Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đời Là Vô Thường

17 Tháng Tư 201509:10(Xem: 20970)
Đời Là Vô Thường
ĐỜI LÀ VÔ THƯỜNG


Toàn Không

Đời Là Vô Thường



(Trung A Hàm quyển 3 từ trang 27 đến 30; Tạp A Hàm quyển 3 Kinh số 953, 955, 956 từ trang 387 đến 392, quyển 4 Kinh số 1227 từ trang 379 đến 382)

1). Vô thường là gì?

Vô thường là thay đổi, không cố định, nay thế này mai thế khác không chắc chắn, Vô thườngtính chất căn bản của đời sống; tất cả mọi sự vật sinh ra có điều kiện đều có tính chất của bốn giai đoạn “thành, trụ, hoại, diệt” (thành: dựng lên, trụ: ổn cố, hoại: suy tàn, diệt: không còn) hay “sinh, già, bệnh, chết”. Từ tính vô thường đưa đến các đặc tính khác là “Khổ”, “Vô ngã” (không có ta), “Không”; chúng đều là căn bản của đạo Phật, là chân lí trong cuộc đời, là sự thực hiển nhiên không một ai có thể bác bỏ được.

Nhiều người không dám nói đến vô thường, khổ, vô ngã, không, vì họ sợ sự thật; Đạo Phật trái lại, luôn luôn nói về sự thật, phân tích sự thật, vạch trần sự thật; Đạo Phật nói về “Vô thường, khổ, vô ngã, không”, không phải để than trời trách đất rằng tại sao lại như thế, tại sao không cho “thường hằng (sống mãi), sung sướng, thân bất hoại (không tiêu diệt), luôn luôn hiện hữu”?

Đạo Phật nhận chân sự thật để tìm giải pháp đối phó, chứ không phải ngồi đó mà than khóc như nhiều người hiểu lầm cho rằng Phật giáo “Thụ động (hành động trong khuất phục), yếm thế (chán đời)”; chính những người không hiểu sự thật, khi sự việc xảy ra rồi ngồi đó mà than trời trách đất, khóc than, van xin khẩn cầu, đó mới là thụ động yếm thế.

2). Tính chất của vô thường:

Vô thường: có thực chất là thay đổi, nhưng có hai loại thay đổi là thay đổi tốt đẹp khá hơn lên, và thay đổi thoái hóa tồi tệ hơn, chúng ta thử phân tích hai tình trạng của sự thay đổi này.

1- Tình trạng thay đổi tốt hơn:

Thay đổi tốt hơn khá hơn, tiến bộ gây sự thỏa mãn vui thíchchúng ta gọi là lớn lên, thành công, giàu lên, thăng tiến, kết qủa v.v…Như khi ta trồng một cây con còn nhỏ, sau ít năm vun tưới chăm nom, cây lớn lên sinh hoa kết qủa. Tới mùa qủa chín ta có qủa ăn, mọi người ăn đều khen nức nở: “Cây thật qúy qúa, trái ăn ngon qúa!”; đây là vô thường tiến bộ, ta thấy có sự vui.

Một cái xe cũ hư, ta đem sửa cho tốt lại, đó là sự thay đổi của cái xe từ xấu qua tốt. Chúng ta chỉ phải bỏ ra một số tiền trả cho sự sửa chữa sơn phết lại là có xe tốt đẹp chạy; đây là sự thay đổi từ xấu qua tốt, mang lại sự tiện nghi vui vẻ.

Một căn nhà ọp ẹp tồi tàn, chúng ta phá đi, bỏ tiền bạc ra, gia đình góp sức công, mướn người xây dựng căn nhà mới đẹp đẽ tiện nghi; chúng ta có một sự thay đổi rất vui vẻ sau khi hoàn tất ngôi nhà.

Một đứa bé mới ngày nào còn nhỏ tí, nay đã thành người trung niên cường trángvợ con đầy nhà, công danh sự nghiệp thoải mái, nhà cao cửa rộng, với một sự thay đổi thăng tiến mọi mặt vui vẻ như thế.

Một người buôn bán xưa kia chỉ là người bán rong ngoài đường, nay đã trở thành đại thương gia, có nhiều cửa hàng lớn, có nhiều dịch vụ làm ăn buôn bán; một sự thay đổi tiến bộ làm cho người ấy hãnh diện vui mừng.

Một người tu hành trước kia là Sa Di, sau hơn hai chục năm bây giờ đã là Thượng Tọa, cai quản một ngôi chùa; tất cả đều là thay đổi tiến bộ, vô thường mà vui chứ không khổ, không buồn chán; vô thường này là được thêm, khá hơn, tốt đẹp hơn; tuy nhiên trong cái vui này vẫn có cái cực, cái khổ, cái buồn lẫn lộn, tại sao thế?

Vì khi trồng cây phải mất công tưới chăm sóc nên cực, sửa xe phải kiếm tiền để có tiền trả công sửa nên kém vui. Làm nhà mới thay nhà cũ phải tốn nhiều tiền, vất vả trong mấy tháng trời mới xong, nhiều khi nghĩ “thà ở nhà cũ cho rồi, ham nhà mới cực qúa chịu không nổi, đã phóng lao phải theo lao, biết làm sao được”. Đứa bé ngày nào nay thành người trung niên đầy đủ như thế, nhưng có biết đâu rằng biết bao chịu đựng gian nan khổ cực thức khuya dậy sớm học hành chăm chỉ, bon chen thi tài thi sức tranh đua mới có được ngày nay. Người buôn bán lại càng khổ cực trăm bề, cực nhọc đêm ngày, mánh mung đủ cả mới có được như ngày nay; người tu hành cũng thế, phải thức khuya dậy sớm, chịu sự chỉ giáo của các bậc huynh trưởng, thầy dậy, nhiều người không hiểu thì cảm thấy khổ.

2-Tình trạng thay đổi xấu hơn:

Sự thay đổi xấu hơn, tồi tệ hơn, mà chúng ta gọi là tụt dốc không có phanh thắng, không có cách gì kìm giữ lại được, sư thay đổi ngoài sự kiểm soát của ta; những sự thay đổi này thường làm cho ta thất vọng, không vui; như cây đang được ăn qủa mỗi mùa biết bao nhiêu trái to lớn ngon ngọt, chỉ được một số năm Nay đã cằn cỗi không còn nhiều qủa, không còn to trái, không còn ngọt như xưa nữa, nên không còn phấn khởi, không còn ca ngợi cây ấy mà có một tí không vui.

Như cái xe mới sửa, đi không được bao lâu lại hư thứ khác không sử dụng được nữa, phải sửa nữa hoặc bằng cách mua xe mới thay thế. Do đó lòng chẳng được vui mà thấy thất vọng buồn lo; chạy đầu này đầu nọ để có tiền xây cất nhà mới, tốn của tốn công biết bao nhiêu, vừa ở được ít năm đã thấy nước sơn cũ đi, tường nứt, cánh cửa khép không được vì sức nặng của cửa làm cho trễ xuống v.v…, nên chẳng còn thấy vui với căn nhà nữa.

Đứa bé năm nào nay mới bốn năm chục đã thấy trên đầu có một vài sợi tóc bạc báo hiệu sắp sửa già; ấy thế mà còn phải làm việc cực khổ hơn nữa để lo cho gia đình, làm sao để được vững mạnh, dựng vợ gả chồng cho con cái v.v…nên rất là cực khổ từ thể xác lẫn tâm thần.

Người buôn bán đang thịnh vượng, rủi vì duyên cớ nào đó bị phá sản, gia tài tiêu tan, sự nghiệp bỗng chốc thành mây khói, thật là khổ; tất cả những sự thay đổi xấu tồi tệ hơn, đều gây cho ta cảm giác không vui không thích, buồn phiền khổ não.

3). Tại sao vô thường thì khổ?

1- Trường hợp điển hình:

Chúng ta nêu ra một trường hợp điển hình trong muôn nghìn trường hợp điển hình đã xảy ra trong xã hội:

Có một bà cụ, gia đình bình thường vừa đủ ăn, chỉ trong vòng mười năm từ 1997 đến 2007 có bốn người con chết và một người nằm liệt giường như sau: Người con trai trưởng đột nhiên bị tai nạn thảm khốc chết để lại một con trai bốn tuổi với người con dâu. Một năm sau người con gái lớn của bà cụ có chồng chết không con, về ở với bà cụ. Rồi người con dâu bị bệnh nan y, chạy thầy chạy thuốc, bệnh viện nhà thương đủ cả, nhưng rút cục hơn một năm đau ốm thì qua đời khi đứa cháu nội mới bảy tuổi côi cút không cha không mẹ. Sau lại có người con trai thứ mắc bệnh nan y trong ba năm thuốc thang thì chết để lại một đứa cháu nội bốn tuổi với người con dâu của người con thứ. Năm 2007, người con gái lớn nằm biệt giường phải đi lọc thận mỗi tuần ba lần! Làm sao có tiền trả nhà thương bác sĩ? Chỉ còn cách bán bớt tài sản chứ không còn cách nào khác, thật là một cảnh khổ trần gian, bà cụ nay đã gần 90 tuổi rồi, nếu không nghĩ đến vô thường và nhận chân cuộc đời, làm sao sống nổi?!

2- Đức Phật nói về vô thường:

Trong Tạp A Hàm, quyển 3 Kinh số 953, 955, 956 từ trang 387 đến 392 ghi: Một thời Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn vườn Cấp Cô Độc thuộc nước Xá Vệ, bấy giờ đức Phật bảo các Tỳ kheo:

Chúng sinh từ vô thủy xoay vần, không biết cội gốc của khổ, ví như trời mưa to, bong bóng vừa sinh liền diệt, như có người xoay bánh xe luân chuyển sáu đường, thường xoay chuyển không ngừng. Chúng sinh xoay vần trong sáu cõi cũng thế, hoặc Địa ngục, Ngạ qủy, Súc sinh, Thần, Trời, Người, luôn luôn chuyển đổi không ngừng; chúng sinh bị vô minh che lấp, bị ái dục buộc cổ từ vô thủy sinh tử tử sinh, sự sống, cái chết cứ thế xoay vần, chẳng biết cội gốc của khổ.

Tất cả “hành” (lời nói, ý nghĩ, việc làm) là vô thường, chẳng thường hằng, chẳng an định, là “pháp” (bản tính) biến đổi; vậy nên chán lià hành, ly hành, cầu giải thoát.

Thời xa xưa, núi Tỳ Phú La thuộc nước Xá Vệ này gọi là núi Trường Trúc, có dân cư ngụ dưới chân núi gọi là xóm Đề Di La, lúc ấy con người sống trung bình bốn vạn tuổi (cách nay khoảng bốn triệu năm); thời ấy có đức Phật hiệu Câu Lưu Tôn xuất hiệnthế gian, thuyết pháp, giáo hóa v.v… Nhưng sau tên gọi núi Trường Trúc đã biến mất, người dân, tên xóm Đề Di La cũng không còn, Phật Câu Lưu Tôn đã nhập Niết Bàn từ thuở ấy.

Thời sau đó, núi Tỳ Phú La này gọi là núi Bằng Ca, khi ấy nhân dân sống dưới chân núi gọi là ấp A Tỳ Ca, lúc ấy tuổi thọ con người trung bình ba vạn tuổi (cách nay khoảng ba triệu năm); thời ấy có đức Phật Câu Na Hàm xuất hiệnthế gian, diễn nói kinh pháp, chỉ bày rõ ràng v.v…Nhưng tên núi Bằng Ca đã biến mất, tên ấp A Tỳ Ca không còn, và nhân dân thuở ấy cũng đã chết từ lâu, đức Phật Câu Na Hàm cũng đã nhập Niết Bàn.

Sau nữa, cũng thời qúa khứ xa, núi Tỳ Phú La này gọi là núi Túc Ba La Thủ, dân cư ngụ dưới chân núi gọi là thôn Xích Mã, lúc ấy con người sống trung bình hai vạn tuổi (cách nay khoảng hai triệu năm). Thời ấy có đức Phật hiệu Ca Diếp xuất hiệnthế gian diễn thuyết giáo lý ban đầu, chặng giữa, sau cùng đều vi diệu thanh tịnh. Nhưng tên núi Túc Ma La Thủ đã không còn, người thôn Xích Mã đã biến mất từ lâu, đức Phật Ca Diếp cũng đã nhập Niết Bàn.

Ngày nay, núi này tên Tỳ Phú La đã đổi tên nhiều lần trải dài theo thời gian như thế, nhân dân quanh núi sinh sống được gọi là thành Vương Xá thuộc nước Ma Kiệt Đà. Tuổi thọ con người trung bình còn có một trăm tuổi (thời này có người sống tới 120. 130, 140). Người dân rồi cũng chết đi, Như Lai chẳng bao lâu cũng sẽ nhập Niết Bàn, mọi thứ đều biến đổi, vô thường cả; chẳng thường hằng, chẳng bình an, vì thế nên tu chán lià, ly dục, giải thoátcứu cánh chân thật; hãy suy nghĩ về vô thường, đem hết tâm nghĩ vô thường liền được đoạn tận ái dục, đoạn tận vô minh, kiêu mạn sẽ được dẹp hết, được giải thoát khỏi khổ.

3 - Khổ từ đâu phát sinh?

Tất cả con người mắc phải bệnh chấp, muốn cái gì mình ưa mình thích còn mãi mãi. Cái gì đẹp, cái gì hay, cái gì đem lại quyền lợi, hạnh phúc, lâu bền, cái gì có liên quan liên hệ tới ta, khi không còn nữa, mất đi, ta cảm thấy buồn khổ. Đây là lòng tham cái sở hữu của mình, nếu những sự mất mát như thế của người khác, ta có đau buồn không; cái xe của người khác hư, ta có buồn không, thân nhân của người khác chết, ta có buồn không? Chỉ những gì liên quan tới mình khi mất mới buồn, đó là do chấp ngã, chấp ta, chấp cái của ta, nên khi vô thường đến ta bị kéo lôi theo rồi đâm ra buồn khổ.

Đối với cơ thể con người cũng vậy, luôn luôn có sự thay đổi từ thân xác đến tâm thần. Mỗi phút mỗi giây các tế bào trong cơ thể tăng trưởng và chết đi không ngừng; khi lớn tuổi tế bào tăng trưởng ít đi, trong khi tế bào chết gia tăng, đó là vào thời kỳ suy tàn; khi ta nghe ai nói già liền phản đối không chịu, la mắng người nói là mình già, nhưng sự thực nó hiển hiện trên khuôn mặt dáng người, làm sao có thể chối cãi được với vô thường thay đổi; khi còn trẻ làm đủ thứ việc không thấy mệt, khi lớn tuổi, làm việc chút ít đã thở mệt, rồi tự trách sao yếu qúa như thế? Đâu biết mỗi ngày ta xích dần lại chỗ chết một tí, thế mà nghe nói đến chữ “chết” thì hoảng sợ, vì không hiểu thể xác luôn luôn biến đổi.

Ngay cả: tâm niệm, nhớ nghĩ cũng biến đổi sinh diệt liên tục không dừng trong mỗi giây phút; ý nghĩ này sinh ra rồi mất đi, tưởng nhớ khác hiện lên tiếp nối, sinh ra, mất đi như dòng nước chảy không cùng tận.

Mọi người cứ tưởng tâm niệm trước sau như một, nên thấy ai thay lòng đổi dạ, họ oán trách, giận hờn, phản kháng đủ điều; có biết đâu rằng hoàn cảnh, điều kiện thay đổi, nên tâm tính người chuyển đổi theo; không nên tin tưởng rằng dù ở hoàn cảnh nào, tâm tính người vẫn như xưa, đó là tin tưởng sai lầm, nên mới có khổ.

4). Làm sao vô thường đến ít khổ?

Nếu sáng suốt nhận định thân là thay đổi, vô thường, tâm tínhchuyển biến không ngừng, có mất mát, bệnh hoạn, già chết, cũng không có gì phải sợ phải buồn; lòng người có thay đổi, ta cũng không thấy có gì là lạ cả, như thế sẽ sống yên ổn.

Những ai đã từng xa lâu năm nơi chôn nhau cắt rốn, khi trở lại thăm quê cũ người xưa, đều sẽ thấy sự thay đổi không còn nhận ra đâu vào đâu cả; nếu không có người dẫn đường chỉ lối, chắc chắnđi lạc không nhiều thì ít. Vì tất cả đều thay đổi với thời gian, nhà cũ biến mất hoặc siêu vẹo điêu tàn, nhà mới cất lên, đường sá khác hẳn; người xưa đâu mất, người nay mới lớn lên, chẳng nhận ra ai, đó là sự biến đổi, vô thường vật chất.

Nếu cố bám víu vào những hình ảnh xưa kia, chúng ta sẽ buồn, nên hiểu rằng vạn vật đều đổi thay, chúng ta không còn cảm thấy lạc lõng và không còn buồn nữa.

Bản thân muôn vật: đều biến chuyển đổi mới, thấy rõ như vậy là thấy sự thật; nghĩ rằng mọi vật là nguyên vẹn không thay đổi là không đúng, là cố chấp; bởi vậy phải học hỏi, quán sát để thấy các sự vật đúng như thật của nó.

Mọi vật từ người vật đến cỏ cây đều có tăng trưởng, tốt đẹp rồi cằn cỗi. Mọi vật đều thay đổi, không có cái gì cố định bền vững mãi mãi, vì bản chất nó là vô thường, không có chủ thể của nó, tức là vô ngã, như thân người do lục đại là đất, nước, gió, lửa, không, thức hợp lại mà thành. Một trong những thứ đó biến hoại là thân ta biến hoại theo, không thể giữ lại được.

Thân ta mũi thở tim bóp, máu lưu thông, các tế bào, các bộ phận đều làm phận sự của nó, nếu chúng dừng lại là ta chết.

Ngay cả hệ thống mặt trời cũng đang làm nhiệm vụ của nó là quay theo giải ngân hà, các hành tinh quay quanh mặt trời, các mặt trăng quay quanh các hành tinh. Dù trái đất này vững chắc như thế, cũng không phải là nó trường tồn bất biến, tới một ngày nào đó, nó cũng phải theo luật vô thường là thành, trụ, hoại, diệt.

Nếu sáng suốt nhận định mọi sự ở đời đều là vô thường, ta sẽ ít buồn khổ.

5). Tóm kết đời vô thường:

Do biết vạn vật vô thường, nên chúng ta chấp nhận những đổi thay của cuộc đời, như vậy là người hiểu biết sự vật một cách chân thật. Đây là người có chính kiến, thấy rõ mọi sự việc do nhân duyên sinh nên có, hết nhân hết duyên nên phải diệt, nên là không. Chẳng có cái gì có thực thể bản chất riêng biệt của nó mà tồn tại được, thấy rõ như vậy, mọi sự đổi thay, chuyển biến, ta sẵn sàng chấp nhận, và như vậy không có sự bất mãn trước sự thay đổi, không bất mãn, không bực tức thì không đau khổ.

Sở dĩ chúng ta buồn khổ là vì sợ mất cái này, sợ mất cái kia, sợ thân này ốm đau, sợ thân này già xấu, sợ chết; biết mọi vật là đổi thay vô thường rồi, có mất, có bệnh, có già, có xấu, có chết, cũng là lẽ thường ở đời, có gì mà phải sợ, phải lo, phải buồn khổ? Mọi người đều chung cùng số phận của nghiệp báo, làm lành hưởng lành, làm ác chịu qủa dữ, có phải chỉ riêng ta đâu mà buồn khổ?

Cái hơn là ta biết được sự thực ở đời là vô thường như thế, biết có nhân có qủa, ta cố gắng làm những việc phúc đức để gieo trồng qủa lành; còn người không biết thì khác, họ sợ hãi khi thấy chung quanh họ biến đổi, nhất là thân thể họ biến đổi lại càng lo sợ bấn loạn tâm thần, nên càng sầu não buồn khổ hơn.

Toàn Không

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8240)
Đạo Phật trên ý nghĩa thiết yếu là “biện chứng giải thoát” hay là con đường gỉai thoát. Gỉai thoát khỏi khổ đau, sinh tử luân hồi.
(Xem: 7493)
Lâu nay mình đã sống trọn vẹn hết thời giờ chưa? Mình có để lãng phí thời giờ hay không? Và bằng cách nào để chúng ta sống một cách có ý nghĩa?
(Xem: 8531)
Hai chữ “Sinh Tử” đã khiến cho biết bao nhiêu người bất kể trí ngu giàu nghèo từ xưa đến nay đều phải lưu ý tới và khổ tâm vì nó.
(Xem: 7068)
Những gì có mang một tính chất riêng (svalakṣaṇa) đều được gọi là pháp (dharma): “svalakṣaṇadhāraṇād dharmaḥ”[1], tức do duy trì yếu tính của tự thân nên nó được gọi là Pháp.
(Xem: 8321)
Đối với Phật giáo mỗi người làm chủ lấy vận mạng của chính mình. Mỗi chúng ta đều mang trong mình một tiềm năng ngang nhau...
(Xem: 7625)
Đạt được cơ sở con người, cơ sở đó giống như một cái bình thật quý và hiếm hoi, giúp ta có thể giải thoát tất cả kẻ khác và cho cả chính ta
(Xem: 6932)
Như Lai hay Như Khứ là dịch nghĩa của từ Sanskrit: Tathāgata, được ghép từ hai yếu tố là tathā và Agata hoặc tathā và gata.
(Xem: 8151)
TA THƯỜNG NGHE NÓI rằng thật khó tìm được một thân người. Không phải là bất kỳ thân người nào mà là một thân người “quý báu” có nối kết với Giáo pháp – đó chính là điều khó đạt được.
(Xem: 9154)
Đọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, người ta thường thấy câu thành ngữ “Buông đao đồ tể, lập tức thành Phật”.
(Xem: 7848)
Thuật từ Uẩn 蘊, ngữ nguyên Sanskrit là skandha, Pāli là khandha, Hán phiên âm, Tắc-kiện-đà 塞健陀, dịch là tích tụ, loại biệt, tức là năm loại khác nhau về các pháp hữu vi.
(Xem: 8349)
“Bạn có nghĩ rằng hôm nay chỉ là một ngày nữa của đời mình chăng? Thật ra hôm nay không phải chỉ là ‘một ngày nữa’ thôi, mà nó là một ngày được riêng dâng tặng cho bạn.
(Xem: 7990)
Phật dạy chúng ta hãy đem chánh niệm vào tất cả những việc mình làm trong đời sống hằng ngày. Ngài không bỏ ra ngoài bất cứ một việc làm nhỏ nhặt nào hết...
(Xem: 9522)
Những lời khuyên thiết thực, thâm sâutrong sáng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, chỉ cho ta cách tu tập giúp biến cải tâm linh ta, biến ta thành một con người cao cả hơn...
(Xem: 6707)
Trong cuộc sống, chúng ta thường dùng lời nói để trao đổi thông tin, để diễn đạt ý tưởng hoặc để bày tỏ, biểu lộ tâm tư tình cảm của mình…
(Xem: 6746)
Đức Phậtlòng từ bi mà thương xót chúng sinh, nên đã chỉ ra nỗi khổ, niềm đau, chỉ dạy phương pháp dứt khổ, để chúng ta cùng được sống trong bình yên, hạnh phúc.
(Xem: 6961)
Hộ trì các căn (Indriyesu guttadvàro) hay phòng hộ các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) là một trong các biện pháp tu tập căn bản của đạo Phật.
(Xem: 6608)
Tăng quan luận (僧官論) là một trong những bộ luận do ngài Thích Ngạn Tông (557-610)1 trước tác, nhằm thuyết minh và lý giải các chức vụ do chư Tăng đảm nhiệm (廣明僧職)
(Xem: 7144)
Chưa có tài liệu nào về niên đại của đức Phật lịch sử, vị sáng lập đạo Phật, được truyền thừa nhất quán trong các tông phái chính của Phật giáo cũng như được các học giả cùng công nhận.
(Xem: 6769)
Kinh Hoa Nghiêm, như các kinh điển Đại thừa, lấy tánh Không làm nền tảng. Tánh Không trong kinh này là Pháp thân của Phật bổn nguyên Tỳ-lô-giá-na, và toàn thể vũ trụhiện thân của Ngài.
(Xem: 16115)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
(Xem: 7472)
Con đường Bồ tátcon đường lý tưởng nổi tiếng của Phật giáo Đại thừa – không phải là pháp tu để thành thánh, thành tiên, mà là một lối sống ai cũng có thể ước mong thành tựu được.
(Xem: 6406)
Sau kiến đạo, các pháp hữu lậu không thuộc kiến sở đoạn (darśana-prahātavya). Tức các pháp hữu lậu còn lại, trừ kiến chấp ô nhiễm khởi lên do tà phân biệt.
(Xem: 6889)
Đa số người xưng là Phật tử mà không biết rõ đường lối tu hành, ai bày sao làm vậy, trở thành mê tín sai lầm, khiến người đời phê bình đạo Phật là huyền hoặc, là vô ích.
(Xem: 7201)
Tánh "không" (S. 'Suunyataa, P. Su~n~nataa) là một trong các học thuyết quan trọng bậc nhất của Phật giáo và cũng là học thuyết bị người khác đạo hiểu sai lầm nhiều nhất.
(Xem: 6309)
Tánh Khôngbản tánh của tất cả mọi sự vật, mọi hiện tượng, mọi hành động của thân khẩu ý, nên ở đâu trong không gian nào thời gian nào chúng ta cũng có thể nhận ra nó...
(Xem: 6658)
Nói đến Bát-nhã (Trí huệ), các luận thường phân làm ba: Bát-nhã văn tự, Bát-nhã quán chiếu, và Bát-nhã thật tướng.
(Xem: 5523)
Người Phật tử chân chính chớ nên dòm ngó lỗi người, chúng ta chỉ nên nhìn lại hành động của mình, xem đã làm được điều gì tốt đẹp hay chưa.
(Xem: 8819)
"Vậy nên này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình (atta-dipà viharatha), hãy tự mình y tựa chính mình (attàsaranà) chớ y tựa một cái gì khác.
(Xem: 7341)
Tổ Quy Sơn dạy: "Nếu mình chưa là bậc thượng lưu, vượt thẳng lên thềm vô thượng giác thì hãy để tâm vào giáo pháp, ôn tầm kinh điển, rút ra nghĩa lý tinh hoa, truyền bá tuyên dương tiếp dẫn hậu lai, trả ơn đức Phật".
(Xem: 22060)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 7742)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 6792)
Bài Pháp này nhắc nhở các bạn về một số điều Phật dạy, như một cách để sách tấn, khuyến khích các bạn chăm chỉ thực hành đúng theo lời Phật dạy.
(Xem: 14931)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 8517)
Sự hình thành và phát triển tâm lý học Phật giáo là một quá trình vừa diễn dịch vừa xây dựng kéo dài suốt hàng thế kỷ trong lịch sử truyền thừa Phật giáo kể từ thời Đức Phật.
(Xem: 13012)
Giáo lý Duyên khởi (Cái này sinh, nên cái kia sinh, cái này diệt nên cái kia diệt) là nguyên tắc chung giải thích về sự hình thành hay hủy diệt của các pháp.
(Xem: 18782)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 5952)
Phật Thích Ca sau 49 năm thuyết pháp cũng bảo những lời ta nói là thuyết lại lời cổ Phật. Khổng Tử thì nhắn nhủ hậu thế: ông chỉ truyền lời Thánh hiền không thêm bớt không sáng tạo...
(Xem: 6180)
Ở đời cái gì cũng vậy, không phải ngẫu nhiên có được, mà đòi hỏi mỗi con người chúng ta phải tự nỗ lực, tự tầm cầu, tự suy tư để tìm đến con đường giải thoát cho tự thân và tha nhân.
(Xem: 6874)
Chân lý tương đối là những sự thật còn nằm trong đối đãi đối trị nhau. Những sự đối đãi ấy là...
(Xem: 7239)
Sanh tử sự đại là một đề mục lớn của Thiền Tông, và sanh tử luân hồi là một chủ đề phổ thông của Phật Giáo. Nói đến sanh tử luân hồi thì người Phật tử nào cũng nghĩ đến việc thoát ly sanh tử luân hồi.
(Xem: 8293)
Nghiệp báo đóng một vai trò rất quan trọng trong giáo lý nhà Phật.
(Xem: 5602)
Người ta thường tìm đủ mọi cách để gán một nhãn hiệu nào đó lên các lời giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 5810)
Đã lâu, đa số thanh niên quan niệm giải thoát của đạo Phật là siêu hình huyền hoặc đâu đâu, để dành riêng cho những người chán thực tại cầu vào chốn hư vô tịch diệt.
(Xem: 5457)
Sự hiện hữu của mỗi chúng ta hiện giờ và ở đây là do, từ, bởi, nhiều nguyên nhânđiều kiện.
(Xem: 6441)
Đồng Mông Chỉ Quán là một trước tác rất hàm xúc và có hệ thống, nếu hành giả cố gắng thực hành theo "Pháp yếu tọa Thiền tu tập Chỉ Quán" này chắc chắn sẽ đạt được kết quả lớn lao.
(Xem: 5856)
Đạo Phật chủ trương giác ngộ mang ánh sáng trí tuệ soi rọi cho thế gian. Mọi lẽ thật đều hiện bày dưới ánh sáng giác ngộ,
(Xem: 7454)
Mọi chúng sinh dù là người hay là thú , dù giầu hay nghèo, già hay trẻ, không ai là có thể tồn tại lâu dài mãi mãi trong một tình trạng , mọi thứ đều sẽ phải thay đổi và xa rời đi.
(Xem: 5755)
Bốn dấu ấn tiếng Phạn gọi là caturlaksana, tiếng Pa-li là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 6649)
Đại thừa (Mahāyāna) phát triển một nhận thức mới về bản chất lịch sử của Đức Phật Śākyamuni.
(Xem: 6737)
Khi chúng ta tự gọi mình là những Phật tử, có nghĩa là chúng ta là những người đi theo Phật.
(Xem: 5677)
Phật Giáo là một tôn giáo xây dựng trên trí thông minh, khoa học và sự hiểu biết. Mục đích của tôn giáo ấy là để giúp loại trừ khổ đau và các nguyên nhân mang lại khổ đau.
(Xem: 6183)
Chúng ta học Phật, Phật dạy chúng ta hồi đầu, quy y tự tính giác. Tự tính giác tức là Phật tính. Phát Bồ đề tâm, tu Bồ Tát hạnh...
(Xem: 5464)
Phật pháp là những điều đức Phật chứng kiến được sau khi giác ngộ, đem chỗ chứng kiến ấy nói lại để cho mọi người hiểu biết để dứt sạch mê lầmgiác ngộ
(Xem: 7035)
Ý niệm về nghiệp hữu lý trên nhiều phương diện, nhưng một số người đã hiểu lầm về nghiệp.
(Xem: 6040)
Khả năng thích ứng tuyệt vời của Phật giáo đã giúp Phật giáo hội nhập với các nền văn hoá khác.
(Xem: 7871)
Bụt là thầy chỉ đạo Bậc tỉnh thức vẹn toàn Tướng tốt đoan trang Trí và bi viên mãn.
(Xem: 6024)
Người có tuệ giác biết nhìn thẳng vào sự thậtchấp nhận sự thật ấy dù đau thương rồi nỗ lực chuyển hóa, thăng hoa.
(Xem: 7063)
Đạo Phậtđạo từ bi và hành động thiết thực của nó mang đến sự an vui, bình yên cho tất cả chúng sinh.
(Xem: 6885)
Ai có thể hàng phục được mười tám giới: sáu căn, sáu trần, và sáu thức, khiến chúng đừng tạo phản thì người đó chính là Bồ Tát.
(Xem: 6954)
Trong Phật giáo, các từ ngữ "cầu nguyện," "cầu xin" hay "ước nguyện" được hiểu đồng nghĩa với thuật ngữ "pràrthanà" (Sanskrit) hay "patthanà" (Pali).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant