Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Nhẫn Nhục

03 Tháng Năm 201505:30(Xem: 7770)
Nhẫn Nhục
NHẪN NHỤC

Toàn Không

Nhẫn Nhục1). Nhẫn nhục là gì?

Nhẫn là nhịn chịu, nhụctổn thương sỉ nhục.

Nhẫn nhục là chịu nhịn những điều sỉ nhục xấu hổ, nhục nhã, chịu đựng tổn thương trước những cảnh, sự việc không vừa lòng, nghịch ý, trái tai gai mắt; nhẫn nhục là nhận chịu những điều người khác làm cho mình khổ não, trong tâm mình không những không tức giận mà còn không nghĩ tưởng tới việc sẽ báo oán trả thù.

2). Tại sao cần phải nhẫn nhục?

Nhiều người vì được nuông chiều được nể nên tưởng mình là hay là nhất, càng ngày càng tỏ ra “khinh người”, rồi đâm ra nói năng hành động qúa trớn. Có kẻ vì si mê có tính “cả vú lấp miệng em” át giọng người khác, cho người khác là ngu là dốt không bằng mình. Lại có người ngu si điên đảo cho rằng “ta đây là nhất” không ai bằng mình nên lấn lướt, hống hách. Tất cả những người như thế đều là người vô minh, dù người đó có bằng cấp này nọ (thực ra, người có học ít khi có những hành động lỗ mãng) đều là người vô minh cả; bởi vậy khi bị những người ấy sỉ nhục, mắng nhiếc, đánh đập tàn nhẫn, chúng ta nên coi việc đối xử như thế là do không hiểu sự thật, cần phải kiên nhẫn giải thích sự việc

Nhưng có người vì không dằn được cơn tức giận mà sinh ra đỏ mặt tía tai, quát tháo ầm ĩ, đá bàn quăng ghế, buông ra những lời cộc cằn chửi rủa tục tằn, hành hạ đánh đập người một cách tàn nhẫn. Có kẻ nổi cơn thịnh nộ đâm, chém, bắn người khác gây ra án mạng mà phải ân hận suốt đời. Lại có những việc rất nhỏ nhặt trong gia đình hay ngoài xã hội chỉ vì một câu nói không đáng kể hay một cử chỉ nhỏ nhặt, mà người không kiên nhẫn đã gây ra biết bao buồn phiền đau khổ cho người và cho mình. Ở đây có thể nói người không kiên nhẫn đối với các việc nhỏ nhặt là người nóng nảy, vì nhân một việc bé xé ra to, nên là người tạo ác.

Nhẫn nhục được gắn liền với chữ “bình tĩnh, kiên nhẫn, chịu đựng”, những người nóng nảy hay mất bình tĩnh, mất kiên nhẫn; họ không tự chủ được những nghịch cảnh khó khăn nan giải, nên nói năng hành động vội vàng nông nổi thiếu suy nghĩ. Trong gia đìnhmọi người đều không kiên nhẫn sẽ đưa đến mất hạnh phúc và dễ tan vỡ; đối với xã hội mọi người đều không kiên nhẫn sẽ đưa tới xáo trộn và không vững bền.

Người học đạo cũng vậy, khi gặp nghịch cảnh không nhẫn nhục sẽ làm cho tâm luôn luôn dao động, có khi còn bị đọa vì không nhẫn nhục mà làm các việc ác; do đó tại sao chúng ta phải học và thực hành nhẫn nhục là vậy.

3). Các loại nhẫn nhục: Có ba loại:

1- Thân nhẫn:

Là sự chịu đựng của thân trước các nghịch cảnh không vừa ý, như nóng lạnh, bệnh tật, đói khát, chỗ ở nơi nằm không được tiện nghi, hoặc bị hành hạ đánh đập thân thể; trước những nghịch cảnh như thế, người nhẫn nhục không hé răng mở miệng phàn nàn hay chống cự đánh trả, mà chỉ bình tĩnh giải thích sự việc và chịu đựng.

2- Khẩu nhẫn:

Là sự im lặng của miệng trước các nghịch cảnh không vừa ý, như có người chửi mắng, nói lời vu oan, đâm thọc, không nói có, có nói không, nói thêm bớt, nói bóng nói gió, nói thêu dệt v.v… Trước những lời nghịch tai như thế, người nhẫn nhục chỉ nói lời giải thích chân thật ôn hòa. Nếu không được nghe thì giữ yên lặng, chứ không nổi giận dùng những lời ác mà đối chọi lại, hoặc gây thành chuyện lớn, sinh cãi nhau, đánh lộn, giết chóc v.v...

3- Ý nhẫn:

Là sự nhẫn nhục của tâm ý, trong lòng người nhẫn nhục trước nghịch cảnh của thân không có ý nghĩ than trời trách đất về sự nóng lạnh bệnh tật, không than thân trách phận về sự thiếu thốn; người nhẫn nhục trước cảnh bị hành hạ xác thân hay bị vu oán giá họa, nhục mạ đủ điều, cũng đều nhẫn cả. Chỉ giải thích một cách chân thật, không hề có ý nghĩ tức giận, trong lòng không nổi lên oán hận căm hờn sẽ trả thù sau này v.v…

Trong ba loại nhẫn nhục, ý nhẫn là quan trọng nhất, vì có khi thân chịu đựng được những bất nghi, đau đớn, nhưng miệng còn thì thầm lẩm bẩm ca cẩm nguyền rủa; có khi miệng không nói năng chi cả, nhưng vẫn tức giận trong lòng rằng ”ngày nay ta không thể ăn tươi nuốt sống ngươi, ngày sau ta sẽ trả thù này”. Bên trong ý thức không nhẫn nhục được thì thế nào cũng có ngày sự giận dữ thù hằn sẽ hiện ra, không ở hành động, cũng ở lời nói; khi lòng tức giận hận thù được lắng xuống trước mọi nghịch cảnh, sự nhẫn nhục mới thật sự là kiên cố rộng lớn (Ba La Mật).

4 )- Nhẫn nhục như thế nào?

Có hai thứ nhẫn nhục:

1- Nhẫn nhục chấp tướng:

nhẫn nhụcdanh lợi, vì có người khen, vì sợ uy quyền, vì chưa đúng lúc, chưa có đủ đều kiện trả thù, vì coi rẻ khinh bỉ đối thủ v.v…Đó là nhẫn nhục chấp tướng, chưa phải là nhẫn nhục thực sự, vì còn do dục vọng tham, sân, si, mạn thúc đẩy chi phối.

2- Nhẫn nhục vô tướng:

Là khi nhẫn nhục không chấp vào tướng như nêu ở trên, người nhẫn nhục luôn luôn tự hỏi: “Ta có làm điều gì sai quấy không? Nếu có, ta bị sỉ nhục là phải, ta không nên tức giận mà phải cám ơn; nếu ta không làm điều gì sai quấy, sau này sẽ được chứng minh, vì vàng bao giờ cũng là vàng, không thể vàng mà là đồng được; hoặc ta không làm điều gì quấy, những sự sỉ nhục ấy chẳng dính liú gì tới ta, nên ta không cần khổ tâm suy nghĩ đến”.

Nhẫn nhục còn là: không muốn hơn thua, được mất, vinh nhục, khen chê, đây là tám thứ gió bão quật ngã mọi người; không tranh đua chèn ép người khác để đạt mục đích. Không tranh cãi phải trái, đúng sai, hay dở, tốt xấu, tranh chấp này nọ; không muốn đời là bãi chiến trường thù hận, thế giới là một lò lửa ngụt cháy; người nhẫn nhục còn tiến tớilòng từ bi hỉ xả rốt ráo.

Người tu hành muốn hành hạnh nhẫn nhục kiên cố (Ba La Mật), phải quán chúng sinh và mình cùng đồng một bản thể mới không thấy ta bị nhục và người làm nhục mình, thí dụ như tay phải làm việc cầm con dao hay cái búa, cắt đồ vật hay đóng đinh, rủi cắt hay đập phải ngón của bàn tay trái làm chảy máu hay sưng vù lên đau đớn. Bị thương tổn như thế, nhưng tay trái tự nhận tay phải cùng với mình (tay trái) đồng một thân thể, nên tay trái không thấy tay phải làm nhục làm hại mình; nhẫn nhục như thế mới là nhẫn nhục rốt ráo Ba La Mật.

5). Đức Phật dạy nhẫn nhục:

Chúng ta hãy lược trích một đoạn Kinh, đức Phật dạy người tu hành về nhẫn nhục trong Trung A Hàm quyển 4 trang 286, 290, 291 như sau:

Khi nghe, có năm cách nói: “Nói đúng lúc hay không đúng lúc, nói chân thật hay giả dối, nói dịu dàng hay hung ác, nói hòa hợp hay đâm thọc, nói có nghĩa hay vô nghĩa”, với năm cách nói này nếu người tu hành khi nghe mà tâm bị biến đổi, có thể miệng phát ra lời ác, người tu hành bị suy thoái. Khi ấy người tu phải khởi tâm từ mẫn đối với người kia, tâm tương ưng với Từ trải khắp một phương, thành tựu an trú; cũng vậy, hai, ba, bốn phương, phương trên phương dưới, bao trùm tất cả, không tranh cãi, không sân không oán. Đối với tâm Bi, Hỷ, Xả cũng vậy, không tranh, không sân oán, biến mãn tất cả thế gian rộng lớn trùm khắp, thành tựu an trú.

Cũng vậy, nếu người tu bị người khác dùng tay đấm, đá ném, gậy đánh, dao chém, mà tâm biến đổi, hay miệng phát lời ác, hay đánh trả, người tu tất bị suy thoái. Hãy học sao cho tâm không biến đổi, miệng không phát ra lời ác, không đánh trả, mà hướng đến người ấy, duyên nơi người ấy khởi tâm từ mẫn, không tranh, không kết, không oán, rất rộng lớn vô lượng vô biên, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an trụ, khéo tu tập như thế.

Cũng như vậy, nếu có giặc, cướp lấy lưỡi cưa bén cắt xẻ tay chân người tu hành, nếu tâm biến đổi, hay miệng phát ra lời ác, hay đánh giết trả, người tu tất suy thoái; hãy học sao cho tâm không biến đổi, không phát ra lời thô ác, không đánh giết trả, mà hướng đến người ấy khởi tâm từ mẫn. Tâm tương ưng với Từ trải khắp một phương, hai, ba, bốn năm, sáu phương, bao trùm tất cả, không tranh, không kết, không oán, rộng lớn bao trùm khắp thế gian, thành tựu an trú; hãy khéo tu tập như thế, liền được giải thoát.

6). Vài trường hợp điển hình:

1. Một câu chuyện liên quan tới nhẫn nhục của chính đức Phật mà Kinh sách ghi đã xẩy ra trong mùa an cư thứ chín của đức Phật. Khi ấy đức Phật mới 44 tuổi, trung niên, cường tráng, với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp, lại càng thêm uy nghi đẹp đẽ hấp dẫn. Đức Phật an cư ba tháng tại Kosambi, Ngài quán sát thế gian biết được một người Bà La Môn đã đủ cơ duyên nên Ngài đến nơi ông ta đang tế thần Lửa. Vị Bà La Môn thấy dung mạo tuyệt vời của đức Phật, ông nghĩ ngay đến người con gái diệu của ông, vì mấy năm liên tiếp ông có ý tìm kiếm một chàng rể xứng đáng nhưng chưa có người nào vừa ý cả; bởi vậy sau khi thăm hỏi chuyện trò thích ý, ông yêu cầu đức Phật ở lại chờ không lâu ông trở về nhà lấy tặng một món qùa đặc biệt. Đức Phật biết ý ông, nên đi đến một chỗ gần đấy nhưng cố ý để lại dấu vết chân, Ông Bà La Môn trở lại không thấy đức Phật, nhưng nhận ra vết dấu chân trên đất nên dẫn vợ, con gái trẻ đẹp với quần áo lộng lẫy, trang điểm mỹ lệ đi theo vết chân. Khi gặp mặt, ông giới thiệu vợ con, và tỏ ý muốn gả con gái cho đức Phật, đức Phật vừa từ chối vừa muốn độ cho Bà La Môn nên nói:

“Tôi đã thấy ái dục, bất mãn tham vọng là con của Ma Vương, tôi không ham muốn thích thú trong nhục dục của ái tình trần tục, thể xác đầy dục lạc là gì? Nó là khổ, là ràng buộc của sinh tử luân hồi, tôi không bao giờ muốn rờ đến nó, dù chỉ sờ bằng chân”.

Nghe những lời ấy, cả hai ông bà Bà La Môn đều chứng ngộ A Na Hàm là bậc chứng thứ ba trong Tứ Thiền, nhưng cô con gái Magandhiya thì trái lại, cô tức giận trong lòng; Cô cho rằng “Như thế là nhục mạ cô, chửi mắng cô”. Lòng tự ái của người con gái trong một gia đình giàu có quyền thế địa vị, trẻ đẹp. Chỉ mấy năm sau, cô trở thành thứ hậu của vua Udena, dựa trên thế lực đã có; Cô sai thuộc cấp mua chuộc, sai bảo người chửi mắng, nhục ma đủ điều, xua đuổi đức Phật ra khỏi thành ấy. Mỗi ngày đi khất thực đều bị hết toán người này đến toán người khác rỉa rói chửi rủa, họ nói: “Ông là tên ăn trộm, Ông là tên khờ dại, Ông là người ngu si, Ông là tên điên cuồng, Ông là con bò, là con lừa, là con lạc đà, Ông là con thú vật khờ dại v.v… Khi chết ông sẽ đọa Địa ngục, khi chết ông sẽ đọa chỗ nghèo khổ v.v…Ông hãy cút đi khỏi nơi đây, ở đây mọi người không muốn nhìn mặt ông , mọi người đều ghét ông không ưa ông v.v….”

Các Tỳ Kheo (Tăng) đệ tử của đức Phật thấy nhiều người dữ dằn dùng lời thô tục chửi rủa Ngài như vậy chịu đựng không nổi nên thưa:

- Người ta: chửi rủa và nhục mạ chúng ta qúa thậm tệ, xin Thế Tôn dời đi nơi khác”.

Đức Phật nói:

- Bây giờ chúng ta đi đâu?

- Thưa Thế Tôn, nên đi đến thành khác.

- Nếu ở thành đó người ta cũng chửi mắng và nhục mạ thì ta đi đâu?

- Thưa Thế Tôn, lại đi đến thành khác.

- Các Thầy: không nên nói vậy, nơi nào gặp chuyện khó khăn chính nơi ấy ta phải giải quyết cho ổn thỏa; chỉ khi nào giàn xếp xong xuôi ta mới có quyền đi nơi khác, nhưng ai chửi rủa nhục mạ ta?

- Thưa Thế Tôn, rất nhiều người chửi mắng nhục mạ.

Đức Phật giảng giải: “Như voi ra trận phải bị làn tên từ bốn phiá bắn tới, cũng như thế, ta phải chịu đựng những lời nguyền rủa chửi mắng từ mọi phiá, vì phần đông sống không có đạo đức, sống không giới đức. Nhiều voi ngựa được dẫn tới chỗ vua để lựa con thuần thục tốt nhất để cưỡi; giữa đám đông đảo người tụ hội, người xứng đáng nhất là người chịu đựng được những lời chửi mắng nguyền rủa; dù những con ngựa con voi trang trọng quý báu, nhưng người thuần thục giới đức trang nghiêm là hơn hết tất cả”.

đức Phật bảo:

- Các Thầy: không nên lo ngại, vì họ chỉ chửi mắng trong bảy ngày, ngày thứ tám họ sẽ ngừng, vì mọi chuyện khó khăn đến với Như Lai không bao giờ quá bảy ngày.

Đúng như lời đức Phật đã nói: đến ngày thứ tám, khi đức Phật đi khất thực, không còn thấy một người nào có hành động lỗ mãng với Ngài nữa.

Chúng ta thấy sự nhẫn nhục chịu đựng của đức Phật thật là có một không hai, đây mới thật là nhẫn nhục kiên cố; bảy ngày vào thành khất thực, bảy ngày đều bị hết toán người này đến toán người khác chửi bới nhục mạ xua đuổi thậm tệ suốt từ lúc bắt đầu vào thành cho đến lúc khất thực xong trở về nơi ngự; nếu như chúng ta gặp trường hợp như vậy sẽ xử trí ra sao?

2. Một câu chuyện nhẫn nhục khác của một đệ tử Phật mà Kinh sách đã ghi lại như sau:

“Thời ấy, một hôm Tôn giả Purna đến đảnh lễ rồi xin Phật cho phép Tôn giả được đi đến xứ Chronapraranta để giáo hóa, dân vùng này có tính hung dữ và tạo nhiều tội ác, đức Phật thấy thế nên hỏi Tôn giả:

- Thầy nguyện đem giáo pháp của Ta đến xứ ấy, nhưng nếu họ không nghe mà còn dùng lời hung ác nhục mạ, thầy nghĩ sao?

- Thưa Thế Tôn, con cho họ là người tốt, vì họ chỉ sỉ nhục mà không đánh đập con.

- Nếu họ hành hạ đánh đập thầy thì sao?

- Thưa, con nghĩ là họ còn có lòng tốt, vì họ đã không giết con.

- Nếu họ dùng dao giết hoặc dùng gậy đánh thầy cho tới khi chết mới thôi, thầy nghĩ sao?

- Thưa đức Thế Tôn, con nghĩ họ là ân nhân của con, vì họ đã giúp con bỏ được thân thối tha dơ bẩn này.

Đến đây, Tôn giả Purna được Phật khen và chấp thuận:

- Thầy nhẫn nhục như vậy mới có thể qua xứ ấy.

Tôn giả Purna qua xứ Chronaprananta giáo hóa một thời gian, hầu hết dân xứ ấy đều quy y Phật Pháp Tỳ Kheo (Tăng), vì Ngài đã hành nhẫn nhục từ bi hỉ xả từ trong đến ngoài của ý khẩu thân”.

7 )- Lợi ích của nhẫn nhục:

Đối với cá nhân, người nhẫn nhục tâm được an ổn, sự nghiệp bền vững, mọi người gần gũi, đối với gia đình được xum họp, bạn bè gắn bó, xã hội yên ổn thanh bình. Vì nhận thấy sự lợi ích của nhẫn nhục nên Phật đã dạy:

Người hơn gây oán hận,

Kẻ thua lòng không yên,

Hơn thua đều buông bỏ,

An ổn ngủ ngon lành.

Sự quyết tâm thực hành nhẫn nhục nhất là những người đã từng bị lửa hận làm cho tan nát cõi lòng, lại càng nên thực hành nhẫn nhục. Người có tu hành phải để ý từng tí từng li về hạnh nhẫn nhục từ thân đến khẩu và nhất là ý. Không buông lung mặc cho ý muốn phát lúc nào thì khởi lúc ấy, không để cho tham sân si điều khiển sẽ có được tâm an bình. Được tâm an bình rồi, việc tu hành mới có thể tinh tấn, khi đã tinh tấn tới mức, lo gì không đạt đạo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16635)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13222)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12680)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 13516)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11690)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14218)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17707)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22569)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13430)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 15511)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 16041)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11316)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15638)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13105)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 21855)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 16097)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19076)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24757)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 17586)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17055)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 18539)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18983)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18778)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 14367)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 23044)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28448)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15145)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 13640)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16380)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 143379)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 16288)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 17358)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 47344)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39067)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15747)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23034)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 16701)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 14252)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 13844)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17163)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 14301)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16869)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 27897)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 50091)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38406)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 28503)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52105)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35788)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32813)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50710)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 63583)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 49605)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 56925)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47445)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39328)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38403)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 36521)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32165)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 46614)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 39998)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant