử về không gian, và khoảnh khắc về thời gian.

Ở đây chúng ta quan sát sự đi trong một đơn vị thời gian nhỏ nhất có thể hình dung được, theo Phật giáo gọi là sát-na.

Một thí dụ dễ hiểu là chiếu phim. Cuốn phim chỉ là một chuỗi liên tục những hình ảnh riêng rẽ và bất động, được kéo chạy với tốc độ khoảng 24 ảnh trong một giây, phù hợp với thời gian lưu ảnh trên võng mô của mắt người. Điều này khiến chúng ta thấy có sự cử động của nhân vật, sự chuyểnđộng của quang cảnh. Từng tấm ảnh phim thì chỉ có sự bất động của nhân vật.

Một cử động, như đang chạy, nhưng khi được chụp hình với máy có tốc độ nhanh, ở trong hình chúng ta đang bất động.

Chúng ta có thể lấy những thí dụ khác, nhưng có thể kết luận một điều, trong một sát-na chúng tathế giới chung quanh đều bất động.

Sát-na là một lát cắt dòng thời gian, trong lát cắt nhỏ nhất ấy, thời gian đứng lại, hay không có thời gian vì không có sự tương tục.

Từ một sát-na bất động, chúng ta quan sát sâu hơn và chúng ta thấy sự tương tục của các sát-na là một ảo tưởng. Thí dụ khi lần một xâu chuỗi, chúng ta thấy toàn bộ xâu chuỗi đều xoay, chúng ta ngỡ là các hột đều dính với nhau. Nhưng nếu nhìn vào một hột, hột đó vẫn tách riêng, không gắn kết dính liền với hột nào. Thí dụ về cuộn phim được chiếu ở trên cũng như vậy.

Sự tương tục là một ảo tưởng, là vô minh. Kinh Lăng-già nói:

Phàm phu tự vọng tưởng
Là có tướng tương tục
Nếu thấy biết chân thật
Lưới tương tục ắt đứt
Đối các thứ không biết
Theo lời nói nắm giữ
Thí như con tằm kia
Nhả tơ mà tự trói
Mê bị vọng tưởng trói
Chẳng quan sát tương tục.

Kinh nói tiếp: “Trong đây không có tướng tương tục và chẳng tương tục. Vì thấy tất cả pháp tịch tĩnh bất động nên vọng tưởng chẳng sanh. Bồ-tát thấy tất cả pháp tịch tĩnh bất động”.

Tóm lại, khi nhìn sự đi trong sát-na, chúng ta sẽ thấy sự đi là tịch tĩnh, nghĩa là bất động. Nói cách khác, sự đi là không có.

2. Duyên sanh. Quan sát sự đi, chúng ta tự hỏi: cái gì đi? ngón chân? bàn chân? bắp chân? đùi? xương bàn chân? xương cẳng chân? gân? máu? những dây thần kinh? những tế bào tạo nên các bộ phận đó?...

Nếu khôngý thức muốn và ra lệnh đi thì có sự đi không? Bằng cớ là khi bất tỉnh hay khi ngủ, chân vẫn có đó nhưng đâu có đi? Muốn đi phải có đất, vì không thể đi trong không khí, còn đi trong nước thì gọi là bơi. Muốn có sự đi phải có đủ đất nước lửa gió trong thân và ngoài thân.

Nếu không có mắt thấy, tai nghe thì có sự đi chăng? Nếu không có giày dép, áo quần, có thể có sự đi chăng?

Chỉ bấy nhiêu yếu tố ấy, điều kiện ấy cũng cho chúng ta thấy rằng sự đi tùy thuộc vào vô số nhân duyên, điều kiện. Chỉ thiếu một nhân duyên, điều kiện ấy thì không có sự đi. Thế nên, không có sự đi tự bản thân nó, hoàn toàn thuộc về nó, độc lập một mình nó.

Sự đi lệ thuộc vào vô số nhân duyên, điều kiện. Do đó, sự đi không hiện hữu độc lập. Sự đi tự đứng riêng mình nó, tự bản thân nó, thật sự là không có.

Không có sự đi thật sự nghĩa là “thân hành chẳng sanh” vậy.

3. Giả danh. Từ “đi” như thế nương dựa vào, phụ thuộc vào rất nhiều từ khác: ai đi? bắp chân, đùi, gân, đầu gối, dây thần kinh… Hơn nữa, đi đâu, đi nhanh hay chậm, đi tới hay lui, đi vào hay ra, đi chơi hay đi công việc, đi học hay đi chợ… Chỉ một từ đi thì tự nó vô nghĩa.

Nước chuyển động chúng ta có nói là nước đi chăng? Từ đi chỉ dùng cho loài người, rất ít dùng cho loài vật. Người ngoại quốc có dùng chữ đi như người Việt chăng? Chữ đi có thể thay thế bằng nhiều từ khác: bước, tiến tới, chuyển động, dạo, ra (thay vì đi phố), về (thay vì đi trở lại nhà)…

Chữ đi không độc lập mà phải nương dựa phụ thuộc vào nhiều từ khác. Đi chỉ là một danh tạm lập, tương đối, để dùng một cách quy ước cho đời sống quy ước tương đối và tạm thời của chúng ta. Cho nên đi chỉ là một từ giả danh, quy ước.

Kinh Đại Bát-nhã nói:

“Sắc chẳng phải là danh, danh chẳng phải là sắc. Thọ tưởng hành thức chẳng phải là danh, danh chẳng phải là thọ tưởng hành thức. Trong tất cả sắc không có danh, trong dang không có sắc, chẳng phải hợp chẳng phải tan, chỉ giả thi thiết. Tại sao thế? Vì tất cả sắc cùng danh đều tự tánh Không vậy. Trong tự tánh Không, hoặc sắc hoặc danh đều vô sở hữu bất khả đắc vậy”. (Phẩm Vô Biên Tế, hội thứ 2)

Khi thấy tính cách giả danh của từ đi, chúng ta cởi bỏ niềm tin tuyệt đối vào ngôn từý nghĩa. Không làm gì có một từ đi tuyệt đối để diễn tả một sự đi tuyệt đối. Đi chỉ là một từ quy ước, giả danh, dựa trên ngôn ngữ, lời nói.

Sự đi chỉ có trong giả danh, sự đi chỉ là một quy ước. Thân hành theo ý nghĩa tuyệt đối thì chẳng sanh, vì chỉ là giả danh.

Chúng tathể tham khảo Chương hai Quán sát sự chuyển động và không chuyển động (Phẩm Phá khứ lai) trong Trung Luận của Bồ-tát Long Thọ để có thêm những lối tiếp cận sâu sắc khác. Ở đây trích ra hai đoạn kệ cuối chương để thấy chúng cùng đi đến một mục đích, một kết luận: đó là nhận ra tánh Không trong sự đi:

Nếu thật có người đi
Không đi trong ba loại
Nếu người đi không thật
Không đi trong ba loại.
Vừa thật vừa không thật
Không đi trong ba loại
Thế nên, đi, người đi
Khoảng đi, đều không có.

Sự quan sát liên tục với một tâm định tĩnh về sự đi khiến chúng ta dần dần thấy và tin rằng tánh Không là Nền tảng của mọi hình thức đời sống. Trong giới hạn bài này tánh Không là chẳng sanh, bất động, không có tương tục, duyên sanhgiả danh.

Nhờ đi vào tánh Không “không tạo không tác, một tánh vô tánh” mà người ta có thể “lìa được tất cả bám nắm” và do đó được giải thoát:

“Tu-bồ-đề lại thưa rằng: Bạch Thế Tôn, tánh tất cả pháp khó thấu rõ được?

Đức Phật nói: Như vậy, vì tất cả pháp một tánh chẳng phải hai. Tu-bồ-đề! Phải biết các pháp là một tánh tức là vô tánh, các pháp là vô tánh tức là một tánh. Các pháp như vậy, một tánh vô tánh, không tạo không tác. Nếu Bồ-tát có thể biết được như thật các pháp có mặt là một tánh vô tánh, không tạo không tác, thì có thể xa lìa được tất cả bám nắm” (Phẩm Bám tướng và chẳng bám tướng, hội thứ 1).

Quan sát thân hành đưa đến tánh Không vô ngã vô pháp:

“Thân giới chẳng thể có (bất khả đắc) nên người làm chẳng thể có. Xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng thể có nên người làm chẳng thể có” (Phẩm Bám tướng và chẳng bám tướng, hội thứ 1).

Khi thấy được tánh Không, mọi hành vi cho đến công việc đều tương ưng với tánh Không:

“Đức Phật nói với Tu-bồ-đề: Bồ-tát này đạt tất cả pháp đồng với hư không, tự tánh tự tướng đều rốt ráo Không, đều vô sở hữu, chẳng thấy có pháp sanh nào đáng bám giữ. Năng sanh, sở sanh, khi sanh, chỗ sanh đều bất khả đắc. Vì sao thế? Tu-bồ-đề! Bồ-tát này trọn thành tác ý Giác ngộ vô thượng, thường chẳng xa lìa tâm Đại Bồ-đề. Bốn oai nghi của thân, đi, tới, vào, ra, dở chân hạ chân, tâm không tán loạn, đi đứng ngồi nằm, làm các sự nghiệp đều trụ chánh niệm” (Phẩm Bất thối chuyển, hội thứ 1).

Liên tục quan sát những tính chất của tánh Không qua sự đi, cho tới lúc chúng ta trực tiếp thấy được tánh Không (mà kinh Đại Bát -nhã gọi là “hiện quán”) mà không còn qua những dò xét, phân tích, lý luận của ý thức. Thấy trực tiếp tánh Không, đó gọi là trí huệ Bát-nhã. Thấy trực tiếp tánh Không chúng ta hiểu ngay câu nói bất hủ của Lục Tổ Huệ Năng: “Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, chỉ tại tâm các nhân giả động”.

Rồi chúng ta tiếp tục tương ưng với tánh Không, sống tánh Không trong mọi mặt của đời sống. Sự thực hành này sẽ đưa chúng ta giải thoát ngay giữa đời sống sắc thanh hương vị xúc pháp, mắt tai mũi lưỡi thân ý này.

Tóm lại, quan sát sự đi là một cách tiếp cận để nhận ra tánh Không chính là Nền tảng của đời sống thế gian. Rồi sống với cái thấy ấy, trong mọi giác quan, trong mọi đối tượng của giác quan để dần dần chứng nghiệm hoàn toàn tánh Không.

Người ấy vẫn ở trong sanh tử mà không bị sanh tử làm nhiễm ô, vì sống trong tánh Không thì không còn tạo nghiệp nhưng vẫn tiếp tục hành Bồ-tát hạnh:

“Bồ-tát này vì giáo hóa chúng sanh, tuy hiện trong các nẻo sanh tử lưu chuyển mà chẳng bị các chướng nghiệp phiền não kia nhiễm ô. Ví như người do biến hóa, tuy hiện các việc đi đứng ngồi nằm mà thật ra không có các nghiệp qua lại. Tuy hiện trong các nẻo sanh tử để làm lợi ích cho chúng sanh mà đối với chúng sanh và những công việc kia đều vô sở đắc” (Phẩm Nghĩa pháp không tạp, hội thứ 1).

Để tạm kết, chúng ta trích từ kinh Đại Bát-nhã:

“Tất cả pháp cũng như thế, đều chẳng phải cảnh chỗ hành của nhãn căn. Pháp chẳng hành pháp, pháp chẳng thấy pháp, pháp chẳng biết pháp. A-nan phải biết, tất cả pháp không kẻ hành, không kẻ thấy, không kẻ biết, không động không tác. Vì sao thế? Vì tất cả pháp đều vô tác dụng, kẻ nắm và cái được nắm tánh vốn xa lìa vậy.

Nếu Bồ-tát biết như thế, thấy như thế, hành như thế, tức là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng chẳng bám lấy các pháp tướng ấy” (Phẩm Chúc lụy, hội thứ 1).

Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 181


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16441)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11890)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12073)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12758)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12719)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10224)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13955)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10217)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13689)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16250)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11945)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12958)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11627)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12657)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10787)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10974)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10930)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11877)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12748)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11047)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12606)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11307)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12498)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14094)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10842)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10510)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11168)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11978)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13105)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12341)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15327)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14318)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12087)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15334)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11988)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12387)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11153)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12072)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10596)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12548)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13153)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14790)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12659)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16535)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19629)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12245)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13485)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11936)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11621)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12753)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14497)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15653)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13601)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12882)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 18001)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11148)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12160)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13032)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10287)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant