Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quán Sát Thân Hành

04 Tháng Sáu 201510:00(Xem: 6365)
Quán Sát Thân Hành
QUÁN SÁT THÂN HÀNH

Nguyễn Thế Đăng


Quán Sát Thân HànhTánh Khôngbản tánh của tất cả mọi sự vật, mọi hiện tượng, mọi hành động của thân khẩu ý, nên ở đâu trong không gian nào thời gian nào chúng ta cũng có thể nhận ra nó, tương ưng với nó, an trụ trong nó, sống với nó.

Ở đây chúng ta nói về hành động đi, một hành động ai cũng làm hàng ngày, và nếu quan sát, nhìn sâu vào hành động đi này, dần dần chúng ta có thể thấy ra tánh Không.

Kinh Đại Bát-nhã hay nói đến ba luân không tịch. Trong sự việc đi này thì ba luân không tịch là: người đi, hành động đi, quãng đường đi, cả ba đều không tịch. Chúng ta sẽ chú ý nhiều nhất vào hành động đi.

Kinh Đại Bát-nhã, phẩm Vô sanh tam quán, theo luận Đại Trí độ, tức là phẩm Vô sanh của Đại Bát-nhã Cưu-ma-la-thập, phẩm Viễn ly của Đại Bát-nhã Huyền Trang, nói:

“Xá-lợi tử! Sắc chẳng sanh, thọ tưởng hành thức chẳng sanh. Tại sao thế? Vì bản tánh Không vậy. Mắt chẳng sanh cho đến ý chẳng sanh. Tại sao thế? Vì bản tánh Không vậy. Địa giới chẳng sanh, thủy hỏa phong không thức giới chẳng sanh. Tại sao thế? Vì bản tánh Không vậy. Thân hành chẳng sanh, khẩu hành chẳng sanh, ý hành chẳng sanh. Tại sao thế? Vì bản tánh Không vậy”.

Ở đây chúng ta chỉ nghiên cứu tìm hiểu “Thân hành chẳng sanh”. Thân hành là hành động của thân. Chúng ta chỉ tập trung vào một hành động của thân là đi.

Thân hành chẳng sanh là sự đi chẳng sanh. Nói cách khác là không có sự đi, và nói rộng hơn, không có người đi và không có khoảng cách đi.

Khi thiền định, thân chúng ta hầu như không có. Với thiền định, dù ngồi hay đi hay đứng, chúng ta đều cảm thấy thân mình như một cái bóng, một cái bóng nhẹ nhàng trong gương. Một đám mây lơ lửng không trọng lượng giữa trời. Như thế, với một tâm an định, thân chúng ta hầu như không có, thế là sự đi đã trở nên nhẹ nhàng, tự do, không vướng mắc rồi.

Chuyện kể, vào đời Trần, một hôm Phạm Ngũ Lão ngồi đan sọt bên vệ đường. Trần Hưng Đạo và đoàn tùy tùng đi qua. Quân lính dẹp đường thấy Phạm Ngũ Lão vẫn ngồi, bèn lấy giáo chích vào đùi chảy máu mà ông vẫn không hay biết. Sau đó ông được Trần Hưng Đạo mời về và trở thành tướng giỏi của nhà Trần. Chỉ sự tập trung, cái định đã làm cho thân hầu như vắng bặt.

Tóm lại, khi ý thức đặt mạnh mẽ vào thân, cảm thọ về thân sẽ mạnh mẽ, thân hiện hữu rõ ràng. Còn khi ý thức không chú ý vào thân, thân hầu như biến mất.

Với thiền định như một căn bản, chúng ta tiếp tục thiền quán, nghĩa là quan sát hành động đi bằng một tâm an định. Chúng ta xem xét hành động đi để xem nó có thật ở một mức độ nào.

1. Trong sát-na. Như khoa học, chúng ta phân tích sự vật và sự việc thành những yếu tố nhỏ nhất, mà khoa học gọi là nguyên tử về không gian, và khoảnh khắc về thời gian.

Ở đây chúng ta quan sát sự đi trong một đơn vị thời gian nhỏ nhất có thể hình dung được, theo Phật giáo gọi là sát-na.

Một thí dụ dễ hiểu là chiếu phim. Cuốn phim chỉ là một chuỗi liên tục những hình ảnh riêng rẽ và bất động, được kéo chạy với tốc độ khoảng 24 ảnh trong một giây, phù hợp với thời gian lưu ảnh trên võng mô của mắt người. Điều này khiến chúng ta thấy có sự cử động của nhân vật, sự chuyểnđộng của quang cảnh. Từng tấm ảnh phim thì chỉ có sự bất động của nhân vật.

Một cử động, như đang chạy, nhưng khi được chụp hình với máy có tốc độ nhanh, ở trong hình chúng ta đang bất động.

Chúng ta có thể lấy những thí dụ khác, nhưng có thể kết luận một điều, trong một sát-na chúng tathế giới chung quanh đều bất động.

Sát-na là một lát cắt dòng thời gian, trong lát cắt nhỏ nhất ấy, thời gian đứng lại, hay không có thời gian vì không có sự tương tục.

Từ một sát-na bất động, chúng ta quan sát sâu hơn và chúng ta thấy sự tương tục của các sát-na là một ảo tưởng. Thí dụ khi lần một xâu chuỗi, chúng ta thấy toàn bộ xâu chuỗi đều xoay, chúng ta ngỡ là các hột đều dính với nhau. Nhưng nếu nhìn vào một hột, hột đó vẫn tách riêng, không gắn kết dính liền với hột nào. Thí dụ về cuộn phim được chiếu ở trên cũng như vậy.

Sự tương tục là một ảo tưởng, là vô minh. Kinh Lăng-già nói:

Phàm phu tự vọng tưởng
Là có tướng tương tục
Nếu thấy biết chân thật
Lưới tương tục ắt đứt
Đối các thứ không biết
Theo lời nói nắm giữ
Thí như con tằm kia
Nhả tơ mà tự trói
Mê bị vọng tưởng trói
Chẳng quan sát tương tục.

Kinh nói tiếp: “Trong đây không có tướng tương tục và chẳng tương tục. Vì thấy tất cả pháp tịch tĩnh bất động nên vọng tưởng chẳng sanh. Bồ-tát thấy tất cả pháp tịch tĩnh bất động”.

Tóm lại, khi nhìn sự đi trong sát-na, chúng ta sẽ thấy sự đi là tịch tĩnh, nghĩa là bất động. Nói cách khác, sự đi là không có.

2. Duyên sanh. Quan sát sự đi, chúng ta tự hỏi: cái gì đi? ngón chân? bàn chân? bắp chân? đùi? xương bàn chân? xương cẳng chân? gân? máu? những dây thần kinh? những tế bào tạo nên các bộ phận đó?...

Nếu khôngý thức muốn và ra lệnh đi thì có sự đi không? Bằng cớ là khi bất tỉnh hay khi ngủ, chân vẫn có đó nhưng đâu có đi? Muốn đi phải có đất, vì không thể đi trong không khí, còn đi trong nước thì gọi là bơi. Muốn có sự đi phải có đủ đất nước lửa gió trong thân và ngoài thân.

Nếu không có mắt thấy, tai nghe thì có sự đi chăng? Nếu không có giày dép, áo quần, có thể có sự đi chăng?

Chỉ bấy nhiêu yếu tố ấy, điều kiện ấy cũng cho chúng ta thấy rằng sự đi tùy thuộc vào vô số nhân duyên, điều kiện. Chỉ thiếu một nhân duyên, điều kiện ấy thì không có sự đi. Thế nên, không có sự đi tự bản thân nó, hoàn toàn thuộc về nó, độc lập một mình nó.

Sự đi lệ thuộc vào vô số nhân duyên, điều kiện. Do đó, sự đi không hiện hữu độc lập. Sự đi tự đứng riêng mình nó, tự bản thân nó, thật sự là không có.

Không có sự đi thật sự nghĩa là “thân hành chẳng sanh” vậy.

3. Giả danh. Từ “đi” như thế nương dựa vào, phụ thuộc vào rất nhiều từ khác: ai đi? bắp chân, đùi, gân, đầu gối, dây thần kinh… Hơn nữa, đi đâu, đi nhanh hay chậm, đi tới hay lui, đi vào hay ra, đi chơi hay đi công việc, đi học hay đi chợ… Chỉ một từ đi thì tự nó vô nghĩa.

Nước chuyển động chúng ta có nói là nước đi chăng? Từ đi chỉ dùng cho loài người, rất ít dùng cho loài vật. Người ngoại quốc có dùng chữ đi như người Việt chăng? Chữ đi có thể thay thế bằng nhiều từ khác: bước, tiến tới, chuyển động, dạo, ra (thay vì đi phố), về (thay vì đi trở lại nhà)…

Chữ đi không độc lập mà phải nương dựa phụ thuộc vào nhiều từ khác. Đi chỉ là một danh tạm lập, tương đối, để dùng một cách quy ước cho đời sống quy ước tương đối và tạm thời của chúng ta. Cho nên đi chỉ là một từ giả danh, quy ước.

Kinh Đại Bát-nhã nói:

“Sắc chẳng phải là danh, danh chẳng phải là sắc. Thọ tưởng hành thức chẳng phải là danh, danh chẳng phải là thọ tưởng hành thức. Trong tất cả sắc không có danh, trong dang không có sắc, chẳng phải hợp chẳng phải tan, chỉ giả thi thiết. Tại sao thế? Vì tất cả sắc cùng danh đều tự tánh Không vậy. Trong tự tánh Không, hoặc sắc hoặc danh đều vô sở hữu bất khả đắc vậy”. (Phẩm Vô Biên Tế, hội thứ 2)

Khi thấy tính cách giả danh của từ đi, chúng ta cởi bỏ niềm tin tuyệt đối vào ngôn từý nghĩa. Không làm gì có một từ đi tuyệt đối để diễn tả một sự đi tuyệt đối. Đi chỉ là một từ quy ước, giả danh, dựa trên ngôn ngữ, lời nói.

Sự đi chỉ có trong giả danh, sự đi chỉ là một quy ước. Thân hành theo ý nghĩa tuyệt đối thì chẳng sanh, vì chỉ là giả danh.

Chúng tathể tham khảo Chương hai Quán sát sự chuyển động và không chuyển động (Phẩm Phá khứ lai) trong Trung Luận của Bồ-tát Long Thọ để có thêm những lối tiếp cận sâu sắc khác. Ở đây trích ra hai đoạn kệ cuối chương để thấy chúng cùng đi đến một mục đích, một kết luận: đó là nhận ra tánh Không trong sự đi:

Nếu thật có người đi
Không đi trong ba loại
Nếu người đi không thật
Không đi trong ba loại.
Vừa thật vừa không thật
Không đi trong ba loại
Thế nên, đi, người đi
Khoảng đi, đều không có.

Sự quan sát liên tục với một tâm định tĩnh về sự đi khiến chúng ta dần dần thấy và tin rằng tánh Không là Nền tảng của mọi hình thức đời sống. Trong giới hạn bài này tánh Không là chẳng sanh, bất động, không có tương tục, duyên sanhgiả danh.

Nhờ đi vào tánh Không “không tạo không tác, một tánh vô tánh” mà người ta có thể “lìa được tất cả bám nắm” và do đó được giải thoát:

“Tu-bồ-đề lại thưa rằng: Bạch Thế Tôn, tánh tất cả pháp khó thấu rõ được?

Đức Phật nói: Như vậy, vì tất cả pháp một tánh chẳng phải hai. Tu-bồ-đề! Phải biết các pháp là một tánh tức là vô tánh, các pháp là vô tánh tức là một tánh. Các pháp như vậy, một tánh vô tánh, không tạo không tác. Nếu Bồ-tát có thể biết được như thật các pháp có mặt là một tánh vô tánh, không tạo không tác, thì có thể xa lìa được tất cả bám nắm” (Phẩm Bám tướng và chẳng bám tướng, hội thứ 1).

Quan sát thân hành đưa đến tánh Không vô ngã vô pháp:

“Thân giới chẳng thể có (bất khả đắc) nên người làm chẳng thể có. Xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng thể có nên người làm chẳng thể có” (Phẩm Bám tướng và chẳng bám tướng, hội thứ 1).

Khi thấy được tánh Không, mọi hành vi cho đến công việc đều tương ưng với tánh Không:

“Đức Phật nói với Tu-bồ-đề: Bồ-tát này đạt tất cả pháp đồng với hư không, tự tánh tự tướng đều rốt ráo Không, đều vô sở hữu, chẳng thấy có pháp sanh nào đáng bám giữ. Năng sanh, sở sanh, khi sanh, chỗ sanh đều bất khả đắc. Vì sao thế? Tu-bồ-đề! Bồ-tát này trọn thành tác ý Giác ngộ vô thượng, thường chẳng xa lìa tâm Đại Bồ-đề. Bốn oai nghi của thân, đi, tới, vào, ra, dở chân hạ chân, tâm không tán loạn, đi đứng ngồi nằm, làm các sự nghiệp đều trụ chánh niệm” (Phẩm Bất thối chuyển, hội thứ 1).

Liên tục quan sát những tính chất của tánh Không qua sự đi, cho tới lúc chúng ta trực tiếp thấy được tánh Không (mà kinh Đại Bát -nhã gọi là “hiện quán”) mà không còn qua những dò xét, phân tích, lý luận của ý thức. Thấy trực tiếp tánh Không, đó gọi là trí huệ Bát-nhã. Thấy trực tiếp tánh Không chúng ta hiểu ngay câu nói bất hủ của Lục Tổ Huệ Năng: “Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, chỉ tại tâm các nhân giả động”.

Rồi chúng ta tiếp tục tương ưng với tánh Không, sống tánh Không trong mọi mặt của đời sống. Sự thực hành này sẽ đưa chúng ta giải thoát ngay giữa đời sống sắc thanh hương vị xúc pháp, mắt tai mũi lưỡi thân ý này.

Tóm lại, quan sát sự đi là một cách tiếp cận để nhận ra tánh Không chính là Nền tảng của đời sống thế gian. Rồi sống với cái thấy ấy, trong mọi giác quan, trong mọi đối tượng của giác quan để dần dần chứng nghiệm hoàn toàn tánh Không.

Người ấy vẫn ở trong sanh tử mà không bị sanh tử làm nhiễm ô, vì sống trong tánh Không thì không còn tạo nghiệp nhưng vẫn tiếp tục hành Bồ-tát hạnh:

“Bồ-tát này vì giáo hóa chúng sanh, tuy hiện trong các nẻo sanh tử lưu chuyển mà chẳng bị các chướng nghiệp phiền não kia nhiễm ô. Ví như người do biến hóa, tuy hiện các việc đi đứng ngồi nằm mà thật ra không có các nghiệp qua lại. Tuy hiện trong các nẻo sanh tử để làm lợi ích cho chúng sanh mà đối với chúng sanh và những công việc kia đều vô sở đắc” (Phẩm Nghĩa pháp không tạp, hội thứ 1).

Để tạm kết, chúng ta trích từ kinh Đại Bát-nhã:

“Tất cả pháp cũng như thế, đều chẳng phải cảnh chỗ hành của nhãn căn. Pháp chẳng hành pháp, pháp chẳng thấy pháp, pháp chẳng biết pháp. A-nan phải biết, tất cả pháp không kẻ hành, không kẻ thấy, không kẻ biết, không động không tác. Vì sao thế? Vì tất cả pháp đều vô tác dụng, kẻ nắm và cái được nắm tánh vốn xa lìa vậy.

Nếu Bồ-tát biết như thế, thấy như thế, hành như thế, tức là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng chẳng bám lấy các pháp tướng ấy” (Phẩm Chúc lụy, hội thứ 1).

Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 181


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 37202)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28236)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28845)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 27116)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 34524)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27759)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 33189)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28507)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30013)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25448)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 51201)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26641)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28557)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 24290)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27399)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31847)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30116)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27640)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35367)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27387)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 31679)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 24116)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 22960)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
(Xem: 26563)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28189)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29301)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33190)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21701)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 20550)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22167)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23904)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22786)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23119)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30334)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 21729)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 19205)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20107)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 32638)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33947)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27707)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 23771)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 23152)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 28078)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 19164)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24510)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21385)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23776)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 29328)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 30953)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25265)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 20066)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 18994)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20091)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 19997)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 19372)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22523)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 31077)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 19655)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 19648)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23923)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant