Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Điển Và Căn Mạng Đời Người

21 Tháng Năm 201518:10(Xem: 5997)
Kinh Điển Và Căn Mạng Đời Người
KINH ĐIỂN VÀ CĂN MẠNG ĐỜI NGƯỜI

Nhụy Nguyên


Kinh Điển Và Căn Mạng Đời NgườiTổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.

Phật Thích Ca sau 49 năm thuyết pháp cũng bảo những lời ta nói là thuyết lại lời cổ Phật. Khổng Tử thì nhắn nhủ hậu thế: ông chỉ truyền lời Thánh hiền không thêm bớt không sáng tạo (thuật nhi bất tác). Vì sao nói lời nào đều phải liên hệ với kinh điển? Nếu kinh điển không mang sinh khí thời đại, không trực tiếp dẫn nguồn vào cuộc sống liệu có còn là kinh điển. Những kinh điển lạc lõng giữa dòng đời bất tuyệt là kinh điển khô nhắc chết cứng, không còn tự bảo vệ được mình trước những phát triển của văn minh nhân loại, trước những phát hiện khoa học về con ngườibản thể vũ trụ. Kinh điển ấy… lỗi thời. Kinh điển phải luôn gắn với đời sống; nhất cử nhất động của con người đều có thể soi vào đó mà chỉnh sửa, ấy là kinh điển chân chánh.

Thế kỷ XXI được xem là thời đại khoa học công nghệ. Những phát minh, khám phá của khoa học đã làm chấn động nhân loại. Một trong những công trình đó là khám phá ra biểu cảm của nước (cũng như trước đó khoa học đã khám phá ra bản tánh của thực vật). Một thí nghiệm ở Nhật với hơn một trăm vị sư ngồi tụng niệm yêu thương nước trước một cái hồ bẩn rộng mênh mông, sau một buổi hồ nước trở nên trong. Thân thể người do tứ đại hợp thành, trong đó nước chiếm khoảng 70%, vậy ra bệnh tật xuất phát từ sân hận, mê lú, chấp trước, phân biệt, xan tham, mê đắm, quyến thuộc, tật đố, si ám, ngã mạn… (những thứ khiến cho nước trong thân thể nhiễm ô). Nhiều ngôi chùa nhận chữa cho những người bệnh mà y học đã bó tay với điều kiện: ở lại chùa ăn chay, nghe giảng đạo… Chính là chùa chữa Tâm (thanh tịnh, trong sáng) chứ không phải chữa thân. Người bệnh mà bệnh viện trả về, tức bị dồn vào bức mành mong manh cuối cùng ngăn cách sống chết. Chỉ với một yêu cầu ăn chay niệm Phật, nghe pháp, lạy Phật mà họ cũng lắc đầu; trong lúc chùa không mảy may vụ lợi. Đủ thấy muốn khai phá chấp trước cũng ngang bằng một người phải san bằng ngọn núi lớn. Đại sư Buddhadasa người Thái Lan trong cuốn "Cốt lõi của cội Bồ đề" (Hoang Phong dịch) gọi đây là "bệnh tâm linh" - "là một căn bệnh không cho phép mình quán thấy được sự thật tối hậu của mọi sự vật đúng thật với những gì là như thế. Do đó bệnh ấy là một thứ bệnh liên quan đến vô minh, hay là sự hiểu biết sai lầm, và nếu đã là một sự hiểu biết sai lầm thì tất nhiên là nó sẽ đưa đến những hành động sai lầm và từ đó phát sinh ra khổ đau”. Và "Phương thuốc giúp chữa khỏi chính là tánh không. Hơn nữa tánh không chẳng những là một phương thuốc mà còn là cả một sự giải thoát có thể làm triệt tiêu tất cả mọi thứ bệnh tật, bởi vì phía sau tánh không sẽ chẳng còn lại gì cả". Hiểu được lý vô thường chúng ta sẽ không chấp điều lớn nhất: thân này là ta (mà chỉ là của ta - như áo quần). Theo đó những gì bám víu sẽ nhẹ nhàng trôi xuôi. Thân như vậy là thân bóng bay với chỉ một sợi dây duy nhất, ta muốn cắt lúc nào cũng được, vậy thì lo gì không lên được Cực lạc?

Khám phá về nước nói riêng làm lay chuyển nhận thức loài người, khoa học gia vĩ đại phải mất vô thiên lủng thời gian, đâu hay đã vô tình chứng minh một vài câu kinh Phật! Còn vô vàn những câu kinh nữa… đều đang chờ khoa học soi chiếu. Nhưng có điều, e rằng khi khoa học bật sáng một góc trời đêm Phật pháp, thì hành tinh xanh đã hoang hóa. Càng khám phá, khoa học càng thấy Phật pháp là bậc thầy của khoa học. Nhưng quá nhiều người vẫn chỉ tin và “sử dụng” những câu kinh đã được khoa học minh chứng là đáng tin. Thật đắc địa, một pháp sư gọi hiện tượng đó là “mê tín khoa học”!


Kinh điển Phật giáo là kim chỉ nam của bất cứ người nào muốn trả lời hai câu hỏi: “Ta từ đâu đến?” và “Ta sẽ về đâu?”. (Ở đây xin không hiểu theo danh hiệu của các Phật: Như Lai - không từ đâu đến, không đi về đâu - Kinh Kim Cang: “Vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ”). Lời Hòa thượng Tuyên Hóa : “Đối với người tu hành chân chính, lúc chết tâm họ rất sáng suốt, biết mình từ đâu tới và sẽ đi về đâu”. Cũng là chỉ bản lai diện mục? Biết đâu chúng ta đến hồng trần này từ bên châu Phi, biết đâu chúng ta từ cõi ngạ quỷ hay từ cõi trời “rớt” xuống; và (nếu thành tựu trong Tịnh độ), chúng ta sẽ biết chắc mình sẽ về Tây phương Cực lạc khi thân giả tạm này mất. Học Phật nhất thiết phải bám sát kinh điển, vừa học vừa hành. Phật đã nhập diệt, ngón tay chỉ trăng bây giờ chính là kinh điển [Đại thừa] và những vị được giới chân tu xem là chứng quả, là Bồ tát thị hiện. “Các con hãy lấy Pháp của ta làm đuốc!” (Kinh Pháp Cú). Không nương theo kinh là không tin lời Phật. “Những kẻ không tin lời Như-Lai nói là những kẻ mãi mãi thọ khổ” (Kinh). Một người đời nay không thể không biết - pháp sư Tịnh Không. Ngài bảo những người cúi lạy Phật mà không hiểu Phật, không học Phật chính là mê tín. Thế nên học Phật không hành (ví như học Mật tông lại không trì/nghe chú, học Thiền tông lại không ngồi thiền, học Tịnh độ lại không chuyên trì niệm Phật) thì khác nào bám phần nổi của tảng băng phiêu dạt trên biển cả. Theo Phật mà xa rời kinh điển dễ mập mờ giữa chánh và tà. [Tuy nhiên], cổ Đức nói: “Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan, ly Kinh nhất tự tức đồng ma thuyết”. Có một ví dụ rất tuyệt: ly sữa bổ dưỡng là Phật pháp, nhưng thêm vào chỉ một giọt độc thôi, hỏi ly sữa còn dùng được?! Y giáo phụng hành là lẽ căn cốt của người học Phật. Người không tu, không phải vì thế mà khinh khi Phật pháp, đứng trước cửa Không khua chuông đánh trống; không phải vì thế mà ung dung ngoài luật nhân quả, kể cả người theo các tôn giáo khác.

Dưới đây là một số quan điểm lệch lạc về đạo Phật do chính tôi tạo tác. Có câu có lời đã được chính thống hóa trong các ấn phẩm, sách xuất bản; sự ảnh hưởng càng rộng, người viết ra nó sẽ nhận về phần nghiệp càng nặng; có câu mới chỉ là ý niệm - những ý nghiệp hằn sâu trong tâm thức tôi trước ngày đến với Phật. Để thấy nếu không nương vào lời Phật dạy thì nhất cử nhất động, nhất tâm nhất ý đều dễ gây nghiệp. Có khi buông ra một câu song (do mức ảnh hưởng rộng) cả cuộc đời không trả hết nghiệp.

Từ gia đình bước ra xã hội, tôi gặp nhiều cảnh đời tăm tối. Con người bị dồn vào đường cùng bi đát, con người kêu gào trời Phật, nhưng trời Phật dường như không nghe thấy; nên nghe câu “Chúa đã bỏ loài người, Phật đã bỏ loài người”, tôi tin. Thiển nghĩ trời Phật không có, vậy mình nhìn lên trời làm gì? Hãy cứ bám chân trên đất mà đi. Phật có nêu quy luật nhân quả luân hồi, và Phật thần thông quảng đại sao không đưa loài người thoát khỏi Bể Khổ. Thế nên lần đầu tiên tiếp xúc với chữ Không, tôi xem đó là sự phủ nhận trần gian.

Cơ duyên sao giáo lý nhà Phật vẫn cuốn hút tôi. Học thêm được chút ít, mới hay nghiệp ý về chữ Không thật sự nghiêm trọng. Bởi, “Không hay Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng nhất trong triết lý Đại thừa” (Suzuki). Luận về Triết họcTôn giáo, Suzuki cũng viết: “Đừng lẫn lộn không với không chi; cũng đừng tưởng rằng có một đối tượng của tư tưởng được gọi là không, vì ý tưởng này đi ngược hẳn với bản chất đích thực của Không. Không nên xác định nó như là tương đối tính, như một số học giả quan niệm. Chính Bát Nhã dạy rằng các pháp hiện hữu tương quan liên hệ như là những kết quả của những tập hợp duyên sinh và do đó chúng là không (…). Chính trí Bát Nhã soi thấy tất cả những hàm ngụ của Tánh Không”.

Một Hòa thượng người Việt Nam ví Không như con số không. Nó vốn không là gì song thiếu số không (0) thì mọi tính toán trên tiểu học đều tắc tị. “Vì có nghĩa Không này - Tất cả pháp được thành - Nếu khôngnghĩa Không - Tất cả bèn chẳng thành” (Trung Luận - Long Thọ). Không gần như là trung tâm luận Phật giáo. Nếu tôi cho Không là sự phủ nhận trần gian thì cũng khác chi nói Phật giáo phủ nhận nhân gian. Kinh Pháp Hoa có một câu dạy rất đặc biệt, nêu lên mục đích ra đời của mười phương chư Phật: “Các đức Phật chỉ vì một việc trọng đại duy nhất mà ra đời, đó là vì khai ngộ cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật”; “Khai hóa hiển thị chân thật chi tế, siêu quá thế gian chư sở hữu pháp, tâm thường đế trú độ thế chi đạo” (Kinh Vô Lượng Thọ); "Bồ Tát nếu có thể tùy thuận chúng sanh, thì chính là tùy thuận cúng dường các đức Phật. Còn tôn trọngthừa sự chúng sanh thì chính là tôn trọngthừa sự các đức Như Lai. Nếu làm cho chúng sanh vui mừng thì chính là làm cho tất cả Như Lai vui mừng..." (Trích mười nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát); "Nếu cần hiện thân Tỳ Kheo độ thì hiện thân Tỳ Kheo, nếu cần hiện thân Tỳ Kheo Ni độ thì hiện thân Tỳ Kheo Ni, nếu cần hiện thân cư sĩ độ thì hiện thân cư sĩ" (Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn); “Không những tự điều phục mình mà còn điều phục cho kẻ khác, không những dứt phiền não cho mình mà còn dứt phiền não cho kẻ khác. Không những tự mình qua đến bờ giác giải thoát, mà còn độ cho người khác đến bờ giác giải thoát”. Dẫu vẫn có người chứng được sơ quả liền “chán bỏ” thế gian, ngồi thiền chìm đắm, miên man hàng tháng hàng năm mới chịu xuất định, quên mất mục tiêu tối thượnghóa độ chúng sinh. Thế nên lời Đức Phật dành cho những đệ tử đầu tiên chứng đạo là: “Hãy lên đường, này các tỳ kheo, vì lợi ích cho số đông, vì an lạc cho số đông, vì thương tưởng thế gian, vì lợi íchan lạc của chư thiên và nhân loại”; Đức Đạt lai Lạt ma răn: “Đã tự xem mình là người noi theo gót chân Phật thì phải luôn tự xét chính mình, tự xét tâm nguyện của mình, và phải luôn giữ gìn nguyện vọng muốn giải thoát tất cả mọi người mọi loài ra khỏi khổ nạn luân hồi”. Kinh Hoa Nghiêm khuyên nhắc bậc chứng Bồ đề phải “vì người mến thích cảnh giới mà nói pháp vô sở hữu. Vì người mến thích chỗ tịch tịnh mà nói pháp phát thệ nguyện lớn khắp lợi ích tất cả chúng sanh”.

“Vạn pháp giai không, duyên sanh như huyễn”. Bàn về Không thực tế không bờ mé: bất khả thuyết, bất khả luận, bất khả tư nghì. Ở cấp độ phàm phu, tôi chỉ sờ mó và chấp nhận đưa ra một khái niệm tạm thời chứ không thể xuyên qua bản thể của nó được. Khoảng một phần tư giây là một khảy móng tay, trong một khảy móng tay có hàng trăm triệu lần sinh diệt, mức cực vi tế đó chỉ Phật nhãn mới thấy được. Lão pháp sư Tịnh Không giảng: một giây trên màn hình là sự ghép lại của 24 hình, tức 24 lần sinh diệt, nhưng mắt chúng ta chỉ thấy một bước chân người đi chứ đâu thấy được 24 hình ghép lại. Mức sinh diệt quá nhanh nên nhục nhãn không thể thấy.

Con người hợp từ tứ đại, cũng như một đám mây mà ta chỉ thấy đám mây với nhiều hình dạng, chứ đâu thấy hợp tan. Sắc tức thị không không tức thị sắc (Bát nhã Tâm kinh). Mỗi người khi sống chính là có [hình tướng], lúc chết thì tan rã trở về không [hình tướng]. “Ngay cả khi sắc được phân ra thành các phân tử cực kỳ vi tế, hoặc các đặc tánh của nó được phân ra thành các hiện tượng giới chẳng hạn như mùi vị, sự nhận biết về bản tánh của sắc vẫn tồn tại”. (Bảo tàng tri kiến, Thế Thân). Không ấy đâu phải là không. Chính là còn linh hồn (theo cách gọi dân gian; trong kinh Phạm Võng cũng có nhắc đến “linh hồn đi đầu thai”); gọi theo Phật giáothần thức, linh tánh, hay thức a lại da. Thức ấy không hình tướng trong mắt phàm, song lại là có hình tướng đối với các nhà ngoại cảm hoặc trong mắt ngạ quỷ,… Tiếp tục lại bị “xóa” hình tướng trong mắt Phật để hóa sinhTây phương Cực lạc hoặc Thế giới Lưu Ly của Phật Dược Sư… Và tột bậc của sắc không chính là do tâm tạo. Tam giới duy tâm. Tâm chứng thì hết thảy mười phương khắp pháp giới hiển bày. “Thế giới này được dẫn đạo bởi tâm tư, thế giới này bị quét sạch bởi tâm tư, thế giới này dưới sức mạnh của tâm tư” (Kinh Samytta Nikàya, I, tr. 39).

Sách Truyền đăng lục chép công án “Con chó của Triệu Châu”:

Có người hỏi Thiền sư Triệu Châu:

- “Con chó có Phật tánh không?

Triệu Châu đáp: “Không”.

Phật bảo tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, sao con chó lại không. Không, là cái không đã chút ít giải ở trên. “Cái không có này không phải là làm cho không có mà bản tánh của tất cả các pháp vốn là Không” (Kinh Viên Giác). Và nữa, không là “vô”. “Vô”, theo một số luận sư, là vô nhị tướng. Nếu một chân tu miên mật, họ chẳng những trừ được tạp niệm bất thiện, mà kể cả niệm thiện. Không cứ là niệm thiện hay tà, hễ khởi niệm là vọng tâm. Ví như người tu Thiền Tịnh song tu, lúc Thiền chỉ niệm “A Di Đà Phật”, tuyệt đối không có niệm khác xen ngang. Hễ móng khởi tạp niệm, ấy là vọng/mê.

Quay lại với ý nghiệp ban đầu. Lúc tôi nghĩ oan cho Tánh Không, thì hàng loạt suy nghĩ sau đó nối đuôi nhau “nhúng chàm”. Từng đọc một tác phẩm văn học, ý nói Phật tuy lớn lao khôn cùng song đã “rủ” loài người đi quá xa hồng trần. Cõi mà Phật muốn con người vươn tới gần như ảo tưởng. Cho nên Phật dẫu là Đại Lương Y sợ rằng sẽ phát cho tôi thứ thuốc ru ngủ sự tuyệt vọng mà mình vì tài hèn nên không đạt đượccõi trần.

Nói đạo lộ của Phật là ảo tưởngbóp méo kinh điển. Kinh chính là Phật. Phật chính là Kinh. Những người đắc đạo hiện thời và các Bồ tát được ấn chứng rất nhiều. Họ chính là kinh điển sống. Họ sờ sờ sừng sững sao gọi là ảo tưởng được. Ở Việt NamBồ tát Thích Quảng Đức; có Tuệ Trung Thượng Sĩ, Phật hoàng Trần Nhân Tông, Hòa thượng Từ Đạo Hạnh,… Nước ngoài có tổ Ấn Quang, thiền sư Hư Vân, hòa thượng Tuyên Hóa, pháp sư Tịnh Không, Đức Đạt Lai Lạt Ma. Một giáo sư uyên bác thỉnh giảng khắp thế giới với số giáo án hạn hẹp, lâu lâu không xem lại thì quên. Một danh sư xứ Ấn ví ấy là kiến thức be bờ đắp đập (tạo một cái hồ rồi tát nước của thiên hạ vào), lâu ngày nước không cạn cũng đục. Còn bậc đắc đạo giảng pháp suốt cả đời người không lặp chủ đề. Lão pháp sư Tịnh Không riêng giảng bộ Kinh Hoa Nghiêm đến 17 năm, chưa nói giảng nhiều bộ kinh khác nữa. Có vị suốt ba mươi năm không xem thời sự báo đài nhưng hỏi đến đâu đều tường tận. Đó chính là trí huệ Ba la mật tối thượng, mỗi lời đều như suối mát tuôn chảy không bao giờ cạn. Tôi, bởi không đạt được nghị lực “không bình thường” thì gán phù hiệu ảo tưởng cho mình. Thật muôn lần sám hối!

Có một thực tế, nhiều người bị cuộc đời đánh cho ra “xơ mướp” mới cầu đến Phật, nhưng Phật từ chối. Vì Phật không phải thần linh. Phật là người minh bạch, hiểu rõ chân tướng vũ trụ nhân sinh, nên lời Phật đều là nói về bản thân con ngườihoàn cảnh sống; có xa rời thực tế bao giờ. Phật là chỉ con đường thoát khổ cho ai tỏ ngộ cuộc đời này vốn bể dâu. Họ phải học và hành theo đúng lời Phật dạy. Thân tâm an lạc, cuộc sống thanh tịnh chính là Cực lạc. Nếu chặt phăng các kiếp quá khứvị lai, chỉ giữ lấy một khúc ngắn là cuộc sống tại cõi ô trược thậm khổ này, dĩ nhiên quan niệm của họ không sai. Học Phật chính là phá mê, “mê” trước nhất là đập bức tường ngăn cách với các kiếp trước sau tương tục. Muốn vậy phải soi mình vào đức hạnhgiáo lý của Phật, không có con đường nào khác. Hễ ai thực hiện được Thập thiện đạo, đã là một trong những người tốt nhất. Thập thiện đạo chính là máy “phát hiện cái giả” trong mỗi người. Nếu Tứ diệu đế, Tứ chánh cần, Thập thiện nghiệp đạo, Bát chánh đạo, Thập nhị nhân duyên, Lục độ, Lục hòa… là những liều thuốc ru ngủ những người tuyệt vọng, thì có lẽ bây giờ chính là thời… Diệt Pháp - hết thảy nhân loại đều được thay bằng người máy! Tôi cũng được biết đến rất nhiều học giả, nhà khoa học tầm cỡ trên thế giới sau chặng đời“loanh quanh” đã quay về nghiêm túc học Phật, tôn đạo Phật làm Thầy.

Trong tác phẩm văn học khác, tôi cũng từng sản sinh nhiều câu chữ khiến bây giờ đọc lại rùng mình. Xin lấy một ví dụ trong nhiều tội đã gieo vào trang viết. Trong một truyện ngắn, sau khi khen đạo hạnh của vị sư nọ, tôi liền nhét vào mồm nhân vật ấy những lời sau: “Chứ mô như cha thầy chùa hay tới nhà con mệ đầu xóm này này (ông đưa tay chỉ). Nhôông hắn chết lâu rồi. Năm ngoái cha tới tìm mua đất, nói xây cái am tịnh tâm. Tịnh mô nỏ thấy…”. Ấy là tội “báng bổ tăng bảo”, rất nặng. Xin sửa lại: “Chứ mô như thằng cha giả cạo đầu làm sư hay tới nhà con mệ đầu xóm này này…”. Tuy nhiên tôi chỉ đính chính được vài nơi; nhiều cuốn sách được in, nhiều trang web “mặc định” hoặc google lượm lặt, không thể sữa chữa ngoài việc sám hối, hồi đầu chuyển tâm về với Phật, dùng chánh kiến sau đè lên tà kiến trước...

Những dòng chữ của tôi viết trên, dân gian nhìn vào họ sẽ nói: “À, thầy tu là như vậy đó, Phật giáo là như vậy như vầy, rồi “quy kết” Mạt Pháp. Thực tế Pháp thì vẹn nguyên. Phật Thích Ca bảo, đến thời Diệt Pháp (sau khoảng 9000 năm nữa) Pháp chỉ còn 4 chữ “A Di Đà Phật”. Người chuyên sâu Tịnh tông đã thấy, ấy là vạn Pháp được nén vào 4 chữ; chuyên nhất tâm niệm “Nam mô A Di Đà Phật” sẽ thoát khỏi luân hồi. Việc thoát luân hồi phải là mục tiêu căn cốt nhất trong một kiếp người. Nếu không nhắm đến mục tiêu này, “duyên” rơi vào tam ác đạo (súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục) dễ như bỡn. Chúng sinh là danh từ dùng chung cho tất cả sinh linh trong tam đồ. Bể Khổ cũng chính là Tam giới (Kinh Pháp Hoa ví là ngôi nhà lửa - Tam giới như hỏa trạch). Con người không nhìn thấy ngạ quỷchúng sinh trong địa ngục (và không chịu tin mình cũng có “cơ duyên” làm súc sinh) nên không tin đời là Bể Khổ, cũng dễ hiểu (!).

Trong sự gọi là “Mạt Pháp”, chính là do cá nhân tôi góp thêm tội nghiệp. Nếu không một lòng hướng về cõi Phật, không chừng cửa địa ngục A Tỳ đang mở rộng… Kinh chép, thuyết giảng cho ngài Trừ Cái Chướng xong, lúc bấy giờ Đức Phật bảo ngài A Nan: "Nếu ai khinh mạn chư Tăng Ni, thì người này sẽ sanh trong gia đình bần cùng hạ tiện. Ở mọi nơi sanh ra, các căn đều chẳng hoàn chỉnh, gù lưng, lùn và xấu xí. Lúc xả báo thân đó, thì khi sanh ở đời sau sẽ chịu nhiều bệnh tật, gầy ốm héo hon, chân tay co quắp, có máu mủ ứa ra và nhiểu khắp trên thân thể. Đó là khổ báo mà trăm ngàn vạn năm người này phải thọ lấy”.

Bước được bước đầu tiên vào cửa Phật, đã thấy được sức hút của Phật học về các tầng trời cảnh giới, nhưng thật lạ kỳ là tôi vẫn có một sự so sánh tai hại mà đến bây giờ ngẫm lại dẫu có chui xuống gầm giường cũng không hết xấu hổ. Một nhân vật tôi nặn ra đã không thể cưỡng sức hút ghê gớm của đàn bà (chuyện bình thường của kẻ sơ cơ), tai hại là nhân vật ấy ví sức hút đó cao hơn sức hút của Đạo, từ đó bẻ gãy mầm xanh Phật pháp mới nhú.

Sức hút tinh thần chính là sức hút từ cõi thiêng vốn sẵn trong mình. Tinh thần ở đây có thể hiểu là Tâm. Tâm là đích tu luyệnđạo Phật nhắm tới. Tâm như “hạt minh châu” ngời sáng bị cơn lốc cuốn theo mọi tạp vật nhơ uế vùi lấp; vạn duyên buông xuống, tay không sẽ nắm trọn hư không pháp giới. Còn sức hút ghê gớm của người đàn bà là sức hút của… hổ. Hòa thượng Quảng Khâm từng hàng phục được cả hổ bằng tâm từ; hổ nhường hang cho ông tu, dẫn con kiếm chỗ ở khác. Hòa thượng Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng đã nhắc kẻ đương cơ, dâm chính là hổ, chưa hàng phục được dâm chính là chưa hàng phục được hổ. Vạn ác dâm làm đầu; người tu còn bị “hổ” kia gầm gừ thì đừng hòng nhấc chân khỏi mặt đất.

Ở truyện ngắn khác (may là chưa công bố và đã có dịp chỉnh lại) tôi mô tả cảnh người người đổ xô về chùa tìm chốn nương thân lánh nạn, rồi phán họ xuất thế gian chạy đi tìm Cực lạc. Những nhân vật không có chút khiêm hạ, không có lòng tự trọng, trốn tránh việc thế gian trong thời tao loạn chạy lên chùa xài đồ chùa mà phán là tìm Cực lạc! Thực tế trong trăm ngàn người, để thấy người chân tu Tịnh độ nguyện sanh về Tây phương nước Phật thì tôi phải tìm mờ mắt. Là bậc đại chân tu, tài sản của họ chỉ vài bộ y, mỗi ngày ăn một đến hai bữa đạm bạc không thể đạm bạc hơn, bữa ăn của “hộ nghèo”; họ không nắm tiền bạc, hết thảy vật cúng dường dành làm từ thiện, ấn tống kinh điển, hoằng pháp lợi sanh… Kinh ví một hạt gạo cúng dường nặng tựa núi Tu Di, người tu nhận rồi phải vắt chân đêm ngày mau chóng viên thành chánh quả, thực hiện ước nguyện lớn nhất: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Hòa thượng Tuyên Hóa tu đắc đạo, khi thiêu hiện xá lợi, trong một buổi giảng Kinh Địa Tạng năm 1969 đã có đề cập vấn đề này: “Đừng nói là người tại gia, ngay cả tôi tuy là kẻ xuất gia, song hễ đến trú ở bất cứ Thường Trụ nào, tôi đều có cúng dường (…). Nếu quý vị quả thật là không có tiền thì không sao, nhưng nếu có tiền thì chớ nên xâm tổn của Thường Trụ; cho dù là người xuất gia cũng không nên xâm tổn của Thường Trụ. Bởi Thường Trụví như đại địa, là nơi trú ngụ của đại chúng; nếu quý vị phá hoại, phung phí của Thường Trụ, khiến cho đại chúng bị thiếu thốn, không đủ ăn, thì quý vị có tội rất lớn”. Thế nên dòng người “của chính tôi” chạy đến chùa chiền xâm hại sẽ tội nặng hơn cả “mang lông đội sừng”. Kinh Đại thừa trang nghiêm bảo vương nêu chi tiết những ai phương hại, chiếm đoạt Thường Trụ lãnh quả báođịa ngục nhiều kiếp thật là khủng khiếp, sau đó mới thác sanh vào trong một gia đình bần cùng hạ tiện với hình hài dị tật.

Một vấn đề rất cũ, và cũng đã được cắt nghĩa: Phật không phải thần thánh. Dĩ nhiên, người chứng sơ quả tức siêu phàm nhập thánh, nghĩa là thần. Quả vị cao hơn như sơ trụ Bồ tát họ đã đầy mình thần thông. Song không bao giờ có chuyện những người đó thị hiện trước chúng sanh. Do chúng sanh cần tự ngộ; hiển bày thần thông chẳng khác đưa “mồi” dụ dỗ, đánh mất cơ hội giác ngộ của người tu. Không tự ngộ dẫu có tu được chút thần thông cũng chẳng thể lên nước Phật. Đây là chân lý của Đạo. Bước biến chuyển sai lầm của tôi bắt đầu: Lúc gặp người kêu oan “vô vọng”, tôi không cho rằng có Phật; chập chững theo Phật, tôi lại cho “ông” là bậc siêu nhiên. Bây giờ mới lờ mờ hiểu cái lý Phật “không phải” thánh thần. Tin thần thánhtín đồ của tôn giáo (trong khi đạo Phật không phải tôn giáo). Phật chỉ vào mỗi người và bảo Phật có sẵn trong tâm vẩn đục kia, hãy tin ở chính bản thân mình, trọn làm theo lời ta sẽ đến bờ giác ngộ); ai tin như vậy mới chính là con Phật. Ngài từng căn dặn: “Nếu con coi ta là Phật, con sẽ không bao giờ thấy được Phật. Nếu con lắng nghe giáo Pháp của ta mà coi là Pháp, con sẽ không bao giờ thấu đạt được chân Pháp.” Gyalwang Drukpa XII gọi đó là "thông điệp vĩ đại”. Kinh Kim cang Bát nhã Ba la mật: "Nếu như vị A-La-Hán nghĩ thế nầy: Ta chứng được quả vị A-La-Hán, thời chính là còn chấp-trước tướng ngã, nhân, chúng-sanh, thọ-giả". Nên có đạo lý: hễ ai phát ngôn chứng quả (dẫu là quả Tu đà hoàn thấp nhất), người ấy sẽ bị tước bỏ. Lúc ấy họ chẳng phải từ đọt tre rơi xuống mặt đất mà chính là từ trên trời rơi thẳng xuống... địa ngục. Nhà Phật có treo khẩu hiệu ngầm: hễ hôm nay để lại thân phận hoặc bị lộ mình là Phật, Bồ tát tái lai, ngày mai họ sẽ rời nhân gian: (Bố Đại hòa thượng (Phật Di Lặc), Hàn Sơn, Thập Đắc (Bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền), Vĩnh Minh thiền sư (Phật A Di Đà),…). Chuyện về tổ Ấn Quang (được xem là Ngài Đại Thế Chí tái lai hóa độ) là một minh chứng điển hình.

Ngôn ngữ vốn dừng lại ở mức gọi tên cái đã có tên (siêu ngôn ngữ), với Thiền, ngôn ngữ chỉ tạm gọi tên điều bất khả (“Nếu pháp rốt ráo thì pháp tánh của tự tánh chẳng phải là tự tánh. Pháp thí dụ không thể thuyết. Nếu dùng danh tự cũng không thể thuyết. Đây là một pháp mà Như Lai giác ngộ” (Kinh Vô Tự Bảo Khiếp); đạo khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh - Lão Tử). Chúng ta thường dịch Thiền là suy tư mặc tưởng (Méditation). Nhưng thiền vốn trống không. Nếu “lập thiền” thì nhiếp tâm theo dõi mọi biến thái chạy qua tâm mà không dùng lý trí, không tâm tùy cảnh chuyển. Hoặc có thể thiền Tứ niệm xứ; đầu tiên là quán (tạm xem là suy tư mặc tưởng) về thân bất tịnh: từ lúc còn trong bụng mẹ, sinh ra bùng nhùng nhau thai nhuốm máu, quán đến những chỗ bẩn nhất trên cơ thể, quán trong mình chứa thứ hôi thối, quán bệnh tật mụt nhọt ghẻ lở, quán lúc chết nằm trong quan tài rữa nát… Trụ lại ở hiện tượng người ấy không xen cảnh khác. Còn nếu ngồi suy tư mặc tưởng, tâm chụp cái này săm soi chưa chán đã chê rồi với cái kia như đứa trẻ trước đống đồ chơi thì chẳng phải thiền nữa. Hoặc ngồi thiền niệm 6 chữ Phật hiệu; mỗi “Nam mô A Di Đà Phật” là một mắt xích, cứ thế nối nhau thành sợi xích kéo cỗ máy phi thời gian đi miết, nếu một niệm xen vào nghĩa là sợi xích bị đứt, trở thành thiền… loạn.

Đời nay vẫn có nhiều bậc tu trì giới một cách nghiêm ngặt. Lấy giới làm Thầy theo “di chúc” của Phật. Nhưng lắm người nhìn vào lại phản bác sự “khổ hạnh” đó. Rồi múa rìu qua mắt thợ khuyên họ hãy sống một cách tự nhiên, tùy duyên để có thể viên thành chánh quả. Đúng là Phật đưa ra lối tu trung đạo (hành theo Bát chánh đạo). Tuy nhiên cần hiểu sâu hơn. Một hành giả chân chính phải ngày vài ba lần tham thiền, hoặc vài ba lần tụng kinh niệm Phật, lạy Phật, ở chùa thì ai nấy 3 giờ sáng là đã thức dậy công phu. Đối với các bậc thượng căn thì mức độ hành trì còn “khủng khiếp” hơn nhiều. Hòa thượng Quảng Khâm một mình lên núi bế quan, chỉ ăn rau củ kiếm được, nhiều lúc suýt mất mạngthiếu thốn. Ngài Hư Vân “tam bộ nhất bái” xuyên mưa gió bão bùng, đồi núi, một mình băng băng. Tâm không vững thì dẫu là thân sắt cũng gục ngã. Nghị lực tâm phi thường đó nhiều lần kéo thiền sư khỏi cõi chết nhập thánh duyên. Luyện tâm là khó nhất khổ nhất trong mọi sự luyện (luyện thân, luyện trí; luyện đan, luyện gang thép…). Không nhẫn nhục khổ ải thì cái vé lên nước Phật rẻ rúng quá sao? Hòa Thượng Tuyên Hóa đưa ra hai phương án: đời này chịu khổ chút chút để có Vô lượng thọ, ngược lại truy tìm cái sướng giả ảo một kiếp để nhận lãnh vô lượng nghiệp trong Tam ác đạo, hãy chọn.

Thế nên trước đây đọc Thiền luận, tôi đã gán yếu tố “cơ hội”, “ăn may” trong việc đốn ngộ. Kinh Pháp hoa: “Nhược nhân tán loạn tâm, nhập ư tháp miếu trung, nhất xưng Nam Mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo”. (Nếu người tâm tán loạn, đi vào trong tháp Phật, niệm một lần ‘Mô Phật’, cũng đủ thành Phật đạo). Sự “thành Phật đạo” này hiểu là "sẽ thành" như Phật nói: "Ta là Phật đã thành chúng sanh là Phật sẽ thành"; còn thành lúc nào thì chưa biết được. Nhiều người nhờ nhân lành trong đời trước, phút lâm chung hội đủ nhân duyên, nên chỉ “mười niệm” vào thời điểm cận tử liền được tiếp dẫn lên thế giới của Phật A Di Đà. Xin dẫn câu chuyện chép trong kinh: một ông già đến quy y với Phật, rồi đắc quả; các đồ đệ ngạc nhiên vì họ nhìn trong vô vàn đời quá khứ của ông không thấy có “nhân”. Phật mới nói: các ông chỉ nhìn thấu suốt tám mươi vạn kiếp lại đây còn trước đó các ông không thấy: có kiếp ông ta là một tiều phu, lên rừng bỗng dưng gặp hổ, ông trèo lên cây; giữa lúc không còn hy vọng nào ông ngửa mặt lên trời "Nam mô Phật" cứu độ. Đấy là câu niệm Phật bằng cả máu huyết căn mạng. Nhân lành ấy gieo, sau hơn tám mươi vạn kiếp mới viên mãn Bồ đề. Để thấy có người niệm vạn câu Phật hiệu vẫn không rút ngắn kiếp nào trên đường dài tiến về nước Phật, có người hành thiện suốt đời vẫn không tích được mảy may phước đức, có người tu theo kiểu gieo nhân, nên mãi vẫn là phàm phu.

Cũng như bản thân viết những dòng này đã vô cùng hổ thẹn. Phật họcđại dương, tôi chỉ có một vốc nước để soi khuôn mặt nhớp nhúa của mình. Tôi đã phóng con tàu hạnh nghiệp quá sớm lúc mình chưa đủ sức đuổi theo nó. Nên dăm lời thô mộc là hiểu đúng hơn chút xíu với những gì chưa thật đúng, và sự hiểu này cũng cần phải được chỉ dạy thêm từ những bậc chân tu Phật Pháp.

N.N







Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16441)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11890)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12073)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12758)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12717)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10224)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13955)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10217)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13689)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16250)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11945)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12958)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11627)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12656)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10786)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10974)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10930)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11877)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12748)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11047)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12606)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11307)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12498)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14094)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10842)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10510)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11168)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11978)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13105)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12340)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15327)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14318)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12087)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15334)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11988)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12387)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11153)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12072)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10596)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12548)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13153)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14790)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12659)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16535)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19629)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12245)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13484)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11936)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11621)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12753)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14495)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15652)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13601)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12882)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 18001)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11148)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12160)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13032)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10287)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant