Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đời Là Vô Thường

17 Tháng Tư 201509:10(Xem: 20969)
Đời Là Vô Thường
ĐỜI LÀ VÔ THƯỜNG


Toàn Không

Đời Là Vô Thường



(Trung A Hàm quyển 3 từ trang 27 đến 30; Tạp A Hàm quyển 3 Kinh số 953, 955, 956 từ trang 387 đến 392, quyển 4 Kinh số 1227 từ trang 379 đến 382)

1). Vô thường là gì?

Vô thường là thay đổi, không cố định, nay thế này mai thế khác không chắc chắn, Vô thườngtính chất căn bản của đời sống; tất cả mọi sự vật sinh ra có điều kiện đều có tính chất của bốn giai đoạn “thành, trụ, hoại, diệt” (thành: dựng lên, trụ: ổn cố, hoại: suy tàn, diệt: không còn) hay “sinh, già, bệnh, chết”. Từ tính vô thường đưa đến các đặc tính khác là “Khổ”, “Vô ngã” (không có ta), “Không”; chúng đều là căn bản của đạo Phật, là chân lí trong cuộc đời, là sự thực hiển nhiên không một ai có thể bác bỏ được.

Nhiều người không dám nói đến vô thường, khổ, vô ngã, không, vì họ sợ sự thật; Đạo Phật trái lại, luôn luôn nói về sự thật, phân tích sự thật, vạch trần sự thật; Đạo Phật nói về “Vô thường, khổ, vô ngã, không”, không phải để than trời trách đất rằng tại sao lại như thế, tại sao không cho “thường hằng (sống mãi), sung sướng, thân bất hoại (không tiêu diệt), luôn luôn hiện hữu”?

Đạo Phật nhận chân sự thật để tìm giải pháp đối phó, chứ không phải ngồi đó mà than khóc như nhiều người hiểu lầm cho rằng Phật giáo “Thụ động (hành động trong khuất phục), yếm thế (chán đời)”; chính những người không hiểu sự thật, khi sự việc xảy ra rồi ngồi đó mà than trời trách đất, khóc than, van xin khẩn cầu, đó mới là thụ động yếm thế.

2). Tính chất của vô thường:

Vô thường: có thực chất là thay đổi, nhưng có hai loại thay đổi là thay đổi tốt đẹp khá hơn lên, và thay đổi thoái hóa tồi tệ hơn, chúng ta thử phân tích hai tình trạng của sự thay đổi này.

1- Tình trạng thay đổi tốt hơn:

Thay đổi tốt hơn khá hơn, tiến bộ gây sự thỏa mãn vui thíchchúng ta gọi là lớn lên, thành công, giàu lên, thăng tiến, kết qủa v.v…Như khi ta trồng một cây con còn nhỏ, sau ít năm vun tưới chăm nom, cây lớn lên sinh hoa kết qủa. Tới mùa qủa chín ta có qủa ăn, mọi người ăn đều khen nức nở: “Cây thật qúy qúa, trái ăn ngon qúa!”; đây là vô thường tiến bộ, ta thấy có sự vui.

Một cái xe cũ hư, ta đem sửa cho tốt lại, đó là sự thay đổi của cái xe từ xấu qua tốt. Chúng ta chỉ phải bỏ ra một số tiền trả cho sự sửa chữa sơn phết lại là có xe tốt đẹp chạy; đây là sự thay đổi từ xấu qua tốt, mang lại sự tiện nghi vui vẻ.

Một căn nhà ọp ẹp tồi tàn, chúng ta phá đi, bỏ tiền bạc ra, gia đình góp sức công, mướn người xây dựng căn nhà mới đẹp đẽ tiện nghi; chúng ta có một sự thay đổi rất vui vẻ sau khi hoàn tất ngôi nhà.

Một đứa bé mới ngày nào còn nhỏ tí, nay đã thành người trung niên cường trángvợ con đầy nhà, công danh sự nghiệp thoải mái, nhà cao cửa rộng, với một sự thay đổi thăng tiến mọi mặt vui vẻ như thế.

Một người buôn bán xưa kia chỉ là người bán rong ngoài đường, nay đã trở thành đại thương gia, có nhiều cửa hàng lớn, có nhiều dịch vụ làm ăn buôn bán; một sự thay đổi tiến bộ làm cho người ấy hãnh diện vui mừng.

Một người tu hành trước kia là Sa Di, sau hơn hai chục năm bây giờ đã là Thượng Tọa, cai quản một ngôi chùa; tất cả đều là thay đổi tiến bộ, vô thường mà vui chứ không khổ, không buồn chán; vô thường này là được thêm, khá hơn, tốt đẹp hơn; tuy nhiên trong cái vui này vẫn có cái cực, cái khổ, cái buồn lẫn lộn, tại sao thế?

Vì khi trồng cây phải mất công tưới chăm sóc nên cực, sửa xe phải kiếm tiền để có tiền trả công sửa nên kém vui. Làm nhà mới thay nhà cũ phải tốn nhiều tiền, vất vả trong mấy tháng trời mới xong, nhiều khi nghĩ “thà ở nhà cũ cho rồi, ham nhà mới cực qúa chịu không nổi, đã phóng lao phải theo lao, biết làm sao được”. Đứa bé ngày nào nay thành người trung niên đầy đủ như thế, nhưng có biết đâu rằng biết bao chịu đựng gian nan khổ cực thức khuya dậy sớm học hành chăm chỉ, bon chen thi tài thi sức tranh đua mới có được ngày nay. Người buôn bán lại càng khổ cực trăm bề, cực nhọc đêm ngày, mánh mung đủ cả mới có được như ngày nay; người tu hành cũng thế, phải thức khuya dậy sớm, chịu sự chỉ giáo của các bậc huynh trưởng, thầy dậy, nhiều người không hiểu thì cảm thấy khổ.

2-Tình trạng thay đổi xấu hơn:

Sự thay đổi xấu hơn, tồi tệ hơn, mà chúng ta gọi là tụt dốc không có phanh thắng, không có cách gì kìm giữ lại được, sư thay đổi ngoài sự kiểm soát của ta; những sự thay đổi này thường làm cho ta thất vọng, không vui; như cây đang được ăn qủa mỗi mùa biết bao nhiêu trái to lớn ngon ngọt, chỉ được một số năm Nay đã cằn cỗi không còn nhiều qủa, không còn to trái, không còn ngọt như xưa nữa, nên không còn phấn khởi, không còn ca ngợi cây ấy mà có một tí không vui.

Như cái xe mới sửa, đi không được bao lâu lại hư thứ khác không sử dụng được nữa, phải sửa nữa hoặc bằng cách mua xe mới thay thế. Do đó lòng chẳng được vui mà thấy thất vọng buồn lo; chạy đầu này đầu nọ để có tiền xây cất nhà mới, tốn của tốn công biết bao nhiêu, vừa ở được ít năm đã thấy nước sơn cũ đi, tường nứt, cánh cửa khép không được vì sức nặng của cửa làm cho trễ xuống v.v…, nên chẳng còn thấy vui với căn nhà nữa.

Đứa bé năm nào nay mới bốn năm chục đã thấy trên đầu có một vài sợi tóc bạc báo hiệu sắp sửa già; ấy thế mà còn phải làm việc cực khổ hơn nữa để lo cho gia đình, làm sao để được vững mạnh, dựng vợ gả chồng cho con cái v.v…nên rất là cực khổ từ thể xác lẫn tâm thần.

Người buôn bán đang thịnh vượng, rủi vì duyên cớ nào đó bị phá sản, gia tài tiêu tan, sự nghiệp bỗng chốc thành mây khói, thật là khổ; tất cả những sự thay đổi xấu tồi tệ hơn, đều gây cho ta cảm giác không vui không thích, buồn phiền khổ não.

3). Tại sao vô thường thì khổ?

1- Trường hợp điển hình:

Chúng ta nêu ra một trường hợp điển hình trong muôn nghìn trường hợp điển hình đã xảy ra trong xã hội:

Có một bà cụ, gia đình bình thường vừa đủ ăn, chỉ trong vòng mười năm từ 1997 đến 2007 có bốn người con chết và một người nằm liệt giường như sau: Người con trai trưởng đột nhiên bị tai nạn thảm khốc chết để lại một con trai bốn tuổi với người con dâu. Một năm sau người con gái lớn của bà cụ có chồng chết không con, về ở với bà cụ. Rồi người con dâu bị bệnh nan y, chạy thầy chạy thuốc, bệnh viện nhà thương đủ cả, nhưng rút cục hơn một năm đau ốm thì qua đời khi đứa cháu nội mới bảy tuổi côi cút không cha không mẹ. Sau lại có người con trai thứ mắc bệnh nan y trong ba năm thuốc thang thì chết để lại một đứa cháu nội bốn tuổi với người con dâu của người con thứ. Năm 2007, người con gái lớn nằm biệt giường phải đi lọc thận mỗi tuần ba lần! Làm sao có tiền trả nhà thương bác sĩ? Chỉ còn cách bán bớt tài sản chứ không còn cách nào khác, thật là một cảnh khổ trần gian, bà cụ nay đã gần 90 tuổi rồi, nếu không nghĩ đến vô thường và nhận chân cuộc đời, làm sao sống nổi?!

2- Đức Phật nói về vô thường:

Trong Tạp A Hàm, quyển 3 Kinh số 953, 955, 956 từ trang 387 đến 392 ghi: Một thời Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn vườn Cấp Cô Độc thuộc nước Xá Vệ, bấy giờ đức Phật bảo các Tỳ kheo:

Chúng sinh từ vô thủy xoay vần, không biết cội gốc của khổ, ví như trời mưa to, bong bóng vừa sinh liền diệt, như có người xoay bánh xe luân chuyển sáu đường, thường xoay chuyển không ngừng. Chúng sinh xoay vần trong sáu cõi cũng thế, hoặc Địa ngục, Ngạ qủy, Súc sinh, Thần, Trời, Người, luôn luôn chuyển đổi không ngừng; chúng sinh bị vô minh che lấp, bị ái dục buộc cổ từ vô thủy sinh tử tử sinh, sự sống, cái chết cứ thế xoay vần, chẳng biết cội gốc của khổ.

Tất cả “hành” (lời nói, ý nghĩ, việc làm) là vô thường, chẳng thường hằng, chẳng an định, là “pháp” (bản tính) biến đổi; vậy nên chán lià hành, ly hành, cầu giải thoát.

Thời xa xưa, núi Tỳ Phú La thuộc nước Xá Vệ này gọi là núi Trường Trúc, có dân cư ngụ dưới chân núi gọi là xóm Đề Di La, lúc ấy con người sống trung bình bốn vạn tuổi (cách nay khoảng bốn triệu năm); thời ấy có đức Phật hiệu Câu Lưu Tôn xuất hiệnthế gian, thuyết pháp, giáo hóa v.v… Nhưng sau tên gọi núi Trường Trúc đã biến mất, người dân, tên xóm Đề Di La cũng không còn, Phật Câu Lưu Tôn đã nhập Niết Bàn từ thuở ấy.

Thời sau đó, núi Tỳ Phú La này gọi là núi Bằng Ca, khi ấy nhân dân sống dưới chân núi gọi là ấp A Tỳ Ca, lúc ấy tuổi thọ con người trung bình ba vạn tuổi (cách nay khoảng ba triệu năm); thời ấy có đức Phật Câu Na Hàm xuất hiệnthế gian, diễn nói kinh pháp, chỉ bày rõ ràng v.v…Nhưng tên núi Bằng Ca đã biến mất, tên ấp A Tỳ Ca không còn, và nhân dân thuở ấy cũng đã chết từ lâu, đức Phật Câu Na Hàm cũng đã nhập Niết Bàn.

Sau nữa, cũng thời qúa khứ xa, núi Tỳ Phú La này gọi là núi Túc Ba La Thủ, dân cư ngụ dưới chân núi gọi là thôn Xích Mã, lúc ấy con người sống trung bình hai vạn tuổi (cách nay khoảng hai triệu năm). Thời ấy có đức Phật hiệu Ca Diếp xuất hiệnthế gian diễn thuyết giáo lý ban đầu, chặng giữa, sau cùng đều vi diệu thanh tịnh. Nhưng tên núi Túc Ma La Thủ đã không còn, người thôn Xích Mã đã biến mất từ lâu, đức Phật Ca Diếp cũng đã nhập Niết Bàn.

Ngày nay, núi này tên Tỳ Phú La đã đổi tên nhiều lần trải dài theo thời gian như thế, nhân dân quanh núi sinh sống được gọi là thành Vương Xá thuộc nước Ma Kiệt Đà. Tuổi thọ con người trung bình còn có một trăm tuổi (thời này có người sống tới 120. 130, 140). Người dân rồi cũng chết đi, Như Lai chẳng bao lâu cũng sẽ nhập Niết Bàn, mọi thứ đều biến đổi, vô thường cả; chẳng thường hằng, chẳng bình an, vì thế nên tu chán lià, ly dục, giải thoátcứu cánh chân thật; hãy suy nghĩ về vô thường, đem hết tâm nghĩ vô thường liền được đoạn tận ái dục, đoạn tận vô minh, kiêu mạn sẽ được dẹp hết, được giải thoát khỏi khổ.

3 - Khổ từ đâu phát sinh?

Tất cả con người mắc phải bệnh chấp, muốn cái gì mình ưa mình thích còn mãi mãi. Cái gì đẹp, cái gì hay, cái gì đem lại quyền lợi, hạnh phúc, lâu bền, cái gì có liên quan liên hệ tới ta, khi không còn nữa, mất đi, ta cảm thấy buồn khổ. Đây là lòng tham cái sở hữu của mình, nếu những sự mất mát như thế của người khác, ta có đau buồn không; cái xe của người khác hư, ta có buồn không, thân nhân của người khác chết, ta có buồn không? Chỉ những gì liên quan tới mình khi mất mới buồn, đó là do chấp ngã, chấp ta, chấp cái của ta, nên khi vô thường đến ta bị kéo lôi theo rồi đâm ra buồn khổ.

Đối với cơ thể con người cũng vậy, luôn luôn có sự thay đổi từ thân xác đến tâm thần. Mỗi phút mỗi giây các tế bào trong cơ thể tăng trưởng và chết đi không ngừng; khi lớn tuổi tế bào tăng trưởng ít đi, trong khi tế bào chết gia tăng, đó là vào thời kỳ suy tàn; khi ta nghe ai nói già liền phản đối không chịu, la mắng người nói là mình già, nhưng sự thực nó hiển hiện trên khuôn mặt dáng người, làm sao có thể chối cãi được với vô thường thay đổi; khi còn trẻ làm đủ thứ việc không thấy mệt, khi lớn tuổi, làm việc chút ít đã thở mệt, rồi tự trách sao yếu qúa như thế? Đâu biết mỗi ngày ta xích dần lại chỗ chết một tí, thế mà nghe nói đến chữ “chết” thì hoảng sợ, vì không hiểu thể xác luôn luôn biến đổi.

Ngay cả: tâm niệm, nhớ nghĩ cũng biến đổi sinh diệt liên tục không dừng trong mỗi giây phút; ý nghĩ này sinh ra rồi mất đi, tưởng nhớ khác hiện lên tiếp nối, sinh ra, mất đi như dòng nước chảy không cùng tận.

Mọi người cứ tưởng tâm niệm trước sau như một, nên thấy ai thay lòng đổi dạ, họ oán trách, giận hờn, phản kháng đủ điều; có biết đâu rằng hoàn cảnh, điều kiện thay đổi, nên tâm tính người chuyển đổi theo; không nên tin tưởng rằng dù ở hoàn cảnh nào, tâm tính người vẫn như xưa, đó là tin tưởng sai lầm, nên mới có khổ.

4). Làm sao vô thường đến ít khổ?

Nếu sáng suốt nhận định thân là thay đổi, vô thường, tâm tínhchuyển biến không ngừng, có mất mát, bệnh hoạn, già chết, cũng không có gì phải sợ phải buồn; lòng người có thay đổi, ta cũng không thấy có gì là lạ cả, như thế sẽ sống yên ổn.

Những ai đã từng xa lâu năm nơi chôn nhau cắt rốn, khi trở lại thăm quê cũ người xưa, đều sẽ thấy sự thay đổi không còn nhận ra đâu vào đâu cả; nếu không có người dẫn đường chỉ lối, chắc chắnđi lạc không nhiều thì ít. Vì tất cả đều thay đổi với thời gian, nhà cũ biến mất hoặc siêu vẹo điêu tàn, nhà mới cất lên, đường sá khác hẳn; người xưa đâu mất, người nay mới lớn lên, chẳng nhận ra ai, đó là sự biến đổi, vô thường vật chất.

Nếu cố bám víu vào những hình ảnh xưa kia, chúng ta sẽ buồn, nên hiểu rằng vạn vật đều đổi thay, chúng ta không còn cảm thấy lạc lõng và không còn buồn nữa.

Bản thân muôn vật: đều biến chuyển đổi mới, thấy rõ như vậy là thấy sự thật; nghĩ rằng mọi vật là nguyên vẹn không thay đổi là không đúng, là cố chấp; bởi vậy phải học hỏi, quán sát để thấy các sự vật đúng như thật của nó.

Mọi vật từ người vật đến cỏ cây đều có tăng trưởng, tốt đẹp rồi cằn cỗi. Mọi vật đều thay đổi, không có cái gì cố định bền vững mãi mãi, vì bản chất nó là vô thường, không có chủ thể của nó, tức là vô ngã, như thân người do lục đại là đất, nước, gió, lửa, không, thức hợp lại mà thành. Một trong những thứ đó biến hoại là thân ta biến hoại theo, không thể giữ lại được.

Thân ta mũi thở tim bóp, máu lưu thông, các tế bào, các bộ phận đều làm phận sự của nó, nếu chúng dừng lại là ta chết.

Ngay cả hệ thống mặt trời cũng đang làm nhiệm vụ của nó là quay theo giải ngân hà, các hành tinh quay quanh mặt trời, các mặt trăng quay quanh các hành tinh. Dù trái đất này vững chắc như thế, cũng không phải là nó trường tồn bất biến, tới một ngày nào đó, nó cũng phải theo luật vô thường là thành, trụ, hoại, diệt.

Nếu sáng suốt nhận định mọi sự ở đời đều là vô thường, ta sẽ ít buồn khổ.

5). Tóm kết đời vô thường:

Do biết vạn vật vô thường, nên chúng ta chấp nhận những đổi thay của cuộc đời, như vậy là người hiểu biết sự vật một cách chân thật. Đây là người có chính kiến, thấy rõ mọi sự việc do nhân duyên sinh nên có, hết nhân hết duyên nên phải diệt, nên là không. Chẳng có cái gì có thực thể bản chất riêng biệt của nó mà tồn tại được, thấy rõ như vậy, mọi sự đổi thay, chuyển biến, ta sẵn sàng chấp nhận, và như vậy không có sự bất mãn trước sự thay đổi, không bất mãn, không bực tức thì không đau khổ.

Sở dĩ chúng ta buồn khổ là vì sợ mất cái này, sợ mất cái kia, sợ thân này ốm đau, sợ thân này già xấu, sợ chết; biết mọi vật là đổi thay vô thường rồi, có mất, có bệnh, có già, có xấu, có chết, cũng là lẽ thường ở đời, có gì mà phải sợ, phải lo, phải buồn khổ? Mọi người đều chung cùng số phận của nghiệp báo, làm lành hưởng lành, làm ác chịu qủa dữ, có phải chỉ riêng ta đâu mà buồn khổ?

Cái hơn là ta biết được sự thực ở đời là vô thường như thế, biết có nhân có qủa, ta cố gắng làm những việc phúc đức để gieo trồng qủa lành; còn người không biết thì khác, họ sợ hãi khi thấy chung quanh họ biến đổi, nhất là thân thể họ biến đổi lại càng lo sợ bấn loạn tâm thần, nên càng sầu não buồn khổ hơn.

Toàn Không

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18449)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 24992)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23648)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28780)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20723)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31332)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25411)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29577)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22397)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25574)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23116)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25624)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23603)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40480)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23208)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22282)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 21964)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23375)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 24190)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 40894)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18855)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20332)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27584)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 37931)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 24333)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22548)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26393)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 53333)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23462)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 20978)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 30717)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 20932)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38611)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 20408)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 20401)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 26907)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 27957)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 36928)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 55037)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 37836)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 14378)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10505)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant