Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quán Sát Thân Hành

04 Tháng Sáu 201510:00(Xem: 6362)
Quán Sát Thân Hành
QUÁN SÁT THÂN HÀNH

Nguyễn Thế Đăng


Quán Sát Thân HànhTánh Khôngbản tánh của tất cả mọi sự vật, mọi hiện tượng, mọi hành động của thân khẩu ý, nên ở đâu trong không gian nào thời gian nào chúng ta cũng có thể nhận ra nó, tương ưng với nó, an trụ trong nó, sống với nó.

Ở đây chúng ta nói về hành động đi, một hành động ai cũng làm hàng ngày, và nếu quan sát, nhìn sâu vào hành động đi này, dần dần chúng ta có thể thấy ra tánh Không.

Kinh Đại Bát-nhã hay nói đến ba luân không tịch. Trong sự việc đi này thì ba luân không tịch là: người đi, hành động đi, quãng đường đi, cả ba đều không tịch. Chúng ta sẽ chú ý nhiều nhất vào hành động đi.

Kinh Đại Bát-nhã, phẩm Vô sanh tam quán, theo luận Đại Trí độ, tức là phẩm Vô sanh của Đại Bát-nhã Cưu-ma-la-thập, phẩm Viễn ly của Đại Bát-nhã Huyền Trang, nói:

“Xá-lợi tử! Sắc chẳng sanh, thọ tưởng hành thức chẳng sanh. Tại sao thế? Vì bản tánh Không vậy. Mắt chẳng sanh cho đến ý chẳng sanh. Tại sao thế? Vì bản tánh Không vậy. Địa giới chẳng sanh, thủy hỏa phong không thức giới chẳng sanh. Tại sao thế? Vì bản tánh Không vậy. Thân hành chẳng sanh, khẩu hành chẳng sanh, ý hành chẳng sanh. Tại sao thế? Vì bản tánh Không vậy”.

Ở đây chúng ta chỉ nghiên cứu tìm hiểu “Thân hành chẳng sanh”. Thân hành là hành động của thân. Chúng ta chỉ tập trung vào một hành động của thân là đi.

Thân hành chẳng sanh là sự đi chẳng sanh. Nói cách khác là không có sự đi, và nói rộng hơn, không có người đi và không có khoảng cách đi.

Khi thiền định, thân chúng ta hầu như không có. Với thiền định, dù ngồi hay đi hay đứng, chúng ta đều cảm thấy thân mình như một cái bóng, một cái bóng nhẹ nhàng trong gương. Một đám mây lơ lửng không trọng lượng giữa trời. Như thế, với một tâm an định, thân chúng ta hầu như không có, thế là sự đi đã trở nên nhẹ nhàng, tự do, không vướng mắc rồi.

Chuyện kể, vào đời Trần, một hôm Phạm Ngũ Lão ngồi đan sọt bên vệ đường. Trần Hưng Đạo và đoàn tùy tùng đi qua. Quân lính dẹp đường thấy Phạm Ngũ Lão vẫn ngồi, bèn lấy giáo chích vào đùi chảy máu mà ông vẫn không hay biết. Sau đó ông được Trần Hưng Đạo mời về và trở thành tướng giỏi của nhà Trần. Chỉ sự tập trung, cái định đã làm cho thân hầu như vắng bặt.

Tóm lại, khi ý thức đặt mạnh mẽ vào thân, cảm thọ về thân sẽ mạnh mẽ, thân hiện hữu rõ ràng. Còn khi ý thức không chú ý vào thân, thân hầu như biến mất.

Với thiền định như một căn bản, chúng ta tiếp tục thiền quán, nghĩa là quan sát hành động đi bằng một tâm an định. Chúng ta xem xét hành động đi để xem nó có thật ở một mức độ nào.

1. Trong sát-na. Như khoa học, chúng ta phân tích sự vật và sự việc thành những yếu tố nhỏ nhất, mà khoa học gọi là nguyên tử về không gian, và khoảnh khắc về thời gian.

Ở đây chúng ta quan sát sự đi trong một đơn vị thời gian nhỏ nhất có thể hình dung được, theo Phật giáo gọi là sát-na.

Một thí dụ dễ hiểu là chiếu phim. Cuốn phim chỉ là một chuỗi liên tục những hình ảnh riêng rẽ và bất động, được kéo chạy với tốc độ khoảng 24 ảnh trong một giây, phù hợp với thời gian lưu ảnh trên võng mô của mắt người. Điều này khiến chúng ta thấy có sự cử động của nhân vật, sự chuyểnđộng của quang cảnh. Từng tấm ảnh phim thì chỉ có sự bất động của nhân vật.

Một cử động, như đang chạy, nhưng khi được chụp hình với máy có tốc độ nhanh, ở trong hình chúng ta đang bất động.

Chúng ta có thể lấy những thí dụ khác, nhưng có thể kết luận một điều, trong một sát-na chúng tathế giới chung quanh đều bất động.

Sát-na là một lát cắt dòng thời gian, trong lát cắt nhỏ nhất ấy, thời gian đứng lại, hay không có thời gian vì không có sự tương tục.

Từ một sát-na bất động, chúng ta quan sát sâu hơn và chúng ta thấy sự tương tục của các sát-na là một ảo tưởng. Thí dụ khi lần một xâu chuỗi, chúng ta thấy toàn bộ xâu chuỗi đều xoay, chúng ta ngỡ là các hột đều dính với nhau. Nhưng nếu nhìn vào một hột, hột đó vẫn tách riêng, không gắn kết dính liền với hột nào. Thí dụ về cuộn phim được chiếu ở trên cũng như vậy.

Sự tương tục là một ảo tưởng, là vô minh. Kinh Lăng-già nói:

Phàm phu tự vọng tưởng
Là có tướng tương tục
Nếu thấy biết chân thật
Lưới tương tục ắt đứt
Đối các thứ không biết
Theo lời nói nắm giữ
Thí như con tằm kia
Nhả tơ mà tự trói
Mê bị vọng tưởng trói
Chẳng quan sát tương tục.

Kinh nói tiếp: “Trong đây không có tướng tương tục và chẳng tương tục. Vì thấy tất cả pháp tịch tĩnh bất động nên vọng tưởng chẳng sanh. Bồ-tát thấy tất cả pháp tịch tĩnh bất động”.

Tóm lại, khi nhìn sự đi trong sát-na, chúng ta sẽ thấy sự đi là tịch tĩnh, nghĩa là bất động. Nói cách khác, sự đi là không có.

2. Duyên sanh. Quan sát sự đi, chúng ta tự hỏi: cái gì đi? ngón chân? bàn chân? bắp chân? đùi? xương bàn chân? xương cẳng chân? gân? máu? những dây thần kinh? những tế bào tạo nên các bộ phận đó?...

Nếu khôngý thức muốn và ra lệnh đi thì có sự đi không? Bằng cớ là khi bất tỉnh hay khi ngủ, chân vẫn có đó nhưng đâu có đi? Muốn đi phải có đất, vì không thể đi trong không khí, còn đi trong nước thì gọi là bơi. Muốn có sự đi phải có đủ đất nước lửa gió trong thân và ngoài thân.

Nếu không có mắt thấy, tai nghe thì có sự đi chăng? Nếu không có giày dép, áo quần, có thể có sự đi chăng?

Chỉ bấy nhiêu yếu tố ấy, điều kiện ấy cũng cho chúng ta thấy rằng sự đi tùy thuộc vào vô số nhân duyên, điều kiện. Chỉ thiếu một nhân duyên, điều kiện ấy thì không có sự đi. Thế nên, không có sự đi tự bản thân nó, hoàn toàn thuộc về nó, độc lập một mình nó.

Sự đi lệ thuộc vào vô số nhân duyên, điều kiện. Do đó, sự đi không hiện hữu độc lập. Sự đi tự đứng riêng mình nó, tự bản thân nó, thật sự là không có.

Không có sự đi thật sự nghĩa là “thân hành chẳng sanh” vậy.

3. Giả danh. Từ “đi” như thế nương dựa vào, phụ thuộc vào rất nhiều từ khác: ai đi? bắp chân, đùi, gân, đầu gối, dây thần kinh… Hơn nữa, đi đâu, đi nhanh hay chậm, đi tới hay lui, đi vào hay ra, đi chơi hay đi công việc, đi học hay đi chợ… Chỉ một từ đi thì tự nó vô nghĩa.

Nước chuyển động chúng ta có nói là nước đi chăng? Từ đi chỉ dùng cho loài người, rất ít dùng cho loài vật. Người ngoại quốc có dùng chữ đi như người Việt chăng? Chữ đi có thể thay thế bằng nhiều từ khác: bước, tiến tới, chuyển động, dạo, ra (thay vì đi phố), về (thay vì đi trở lại nhà)…

Chữ đi không độc lập mà phải nương dựa phụ thuộc vào nhiều từ khác. Đi chỉ là một danh tạm lập, tương đối, để dùng một cách quy ước cho đời sống quy ước tương đối và tạm thời của chúng ta. Cho nên đi chỉ là một từ giả danh, quy ước.

Kinh Đại Bát-nhã nói:

“Sắc chẳng phải là danh, danh chẳng phải là sắc. Thọ tưởng hành thức chẳng phải là danh, danh chẳng phải là thọ tưởng hành thức. Trong tất cả sắc không có danh, trong dang không có sắc, chẳng phải hợp chẳng phải tan, chỉ giả thi thiết. Tại sao thế? Vì tất cả sắc cùng danh đều tự tánh Không vậy. Trong tự tánh Không, hoặc sắc hoặc danh đều vô sở hữu bất khả đắc vậy”. (Phẩm Vô Biên Tế, hội thứ 2)

Khi thấy tính cách giả danh của từ đi, chúng ta cởi bỏ niềm tin tuyệt đối vào ngôn từý nghĩa. Không làm gì có một từ đi tuyệt đối để diễn tả một sự đi tuyệt đối. Đi chỉ là một từ quy ước, giả danh, dựa trên ngôn ngữ, lời nói.

Sự đi chỉ có trong giả danh, sự đi chỉ là một quy ước. Thân hành theo ý nghĩa tuyệt đối thì chẳng sanh, vì chỉ là giả danh.

Chúng tathể tham khảo Chương hai Quán sát sự chuyển động và không chuyển động (Phẩm Phá khứ lai) trong Trung Luận của Bồ-tát Long Thọ để có thêm những lối tiếp cận sâu sắc khác. Ở đây trích ra hai đoạn kệ cuối chương để thấy chúng cùng đi đến một mục đích, một kết luận: đó là nhận ra tánh Không trong sự đi:

Nếu thật có người đi
Không đi trong ba loại
Nếu người đi không thật
Không đi trong ba loại.
Vừa thật vừa không thật
Không đi trong ba loại
Thế nên, đi, người đi
Khoảng đi, đều không có.

Sự quan sát liên tục với một tâm định tĩnh về sự đi khiến chúng ta dần dần thấy và tin rằng tánh Không là Nền tảng của mọi hình thức đời sống. Trong giới hạn bài này tánh Không là chẳng sanh, bất động, không có tương tục, duyên sanhgiả danh.

Nhờ đi vào tánh Không “không tạo không tác, một tánh vô tánh” mà người ta có thể “lìa được tất cả bám nắm” và do đó được giải thoát:

“Tu-bồ-đề lại thưa rằng: Bạch Thế Tôn, tánh tất cả pháp khó thấu rõ được?

Đức Phật nói: Như vậy, vì tất cả pháp một tánh chẳng phải hai. Tu-bồ-đề! Phải biết các pháp là một tánh tức là vô tánh, các pháp là vô tánh tức là một tánh. Các pháp như vậy, một tánh vô tánh, không tạo không tác. Nếu Bồ-tát có thể biết được như thật các pháp có mặt là một tánh vô tánh, không tạo không tác, thì có thể xa lìa được tất cả bám nắm” (Phẩm Bám tướng và chẳng bám tướng, hội thứ 1).

Quan sát thân hành đưa đến tánh Không vô ngã vô pháp:

“Thân giới chẳng thể có (bất khả đắc) nên người làm chẳng thể có. Xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng thể có nên người làm chẳng thể có” (Phẩm Bám tướng và chẳng bám tướng, hội thứ 1).

Khi thấy được tánh Không, mọi hành vi cho đến công việc đều tương ưng với tánh Không:

“Đức Phật nói với Tu-bồ-đề: Bồ-tát này đạt tất cả pháp đồng với hư không, tự tánh tự tướng đều rốt ráo Không, đều vô sở hữu, chẳng thấy có pháp sanh nào đáng bám giữ. Năng sanh, sở sanh, khi sanh, chỗ sanh đều bất khả đắc. Vì sao thế? Tu-bồ-đề! Bồ-tát này trọn thành tác ý Giác ngộ vô thượng, thường chẳng xa lìa tâm Đại Bồ-đề. Bốn oai nghi của thân, đi, tới, vào, ra, dở chân hạ chân, tâm không tán loạn, đi đứng ngồi nằm, làm các sự nghiệp đều trụ chánh niệm” (Phẩm Bất thối chuyển, hội thứ 1).

Liên tục quan sát những tính chất của tánh Không qua sự đi, cho tới lúc chúng ta trực tiếp thấy được tánh Không (mà kinh Đại Bát -nhã gọi là “hiện quán”) mà không còn qua những dò xét, phân tích, lý luận của ý thức. Thấy trực tiếp tánh Không, đó gọi là trí huệ Bát-nhã. Thấy trực tiếp tánh Không chúng ta hiểu ngay câu nói bất hủ của Lục Tổ Huệ Năng: “Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, chỉ tại tâm các nhân giả động”.

Rồi chúng ta tiếp tục tương ưng với tánh Không, sống tánh Không trong mọi mặt của đời sống. Sự thực hành này sẽ đưa chúng ta giải thoát ngay giữa đời sống sắc thanh hương vị xúc pháp, mắt tai mũi lưỡi thân ý này.

Tóm lại, quan sát sự đi là một cách tiếp cận để nhận ra tánh Không chính là Nền tảng của đời sống thế gian. Rồi sống với cái thấy ấy, trong mọi giác quan, trong mọi đối tượng của giác quan để dần dần chứng nghiệm hoàn toàn tánh Không.

Người ấy vẫn ở trong sanh tử mà không bị sanh tử làm nhiễm ô, vì sống trong tánh Không thì không còn tạo nghiệp nhưng vẫn tiếp tục hành Bồ-tát hạnh:

“Bồ-tát này vì giáo hóa chúng sanh, tuy hiện trong các nẻo sanh tử lưu chuyển mà chẳng bị các chướng nghiệp phiền não kia nhiễm ô. Ví như người do biến hóa, tuy hiện các việc đi đứng ngồi nằm mà thật ra không có các nghiệp qua lại. Tuy hiện trong các nẻo sanh tử để làm lợi ích cho chúng sanh mà đối với chúng sanh và những công việc kia đều vô sở đắc” (Phẩm Nghĩa pháp không tạp, hội thứ 1).

Để tạm kết, chúng ta trích từ kinh Đại Bát-nhã:

“Tất cả pháp cũng như thế, đều chẳng phải cảnh chỗ hành của nhãn căn. Pháp chẳng hành pháp, pháp chẳng thấy pháp, pháp chẳng biết pháp. A-nan phải biết, tất cả pháp không kẻ hành, không kẻ thấy, không kẻ biết, không động không tác. Vì sao thế? Vì tất cả pháp đều vô tác dụng, kẻ nắm và cái được nắm tánh vốn xa lìa vậy.

Nếu Bồ-tát biết như thế, thấy như thế, hành như thế, tức là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng chẳng bám lấy các pháp tướng ấy” (Phẩm Chúc lụy, hội thứ 1).

Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 181


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2256)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 33246)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6581)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 6548)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 3878)
Tạo sao gọi là Phổ Môn? vì tự tính của mình phổ biến khắp hư không pháp giới, nên gọi Phổ Môn.
(Xem: 5130)
“Quán” là xem xét, “Thế Âm” là âm thanh của thế gian. Quán Thế Âmxem xét âm thanh thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ-tát.
(Xem: 11286)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30404)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 7985)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12198)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 3287)
Một bài pháp được ban cho chư Tăng Ni ở International Mahayana Institute tại Boudhanath, Nepal, ngày 2 tháng 2, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính.
(Xem: 34785)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 52271)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 13086)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 21848)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9623)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 3105)
"Niệm Phật" nghĩa là xưng danh hiệu - hay nhớ tưởng đến hình tướng, bản nguyện hay công đức của một đức Phật - như Phật Thích-ca hay Phật A-di-đà.
(Xem: 10398)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12762)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12798)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16236)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 13821)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14330)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9215)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11761)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11281)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 11517)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 12625)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 20711)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 17664)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 31860)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12018)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11819)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 4337)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, Luận Tập Bộ Toàn; Kinh văn số 1678. Pháp Hiền dịch ra chữ Hán. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12755)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10336)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 16424)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 11781)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14795)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12025)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16848)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 12731)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 52110)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 12649)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 9928)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 14493)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20135)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13774)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15397)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17486)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 16800)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 13481)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 12485)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12059)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13287)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12535)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 25591)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 14555)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 28330)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 10299)
"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant