Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển 2

01 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6335)
Quyển 2

KIM CƯƠNG BÁT NHÃ LUẬN
Tập 25, Thích Kinh Luận Bộ ,số 1510a, 2 quyển, Kim Cương Bát Nhã Luận ,
Vô Trước Bồ Tát tạo Tùy Đạt Ma Cấp Đa dịch
Nguyên Huệ Việt dịch


LUẬN KIM CƯƠNG BÁT NHÃ
QUYỂN 2

Đã nói về Trụ xứ Dục xong (Trụ xứ thứ 3 trong 8 Trụ xứ được tóm lược). Nay nói về Trụ xứ lìa chướng ngại (Trụ xứ thứ 4). Nên biết có 12 thứ chướng ngại cần được đối trị. Những gì là 12 thứ chướng ngại? Đó là:

1. Kiêu mạn.

2. Không kiêu mạn nhưng thiếu hiểu biết.

3. Đa văn nhưng ít duyên hợp tạo niệm tu đạo.

4. Không ít duyên hợp tạo niệm tu đạo, nhưng không bỏ chúng sinh.

5. Không bỏ chúng sinh, nhưng vui thích theo nẻo tán động của ngoại luận.

6. Tuy không tán động nhưng phá bỏ tướng ảnh tượng, hợp với không có phương tiện thiện xảo.

7. Tuy có phương tiện thiện xảo, nhưng tư lương không đủ.

8. Tuy tư lương phước có đủ, nhưng vui thích nơi vị biếng trễ, lợi dưỡng.

9. Tuy lìa biếng trễ, lợi dưỡng, nhưng không thể nhẫn chịu khổ.

10. Tuy có thể nhẫn chịu khổ, nhưng tư lương trí không đủ.

11. Tuy tư lương trí có đủ, nhưng không tự thâu giữ.

12. Tuy đã tự thâu giữ, nhưng không chỉ dạy trao truyền.

Trong phần thứ nhất là lìa kiêu mạn. Kinh nói: Vị Tu-đà-hoàn khởi niệm nầy: Ta đã được quả Tu-đà-hoàn v.v…: Đây là dựa nơi nghĩa để hiển thị việc đối trị mạn ngã chứng đắc.

Lại nữa, Tu-đà-hoàn từng khởi niệm nầy: Tức là nói về tướng để hiển thị không mạn. Cũng tức là dục nguyện được thâu giữ.

Kinh viết: Thế Tôn! Không có chỗ nhập, không nhập nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp: Đây là an lập đệ nhất nghĩa.

Nếu Tu-đà-hoàn có niệm như vầy: Ta đã chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, tức là có ngã tưởng, nên biết nếu có ngã tưởng tức là có mạn. Như thế cho đến A-la-hán cũng vậy.

Thượng tọa Tu-bồ-đề tự hiển bày hành vô tránh bậc nhất và là A-la-hán cùng có công đức: Do chỗ chứng đắc của mình khiến được tin tưởng. Do không có pháp để chứng đắc A-la-hán, cùng không chỗ hành, nên nói là hành vô tránh (không tranh). Hành vô tránh, ở đây tức là an lập đệ nhất nghĩa. Vì lìa việc thiếu hiểu biết, nên kinh nêu: Như Lai, ở nơi trụ xứ của Phật Nhiên Đăng Ứng Cúng Chánh Biến Tri, có pháp nào để có thể thủ đắc chăng?: Nghĩa là lúc Đức Phật kia xuất hiện ở đời, đã thừa sự, cúng dường, có pháp có thể giữ lấy để lìa bỏ sự phân biệt ấy. Là dựa nơi nghĩa v.v… cùng đối trị v.v…, theo nghĩa tương ưng, nên biết.

Vì nhằm lìa ít duyên hợp, tạo niệm tu đạo, nên kinh viết: Tu-bồ-đề! Nếu có Bồ-tát nói như vầy: Ta sẽ thành tựu việc làm nghiêm tịnh cõi Phật v.v…

Nếu suy niệm làm nghiêm tịnh cõi nước: Tức đối với các sự như sắc v.v… đã phân biệt, sinh chấp trước nơi vị. Vì lìa bỏ điều ấy, nên kinh viết: Do đó, nầy Tu-bồ-đề! Bồ-tát nên sinh tâm không trụ, không chỗ trụ như vầy: Không trụ nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp v.v… Vì nhằm lìa việc xả bỏ chúng sinh, nên kinh nói: Tu-bồ-đề! Ví như có người thân như núi chúa Tu-di v.v…: Đây là hiển thị điều gì? Vì để thành tựu chúng sinh nơi cõi Dục. A-tu-la vương La-hầu-la kia, tất cả đại thân lượng như núi Tu-di, hãy còn không thấy được tự thể, huống chi là các chúng sinh khác.

Kinh nêu: Như Lai nói là phi thể: Là hiển thị pháp vô ngã.

Thể ấy là phi thể: Là hiển thị thể của pháp là không sinh, không tạo tác. Đây tức là hiển bày về tự tánh và tướng cùng sai biệt.

Vì nhằm lìa bỏ sự vui thích nẻo tán loạn của ngoại luận, nên kinh nói về 4 thứ nhân duyên, hiển thị pháp ấy là hơn hẳn:

1. Thâu giữ phước đức.

2. Chư Thiên cùng cúng dường.

3. Khó làm.

4. Khởi niệm về Như Lai v.v…

+ Kinh nêu: Do nhân duyên nầy nên đạt được phước nhiều hơn trường hợp kia: Là thâu giữ phước đức.

+ Kinh nói: Vì kẻ khác, hoặc thuyết giảng, hoặc trao truyền, hoặc giải thích, địa phần ấy là tướng Chi-đề: Là chư Thiên cùng cúng dường.

+ Kinh nói: Nên được đầy đủ hy hữu tối thượng: Là khó làm.

+ Kinh nêu: Địa phần nầy tức là trụ xứ của thầy chỉ dạy cùng các bậc đáng tôn trọng khác: Là khởi niệm về Như Lai v.v…

Ở đây, thuyết giảng là vì kẻ khác nên nêu bày trực tiếp.

Trao truyền: Là chỉ dạy, trao truyền cho kẻ khác.

Hiển thị pháp đối trị việc ưa thích nẻo tán động của ngoại luận, là thù thắng rồi, ở trong pháp như thế, hoặc dấy khởi như nói giữ lấy nghĩa để đối trị nơi tội vị lai kia, nên kinh nêu: Như Lai đã nói Bát-nhã Ba-la-mật tức phi Bát-nhã Ba-la-mật. Như Bát-nhã Ba-la-mật phi Ba-la-mật, như vậy cũng không có pháp khác.

Như Lai nói: Là để hiển bày nghĩa ấy, nên kinh viết: Từng có pháp để Như Lai có thể thuyết giảng chăng?: Đây là hiển thị về tự tướng cùng tướng bình đẳng nơi đệ nhất nghĩa của pháp môn.

Vì nhằm lìa, ở trong chỗ tự tại của tướng ảnh tượng không có phương tiện thiện xảo, nên kinh nói: Tu-bồ-đề! Như số vi trần hiện có nơi Tam thiên đại thiên thế giới v.v… Cảnh giới ấy không hạn lượng về tác ý duyên dựa, nên Bồ-tát luôn ở nơi thế giới duyên dựa, tác ý để tu tập, nên nói Tam thiên đại thiên thế giới.

Ở đây, vì phá bỏ tướng ảnh tượng về sắc thân, nên hiển bày hai thứ phương tiện:

1. Phương tiện tế tác: Như kinh nói: Số lượng vi trần hiện có nơi Tam thiên đại thiên thế giới là nhiều chăng?

2. Phương tiện chẳng niệm: Như kinh nói: Số lượng vi trần hiện có, Như Lai nói là phi vi trần, đó gọi là vi trần.

Vì nhằm phá bỏ tướng ảnh tượng nơi danh thân của chúng sinh, nên kinh viết: Thế giới hiện có, Như Lai nói là phi thế giới, đó gọi là thế giới.

Ở đây, thế giới: Là hiển bày thế giới của chúng sinh. Chỉ do danh thân nên gọi là chúng sinh. Phương tiện chẳng niệm danh thân, tức là hiển bày việc phá bỏ tướng ảnh tượng của danh thân kia, không còn nói về phương tiện tế tác.

Vì nhằm lìa chướng ngạitư lương phước không đủ, nên kinh nêu: Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Có thể dùng ba mươi hai tướng đại trượng phu để thấy Như Lai chăng?: Là hiển thị về tư lương phước, nên lúc gần gũi cúng dường Như Lai, không nên dùng tướng thành tựu để thấy Như Lai. Làm sao thấy? Tức nên thấy Pháp thân đệ nhất nghĩa.

Vì nhằm lìa sự vui thích nơi vị biếng trễ, lợi dưỡng, nên kinh nói: Tu-bồ-đề! Như lại có người nữ, người nam, xả bỏ Hằng hà sa số tự thân v.v… Đây là hiển bày về điều gì? Như ở đây xả bỏ từng ấy tự thân như thế, thì phước hiện có không bằng phước nầy. Vì sao dùng một thân để làm rõ sự biếng trễ, nên là chướng ngại? Do đâu ở đây, Thượng tọa Tu-bồ-đề rơi lệ mà nói: Con chưa từng nghe pháp môn như thế! Do nghe phước thù thắng ấy là rất nhiều, vượt hơn đối với việc xả bỏ vô lượng thân, lại không nói phước thù thắng khác. Hoặc nghe phước thù thắng như thế, nên phát khởi tinh tấn rồi, nếu ở trong pháp ấy sinh khởi tưởng như nghĩa, vì để lìa lỗi lầm nầy, nên kinh nói: Ở trong sự thuyết giảng kinh ấy, sinh khởi thật tưởng, sẽ thành tựu hy hữu bậc nhất. Tức ở nơi tưởng thật như thế, vì để lìa sự phân biệt tưởng thật, nên kinh viết: Tưởng thật hiện có ấy tức là phi tưởng thật v.v…

Kinh nói: Thế Tôn! Con đối với pháp môn nầy, hoặc phân biệt, hoặc tin hiểu, không cho là hy hữu. Nếu vào đời vị lai, có các chúng sinh, ở nơi pháp môn nầy thọ trì, đọc tụng, thâu giữ, vì người khác giải thích, tức mới là hy hữu bậc nhất v.v… Đây là nghĩa gì? Vì khiến cho các Bồ-tát tham vướng nơi vị lợi dưỡng hơn cả biếng trễ, sinh hổ thẹn. Vì nơi đời vị lai, lúc chánh pháp bị hủy diệt, hãy còn có những Bồ-tát đối với pháp môn nầy dốc sức thọ trì, không có người chấp giữ cùng pháp được chấp giữ. Vì sao các vị, vào lúc chánh pháp hưng thịnh, xa lìa sự tu hànhkhông sinh hổ thẹn?

Kinh nêu: Các vị Bồ-tát ấy không còn tưởng về ngã v.v… cùng chuyển: Là hiển thị về không có người chấp giữ.

Các tưởng về ngã hiện có tức phi ngã tưởng: Là hiển thị không có pháp được chấp giữ.

Kinh viết: Vì sao chư Phật Thế Tôn lìa tất cả tưởng: Là hiển thị các Bồ-tát thuận theo tướng học. Chư Phật, Thế Tôn đã lìa bỏ tất cả tưởng, vì thế chúng ta cũng nên học như vậy. Những đoạn kinh văn ấy là vì nhằm lìa bỏ sự thối chuyển nơi tinh tấn, nên nói. Ở đây, nói hoặc phân biệt, hoặc tin hiểu: Là câu sau giải thích câu trước. Thọ nhận là thọ nhận văn tự. Thâu giữ là thâu giữ về nghĩa. Vì nhằm lìa bỏ sự việc không phát khởi tinh tấn, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu lúc nghe thuyết giảng về chương cú của kinh nầy mà không kinh sợ v.v…: Tức do kinh sợ nên không phát khởi tinh tấn. Ở trong thừa Thanh-văn, Đức Thế Tôn thuyết giảng có pháp có không, nên khi lắng nghe kinh nầy, nghe pháp không có nên kinh, nghe không không có nên sợ. Khi suy xét, ở trong hai lý không có chẳng thể tương ưng nên sợ hãi. Lại có chỗ giải thích khác là ba thứ không tự tánh, nên biết. Tức là tướng, sinh, đệ nhất nghĩa là không tự tánh.

Kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Vì sao Như Lai nói Ba-la-mật bậc nhất v.v… Đây có nghĩa thế nào? Lại nói thứ hai là sinh xứ hổ thẹn, nên nói pháp nầy là thắng thượng như thế, các vị không nên phóng dật. Ở đây, do đối với các Ba-la-mật khác là hơn hẳn, nên gọi là Ba-la-mật bậc nhất.

Kinh viết: Như Lai nói Ba-la-mật bậc nhất, vô lượng chư Phật cũng nói Ba-la-mật: Câu nầy hiển thị hết thảy chư Phật cùng nói bậc nhất, do đó gọi là bậc nhất.

Vì nhằm lìa bỏ chướng ngại không thể nhẫn chịu khổ, nên kinh nêu: Lại nữa, nầy Tu-bồ-đề! Như Lai nói Nhẫn nhục Ba-la-mật v.v… Ở đây, như chỗ có thể nhẫn, do tướng gì sinh khởi xứ nhẫn? Như nhẫn có sai biệt, là hiển thị sự đối trị nhân duyên kia. Do đâu có thể nhẫn? Là do thấu đạt pháp vô ngã. Thế nào là đối trị được? Như kinh nói: Như Lai nói Nhẫn nhục Ba-la-mật. Vì sao nên biết về tướng nhẫn? Như khi kẻ khác đối với mình dấy khởi điều ác, do không có tưởng ngã v.v… nên không sinh tưởng giận dữ, cũng không ở trong Nhẫn nhục Ba-la-mật sinh tưởng có, ở trong phi Ba-la-mật khởi tưởng không. Đây là hiển bày về điều gì? Như kinh nêu: Như Ta về thời xa xưa, bị vua Ca-lợi chặt đứt các chi phần nơi thân, bấy giờ, Ta ở nơi tưởng không có ngã cùng vô tưởng, cũng phi vô tưởng.

Những gì là chủng loại nhẫn? Nghĩa là nhẫn cực khổ nối tiếp nhẫn khổ. Đây là hiển thị điều gì? Như kinh viết: Như Ta về thời xa xưa, bị vua Ca-lợi chặt đứt tay chân, cùng nói: Ta nhớ lại trong năm trăm đời về quá khứ, làm Tiên nhân Nhẫn nhục v.v…

Nhân duyên không nhẫn: Là có 3 thứ khổ:

1. Khổ vì lưu chuyển.

2. Khổ vì chúng sinh cùng trái nhau.

3. Khổ vì thọ mạng thiếu thốn.

Trong ấy, như kinh nói: Thế nên, nầy Tu-bồ-đề! Bồ-tát Ma-ha-tát nên lìa tất cả tưởng, phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề Vô thượng v.v… Đây là hiển thị việc đối trị nhân duyên của nhẫn khổ vì lưu chuyển, nhằm phát tâm Bồ-đề: Là do ba thứ tưởng khổ, nên không muốn phát tâm, nên nói phải lìa bỏ tất cả tưởng.

Ở đây, tất cả tưởng: Là nêu rõ về ba tưởng khổ như thế. Nếu chấp trước nơi sắc v.v…, tức ở trong khổ vì lưu chuyển hợp với sự mệt nhọc, thiếu thốn, nên tâm Bồ-đề không sinh. Do đấy kinh nói: Không nên trụ nơi sắc sinh tâm v.v…, như trước đã nói.

Không trụ nơi phi pháp: Nghĩa là không phải pháp vô ngã.

Ở trong phi pháp cùng pháp vô ngã, đều không nên trụ, vì để thành tựu các pháp không đi đến ấy, nên nói nhằm ngăn chận những sự việc khác, như kinh nêu: Nên sinh tâm không chỗ trụ. Vì sao? Vì nếu tâm có trụ tức là phi trụ.

Kinh viết: Như thế, Bồ-tát vì tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh, nên bố thí như vậy, cho đến nói: Các tướng hiện có tức là phi tưởng. Đây là hiển thị việc đối trị nhẫn khổ vì chúng sinh cùng trái nhau. Đã vì hết thảy chúng sinhhành xả thí, thì vì sao đối với họ lại sinh giận dữ? Do không thể không khởi tưởng chúng sinh, vì nhân duyên ấy, nên khi chúng sinh cùng trái nhau, tức sinh mệt nhọc, thiếu thốn, là hiển thị người vô ngã, pháp vô ngã.

Kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Như Lai luôn nói lời chân thật chăng? Đây là nhằm hiển thị điều gì? Là muốn khiến tin nơi Như Lai nên có thể nhẫn.

Trong ấy, nói lời chân chánh (Chân ngữ): Là hiển bày tướng của thế đế.

Nói lời chắc thật (Thật ngữ): Là hiển bày sự tu hành của thế đế, có tướng phiền não cùng thanh tịnh.

Ở đây, thật: Là hành phiền não ấy, hành thanh tịnh ấy.

Như ngữ (Nói lời như như): Là tướng của đệ nhất nghĩa đế.

Bất dị ngữ (Lời nói không khác): Là sự tu hành của đệ nhất nghĩa đế.

Có tướng phiền não cùng tướng thanh tịnh, nên nói lời chân chánh v.v… rồi, nếu ở trong pháp ấy, như tánh của ngôn thuyết, khởi chấp trước, tức là loại bỏ những thứ kia.

Kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Như Lai đạt chánh giác về pháp cùng thuyết giảng v.v… Ở đây, không thật, không vọng.

Không thật: Là như tánh của ngôn thuyết là không phải có.

Không vọng: Là không như tự tánh của ngôn thuyết là có.

Kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ví như người nam đi vào chỗ tối tăm v.v…, là hiển thị việc đối trị nhân duyên của nhẫn khổ vì thọ dụng thiếu kém. Hoặc vì quả báo nên bố thí, liền chấp trước nơi sự mà hành xả thí, kẻ ấy, ở trong hành thí khác thọ nhận vui, khổ, không hiểu được nẻo xuất ly. Cũng như người đi vào nơi tối tăm, không biết mình hướng tới chốn nào. Kẻ kia vui thích với dục lạc cũng thế. Nếu không chấp trước nơi sự mà hành bố thí, như người nam có mắt, đêm đã qua, mặt trời mọc thấy vô số hình sắc, theo ý hướng tới, nên thấy như thế. Đêm tối vô minh kia đã qua, mặt trời tuệ hiện rồi, vô số cảnh giới được nhìn thấy đúng như thật. Kẻ kia, không hiểu biết nẻo xuất ly nơi dục lạc thọ, khổ thọ, nên vui thích với dục lạc.

Vì nhằm lìa bỏ chướng ngại là thiếu tư lương trí, nên kinh viết: Tu-bồ-đề! Nếu lại có thiện nam, thiện nữ, đối với pháp môn nầy, hoặc thọ nhận v.v… Ở đây, vì nhằm lìa sự duyên dựa của Tam-muội, nên hiển thị cùng với pháp tương ưng. Có 5 thứ công đức thù thắng:

1. Như Lai nhớ nghĩ, thân cận.

2. Thâu giữ phước đức.

3. Tán thán pháp cùng sự tu hành.

4. Chư Thiên cùng cúng dường.

5. Diệt trừ tội.

+ Thế nào là Như Lai nhớ nghĩ, thân cận? Như kinh nói: Người thọ trì, đọc tụng, Như Lai dùng trí Phật nhận biết. Như Lai dùng mắt Phật thấy rõ người ấy.

Trong ấy, thọ nhận là tập tụng. Trì là không quên.

Hoặc đọc tụng, hoặc thâu giữ: Đây là nói nhân của thọ trì. Vì muốn thọ nên đọc tụng. Vì nhằm trì nên thâu giữ.

Lại nữa, đọc là tập tụng, thâu giữ là xem nhận chung về nghĩa.

+ Thế nào là thâu giữ phước đức? Như kinh viết: Các chúng sinh ấy, sinh khởi vô lượng tụ phước đức như thế v.v…

+ Thế nào là tán thán pháp cùng sự tu hành? Như kinh nêu: Lại nữa, nầy Tu-bồ-đề! Pháp môn nầy là không thể nghĩ xét, không thể nêu bàn v.v… Đây là tán thán pháp. Trong đó, không thể nghĩ xét: Là chỉ tự nhận biết. Không thể nêu bàn: Là không có gì bằng và hơn.

Kinh viết: Lại, pháp môn nầy, Như Laiphát khởi thừa tối thượng nên thuyết giảng. Vì phát khởi thừa tối thắng nên thuyết giảng: Đây là thành tựu nghĩa không thể nêu bàn. Trong ấy, nên biết, các thừa khác không bằng, nên là tối thượng. Các thứ phiền não chướng, trí chướng đều thanh tịnh, nên là tối thắng.

Kinh nêu: Nếu đối với pháp môn nầy thọ trì, cho đến: Như Lai thảy đều thấy, biết v.v…: Đây là tán thán sự tu hành. Ở đấy, các chúng sinh nầy thành tựu vô lượng: Là nói chung. Không thể nghĩ xét, không thể nêu bàn, không thể lường tính, là giải thích. Như vậy v.v… tức là gánh vác Bồ-đề của mình: Nghĩa là vai gánh lấy gánh nặng Bồ-đề, nên kinh nói: Tu-bồ-đề! Cho đến tin hiểu: Người không thể lãnh hội pháp nầy: Tức là hàng Nhị thừa, nên kinh nêu: Nếu có ngã kiến v.v… Nghĩa là có kẻ có ngã kiến nơi chúng sinh, mà tự cho là Bồ-tát.

+ Thế nào là chư Thiên cùng cúng dường: Như kinh nói: Lại nữa, nầy Tu-bồ-đề! Theo nơi địa phận, xứ sở giải nói kinh nầy, thường nên cúng dường: Địa phận kia tức là Chi-đề (Linh tháp) v.v… Ở đây, dùng vòng hoa, hương đốt, hương xông, hương xoa, hương bột, vải lụa, lọng, cờ phướn, cúng dường, cung kính lễ bái, đi vòng quanh theo hướng phải, nên gọi là Chi-đề.

+ Thế nào là diệt trừ tội? Như kinh viết: Kẻ kia, nếu là người bị khinh khi, hết sức khinh khi, cho đến sẽ đạt được Bồ-đề: Đây là sự hủy nhục có vô lượng thứ, vì nhằm hiển bày điều ấy, nên lại nói: Hết sức khinh thường.

Kinh nêu: Sẽ được Bồ-đề Phật: Là hiển bày tội được diệt trừ. Trước đã nói do nhân duyên nầy, nên xuất sinh vô lượng A-tăng-kỳ nhiều phước, nên biết là nay sẽ giải thích nghĩa vô lượng A-tăng-kỳ kia.

Uy lực: Là sự thành thục sáng rõ.

Nhiều: Là đầy đủ sự lớn lao, hơn hết.

Ở đây, như kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Như Lai nhớ lại về A-tăng-kỳ kiếp vượt quá A-tăng-kỳ kiếp về trước v.v…: Đây là hiển thị về uy lực, tức uy lực của tụ phước, do bậc ấy hiện có tụ phước cao xa, thù thắng. Trong đây, A-tăng-kỳ kiếp: Là cho đến Đức Phật Nhiên Đăng, nên biết. Quá A-tăng-kỳ: Là lại vượt quá về trước.

Thân cận: Là cúng dường. Chẳng không quá: Là thường không lìa việc cúng dường.

Hoặc lại kinh nêu: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu thiện nam, thiện nữ, có được tụ phước như Ta đã nói. Hoặc có người nghe, tâm tức cuồng loạn v.v…: Đây là hiển thị về số lượng nhiều. Hoặc là nhân của cuồng, hoặc là tâm bị loạn, là quả, nên biết. Uy lực ấy, ở đây cùng với số lượng rất nhiều kia, người nào có thể nêu bày? Thế nên kinh viết: Lại nữa, Tu-bồ-đề! Pháp môn nầy là không thể nghĩ bàn. Quả báo cũng không thể nghĩ bàn: Đây là hiển bày về thể của phước đó, cùng quả là không thể lường tính.

Vì nhằm xa lìa điều tự chấp giữ, nên kinh nêu: Tu-bồ-đề nói: Vì sao Bồ-tát phát tâm nên trụ trong Đại thừa? v.v… Do đâu lại phát khởi câu hỏi nơi thời gian đầu tiên ấy? Bồ-tát sắp nhập chứng đạo, tự thấy mình đạt được thắng xứ, nên khởi niệm: Ta nên trụ như thế, tu hành như thế, hàng phục tâm như thế. Ta hóa độ các chúng sinh, khiến họ đạt đến giải thoát.

Vì nhằm đối trị điều ấy, nên Tôn giả Tu-bồ-đề hỏi: Nên ở vào thời gian nào, để như chỗ nên trụ, như chỗ nên tu hành, như chỗ nên hàng phục tâm? Đức Thế Tôn đáp: Nên sinh tâm như vầy v.v…

Lại, kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát có tưởng chúng sinh v.v… cùng chuyển: Là nêu rõ về ngã chấp giữ hoặc, tùy miên. Nếu nói Ta đang hành thừa Bồ-tát thì đây là ngã chấp giữ. Nhằm đối trị điều ấy, nên kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Không có pháp phát khởi hành thừa Bồ-tát.

Vì nhằm xa lìa chướng ngại không chỉ dạy, trao truyền, nên kinh nêu: Nầy Tu-bồ-đề! Có pháp để cho Như Lai, ở nơi trụ xứ của Đức Phật Nhiên Đăng v.v…

Lại, kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu có pháp để Như Lai chứng đắc chánh giác, thì Đức Như Lai Nhiên Đăng tức không thọ ký cho Ta: Ông sẽ đạt được v.v… Ở đây có ý gì?

Nếu pháp chánh giác có thể nói ra, như Đức Như Lai Nhiên Đăng đã nói, thì vào lúc ấy Ta liền được Chánh giác, Như Lai Nhiên Đăng tức không thọ ký, nói: Ông sẽ chứng đắc v.v… Do pháp kia không thể nêu bày, nên Ta vào lúc bấy giờ không được Chánh giác, thế nên Đức Như Lai Nhiên Đăng đã thọ ký cho Ta. Đây là nghĩa ấy, nên biết.

Lại, do đâu pháp kia không thể nêu bày? Như kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Như Lai tức là chân như, thanh tịnh như, nên gọi là Như Lai. Do như không thể nêu bày, nên nói như thế. Thanh tịnh như gọi là chân như, cũng như chân kim (vàng ròng). Hoặc nói: Nơi trụ xứ của Như Lai Nhiên Đăng, đối với pháp không đạt được Chánh giác. Thời gian sau, Đức Thế Tôn mới tự chứng đắc Chánh giác.

Vì nhằm lìa điều chấp giữ ấy, nên kinh viết: Nếu có người nói như vầy: Như Lai chánh giác nơi đạo quả Bồ-đề Vô thượng v.v… Lại, kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Pháp đã được Như Lai chánh giác, ở trong ấy là không thật, không vọng: Đây là hiển thị về chân như không hai.

Thế nào là không thật? Nghĩa là ngôn thuyết. Không vọng: Là chánh giác kia.

Không phải là không có ngôn thuyết của thế gian, nên kinh nói: Do đó, Như Lai nói tất cả các pháp tức là Phật pháp. Ở đây có nghĩa gì? Tức là hiển bày pháp của tất cả pháp là thanh tịnh như. Như là hiện hữu khắp hết thảy pháp. Đây là nghĩa ấy.

Lại, thể của pháp nơi tất cả pháp là không thành tựu.

an lập đệ nhất nghĩa đế, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Tất cả pháp đều là phi pháp. Đó gọi là tất cả pháp.

Vì nhập chứng đạo, nên kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ví như người có thân tốt đẹp, thân lớn lao v.v…: Là hiển thị lúc nhập chứng đạo, đạt được trí tuệ nên lìa kiêu mạn.

Thế nào là đạt được trí? Có hai thứ trí: Là trí gồm thâu chủng tánh và trí bình đẳng. Nếu đạt được trí rồi, được sinh nơi nhà Như Lai, được quyết định nối tiếp Phật chủng. Đây là trí gồm thâu chủng tánh. Đạt được trí ấy, thì có thể chứng đắc diệu thân (thân tốt đẹp). Nếu ở nơi nhà ấy, nguyện sinh nơi đêm dài sinh tử. Đã được sinh, nên được thân kia. Đó gọi là diệu thân.

Trí bình đẳng lại có 5 thứ nhân duyên bình đẳng:

1. Thô ác bình đẳng.

2. Pháp vô ngã bình đẳng.

3. Đoạn tương ưng bình đẳng.

4. Tâm không trông mong tương ưng bình đẳng.

5. Tất cả Bồ-tát chứng đạo bình đẳng.

Đạt được những thứ ấy, nên được đại thân (thân lớn lao).

Đại thân gồm thâu hết thảy chúng sinh, nên ở trong thân ấy an lập phi tự, phi tha, nên kinh viết: Như Lai đã nói, có người có diệu thân, đại thân tức phi thân, thế nên Như Lai nói là diệu thân, đại thân. Đây là ở trong diệu thân v.v… an lập đệ nhất nghĩa.

Những thứ như thế là đạt được trí tuệ.

Thế nào là lìa kiêu mạn? Như kinh nói: Nếu Bồ-tát nói như vầy: v.v… Đây làm sao có thể nhận biết? Nếu khởi niệm: Ta đã hóa độ chúng sinh, đưa họ đến giải thoát. Ta là Bồ-tát, nên biết đó là kiêu mạn, không phải là Bồ-tát thật nghĩa. Vì để hiển thị điều ấy, nên kinh nêu: Thế nên Như Lai nói tất cả pháp là không chúng sinh. Nếu Bồ-tát có niệm về chúng sinh, tức không được diệu thân, đại thân.

Vì bậc kia, trên là cầu đạt Phật địa, hợp với việc làm thanh tịnh cõi nước theo Tam-muội, nên kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát nói: Ta sẽ thành tựu việc làm trang nghiêm cõi nước, tức chẳng phải là Bồ-tát. Nghĩa nầy là ở trong hành chánh cùng thấy. Vì để đoạn dứt điều ấy, nên an lập đệ nhất nghĩa, kinh viết: Tức chẳng phải là làm trang nghiêm, Như Lai nói là làm trang nghiêm cõi nước.

Lại, kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát tin hiểu pháp vô ngã v.v… Pháp vô ngã: Ở đây nói là 2 thứ vô ngã:

1. Người vô ngã.

2. Pháp vô ngã.

Lại, kinh viết: Như Lai nói là Bồ-tát v.v… Bồ-tát là ở trong hai thứ vô ngã kia, đạt hai thứ chánh giác.

Ở đây là hiển thị những gì? Nếu nói Ta thành tựu tức là ngã chấp giữ về nhân. Làm trang nghiêm cõi nước: Là ngã chấp giữ về pháp, tức đây không phải là Bồ-tát.

Vì để làm rõ kiến, trí thanh tịnh đầy đủ, nên kinh nêu: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Như Lainhục nhãn chăng? v.v… Như Lai không chỉ có tuệ nhãn, vì khiến cho tri, kiến thanh tịnh hơn hẳn, nên hiển thị có 5 thứ mắt (nhãn). Nếu khác với đây, tức chỉ cầu tuệ nhãn nhận thức thanh tịnh. Ở đây, lược nói có 4 thứ mắt:

1. Sắc gồm thâu.

2. Đệ nhất nghĩa đế gồm thâu.

3. Thế đế gồm thâu.

4. Hết thảy loại, tất cả nên nhận biết gồm thâu.

Sắc gồm thâu lại có 2 thứ: 1. Quả của pháp. 2. Quả của tu.

Đây là năm mắt. Là cảnh giới thô, là sắc gồm thâu thứ nhất.

Do trí lực của đệ nhất nghĩa, nên thế trí không điên đảo cùng chuyển. Do đó, đệ nhất nghĩa đế gồm thâu ở trước. Ở đây, vì người thuyết giảng pháp, nếu pháp ấy đã vì người kia nên thiết lập, thì trí này gọi là pháp nhãn. Hết thảy nên nhận biết, hợp với tất cả loại nơi trí không công dụng, gọi là Phật nhãn. Những thứ đó gọi là kiến thanh tịnh. Như kinh nói thí dụ về Hằng hà v.v… Từng ấy thứ tâm trụ hiện có, Ta thảy đều nhận biết v.v…, đây là trí thanh tịnh.

Trong đó, tâm trụ: Nghĩa là tâm của ba đời.

Từng ấy thứ: Nên biết là có hai loại: Là nhiễm và tịnh. Tức là tâm cùng dục và tâm lìa dục.

Đời: Nghĩa là các phần như quá khứ v.v…

Ở trong hai thứ ấy, an lập đệ nhất nghĩa, nên kinh viết: Tâm trụ, tức là chẳng phải trụ, cho đến tâm quá khứ chẳng thể thủ đắc v.v…

Ở đây, tâm quá khứ chẳng thể thủ đắc: Là đã diệt.

Vị lai: Là chưa có. Hiện tại: Là đệ nhất nghĩa. Vì nên nhận biết hợp với chứng đắc, nên an lập kiến để giáo hóa các chúng sinh. Chúng sinh ấy tâm tịch tĩnh, nên an lập trí. Ở trong trí thanh tịnh đó, nói tâm trụ, tức chẳng phải tâm trụ. Như vậy, trong kiến tịnh, vì sao không nói mắt tức phi v.v… Là do một trụ xứ, nên kiến, trí tịnh, sau mới an lập đệ nhất nghĩa, tức đầu tiên cũng được thành tựu. Vì phước tự tại đầy đủ, nên kinh viết: Tam thiên đại thiên thế giới nầy v.v…

Ở đây cũng an lập đệ nhất nghĩa, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu như tụ phước có thật v.v…

Ở trong thân gồm đủ là tướng hảo đầy đủ, nên kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Có thể dùng Sắc thân thành tựu để thấy Như Lai chăng? v.v…

Trong đây, cũng do an lập đệ nhất nghĩa, nên kinh nói: Như Lai nói là phi thành tựu.

Vì tướng thân đầy đủ, nên kinh nêu: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Có thể dùng tướng đầy đủ để thấy Như Lai chăng? v.v… Vì ngôn ngữ đầy đủ, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Tôn giả cho là Như Lai suy niệm: Ta đã thuyết pháp v.v… Ở đây, để an lập đệ nhất nghĩa, nên kinh nêu: Như Lai thuyết pháp, thuyết pháp là v.v…

Ở trong tâm đầy đủ là niệm xứ, nên kinh viết: Thế Tôn! Từng có chúng sinh nơi đời vị lai, nghe nói về pháp nầy v.v… Xứ ấy, ở trong các chúng sinhhiển thị như niệm xứ của Đức Thế Tôn.

Pháp kia không phải là chúng sinh: Là đệ nhất nghĩa.

Phi khôngchúng sinh: Là thế đế.

Người ấy tức là hy hữu bậc nhất: Là hiển bày việc nói về đệ nhất nghĩa, là không chung và tương ưng. Văn ở đây như trước đã nói.

Ở trong tâm đầy đủ đó, là chánh giác, nên kinh viết: Lại có pháp để Như Lai, ở nơi đạo quả Bồ-đề Vô thượng đắc Chánh giác chăng? v.v…

Trong đó, không có pháp: Là lìa lỗi lầm của kiến hữu. Đã hiển thị về Bồ-đề cùng đạo Bồ-đề, ở đây lại hiển bày về Bồ-đề, có 2 nhân duyên:

1. Nói về A-nậu-đa-la (Vô thượng).

2. Nói về Tam-miệu-tam-phật-đà (Chánh đẳng Chánh giác).

Ở đây, kinh nói: Vi trần nhận là pháp là không thể được, không thể có: Đấy là nói về A-nậu-đa-la. Đây là hiển thị về tự tướng của Bồ-đề, là tướng giải thoát của Bồ-đề.

Trong kia, không có vi trần nhận là pháp có thể tánh. Thế nên cũng không thể đạt được, cũng không thực có, nên biết.

Kinh viết: Lại nữa, nầy Tu-bồ-đề! Pháp ấy bình đẳng: Là nói về Tam miệu tam Phật đà, hiển thị Bồ-đề là tướng người bình đẳng.

Ở đây, bình đẳng: Là do pháp Bồ-đề, nên được biết là Phật.

Trong ấy, kinh nói: Không có cao thấp: Là hiển thị tất cả chư Phật, trong đệ nhất nghĩa, thọ mạngbình đẳng, không cao thấp.

Kinh nói: không thọ mạng: Là không chúng sinh đạt được bình đẳng ấy.

Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng: Là hiển bày về Bồ-đề, là đối với pháp sinh tử đều có tướng bình đẳng.

Kinh viết: Hết thảy pháp thiện được chánh giác: Là hiển thị về đạo Bồ-đề.

Kinh nói: Gọi là pháp thiện, pháp thiện ấy, Như Lai nói là phi pháp thiện v.v…: Đây là an lập tướng của đệ nhất nghĩa.

Ở trong tâm gồm đủ kia, vì thiết lập pháp lợi lớn, nên kinh viết: Trong Tam thiên đại thiên thế giới, hiện có núi Tu-di v.v…: Ở đây là an lập sự chỉ dạy, trao truyền của đệ nhất nghĩa.

Kinh viết: Như Lai tưởng khởi niệm: Ta hóa độ chúng sinh chăng? v.v… Như Lai tức có chấp giữ về ngã v.v…: Đây là có nghĩa gì? Như Lai như Nhĩ diệm (trí mẫu) mà nhận biết đúng, nếu có chúng sinh tưởng tức là Như Lai có chấp giữ ngã. Nếu thật không có ngã mà nói có chấp giữ ngã, vì nhằm lìa điều ấy, nên kinh nêu: Nầy Tu-bồ-đề! Chấp giữ về ngã, tức là phi chấp giữ v.v… Thế nên chỉ có trẻ con, phàm phu mới có chấp giữ như thế.

Kinh viết: Phàm phu, phàm phu ấy, Như Lai nói là phi phàm phu, đó gọi là phàm phu.

Ở trong tâm gồm đủ ấy, vì thâu giữ Pháp thân, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả nghĩ sao? Nên dùng tướng thành tựu để thấy Như Lai chăng?

Trong đây, kệ thứ nhất đã hiển bày, như chỗ không nên thấy, không thể thấy. Vì sao là không thể thấy? Vì những người thấy là thế đế, nên người ấy hành tĩnh tà. Định gọi là tĩnh. Do đạt được thiền nên gọi là tịch tĩnh.

Lại nữa, thiền gọi là tư duy tu. Ở đây, tư là thuộc về ý. Tu là thuộc về thức. Nói tịch tĩnh, tức là nói về ý cùng thức, nên biết là thuộc về thế đế.

Kẻ kia không thể thấy Phật: Là người hành thế đế ấy.

Kệ thứ hai hiển bày, như kẻ kia không thể thấy cùng nhân duyên không thể thấy, nghĩa là phần đầu, phần tiếp theo. Ở đây, kệ nói: Do pháp nên thấy Phật. Pháp là nghĩa chân như. Đây là do nhân duyên nào kệ nói: Đạo sư pháp là thân. Do như làm duyên, nên xuất sinh thân thanh tịnh của chư Phật. Đây không thể thấy, chỉ nên thấy pháp, nên kẻ kia không thể thấy.

Lại do nhân duyên nào nên không thể thấy? Do tướng chân như của pháp kia, không phải như ngôn thuyếtnhận biết, chỉ tự chứng biết.

Không như ngôn thuyết: Là không thấy thật, nên không thể nhận biết. Vì nhằm hiển bày nghĩa ấy nên kệ nói: Thể pháp không thể biết, nên kẻ kia không thể biết.

Ở trong trụ xứ nầy, được hiển bày, là do Pháp thân nên thấy Như Lai, không phải do tướng đầy đủ. Như thế thì Như Lai, tuy không nên dùng tướng đầy đủ để thấy, nhưng nên dùng tướng đầy đủ làm nhân để chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng.

Vì nhằm lìa bỏ chấp trước ấy, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Như Lai có thể dùng tướng đầy đủ, để ở nơi đạo quả Bồ-đề Vô thượng, chứng đắc chánh giác chăng? v.v…

Ở trong tâm gồm đủ ấy, vì không trụ nơi sinh tử, Niết-bàn, nên kinh nói: Nầy Tu-bồ-đề! Tôn giả dấy khởi niệm: Phát khởi hành trì thừa Bồ-tát chăng? v.v…

Ở đây, kinh nêu: Đối với pháp không nên nói đoạn dứt: Nghĩa là như pháp đã trụ mà thông tỏ, không đoạn pháp ảnh tượng của tất cả sinh tử. Đối với Niết-bàn, tự tại hành tạo lợi ích cho chúng sinh. Ở đây là nhằm ngăn chận nẻo hoàn toàn tịch tĩnh, nên hiển thị không trụ nơi Niết-bàn. Nếu không trụ nơi Niết-bàn, thì nên thọ nhận sinh tử khổ não. Vì nhằm lìa chấp trước ấy, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu các thiện nam, thiện nữ, cho đến: Vì thế Bồ-tát giữ lấy phước đức v.v…

Trong đây, kinh nêu: Vô sinh pháp nhẫn vô ngã: Là nghĩa gì? Như Lai, đối với pháp hữu vi đều được tự tại, nên không có pháp sinh tử kia. Ta lại không phải do sức của phiền não nghiệp sinh, nên không sinh, nên gọi là vô ngã.

Vô sinh: Ở đây vì sao được hiển thị? Như nói thâu lấy phước khác, hãy còn ở trong sinh tử không thọ nhận khổ não, huống chi là Bồ-tát ở trong pháp vô ngã, vô sinh, được nhẫn rồi, thì chỗ phước đức đã sinh lại không thù thắng, nhiều hơn trường hợp kia.

Kinh viết: Tu-bồ-đề ! Bồ-tát không nên thọ nhận tụ phước: Đây là hiển thị không trụ nơi sinh tử. Nếu trụ nơi sinh tử tức thọ nhận phước tụ.

Kinh nêu: Tu-bồ-đề nói: Không nên thọ nhận tụ phước chăng?

Đây có nghĩa gì? Do Đức Thế Tôn, ở nơi xứ khác nói nên thọ nhận tụ phước.

Kinh viết: Đức Thế Tôn nói: Thọ nhận tụ phước, không chấp giữ tụ phước, đó gọi là thọ nhận phước mà không chấp giữ: Đây là hiển bày do phương tiện nên thọ nhận, nhưng không nên chấp giữ. Như trước đã nói. Ở trong hành trụ tâm gồm đủ, là hành trụ oai nghi, nên kinh nêu: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu có người nói Như Lai hoặc đi hoặc đến v.v… Trong đây, hành là đi, đến. Trụ là các oai nghi khác.

Vì nhằm làm rõ hành trụ tự tại của thân danh sắc, nên kinh nói: Tu-bồ-đề! Nếu có thiện nam, thiện nữ, đem số vi trần hiện có trong Tam thiên đại thiên thế giới v.v… Ở đây, là phương tiện vi tế cùng phương tiện không chỗ thấy. Về việc làm rõ như trước đã nói, nên biết.

Kinh viết: Tụ vi trần kia là hết sức nhiều: Là phương tiện vi tế.

Kinh viết: Thế Tôn! Nếu tụ vi trần là có, Đức Thế Tôn tức không nói là tụ vi trần: Đó là phương tiện không chỗ thấy.

Ở đây nói như vậy là có nghĩa gì? Nếu tụ vi trần trong đệ nhất nghĩa là có, thì Đức Thế Tôn tức không nói là phi tụ. Đức Thế Tôn nói tụ vi trần là phi tụ, Đó gọi là tụ vi trần: Do thể của tụ ấy là không thành tựu. Nếu khác với đây, tuy không nói cũng tự nhận biết tụ ấy là nghĩa gì, nên cần nói.

Kinh viết: Như Lai nói tức phi thế giới: Đây là phương tiện không chỗ thấy. Việc làm rõ về danh thân ấy, cũng như trước đã nói, nên biết. Ở đây, thế giới: Là biện minh về thế giới của chúng sinh. Pháp kia chỉ được mang tên là danh thân.

Kinh viết: Thế Tôn! Nếu thế giới là có: Tức là có nắm giữ lấy. Ở đây là cùng nói, hoặc thế giới, hoặc vi trần giới. Có hai thứ nắm giữ lấy:

1. Nắm giữ lấy một.

2. Nắm giữ lấy sai biệt.

Loại chúng sinh, thế giới chúng sinh có: Đây là nắm giữ lấy một. Vi trần có: Đây là nắm giữ lấy sai biệt. Do giữ lấy vi trần tụ tập, nên kinh nói: Như Lai nói nắm giữ lấy tức là chẳng phải nắm giữ lấy: Đây là Thượng tọa Tu-bồ-đề an lập đệ nhất nghĩa. Đức Thế Tônthành tựu nghĩa như thế, nên nói là nắm giữ lấy: Tức là không thể dùng ngôn thuyết để nêu bày. Đây là nhằm hiển thị về pháp gì? Là ngôn thuyết của thế đế nên có sự nắm giữ lấy kia. Là đệ nhất nghĩa nên pháp ấy không thể nêu bày. Các trẻ con, phàm phu ấy, là như sự chấp giữ ngôn thuyết, không phải là đệ nhất nghĩa.

Đã nói về phương tiện không chỗ thấy, chưa nói về nghĩa làm rõ. Trong không chỗ thấy, lúc nhập Tam-muội tương ưng không phân biệt. Nghĩa là như chỗ không phân biệt, cùng với người nào, pháp nào, phương tiện nào, vì sao không phân biệt? Điều nầy, ở sau sẽ nói đủ.

Kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu có người nói: Như Lai nói ngã kiến v.v… Những điều ấy là hiển thị như chỗ không phân biệt. Vì sao có thể làm rõ như ngoại đạo nói ngã, Như Lai nói là ngã kiến, để lập nên người vô ngã. Lại vì nói có ngã kiến ấy, tức lập nên pháp vô ngã. Như có ngã kiến kia là thuộc về kiến, quán xét như thế, Bồ-tát lúc nhập Tam-muội tương ưng, không còn phân biệt, tức sự quán xét nầy là nhập phương tiện.

Kinh viết: Tu-bồ-đề! Bồ-tát nhân đấy phát khởi: Đây là hiển thị người nào không phân biệt.

Kinh nói: Nơi tất cả pháp: Đây là hiển thị đối với pháp nào không phân biệt.

Kinh viết: Nên biết như thế. Nên thấy như thế. Nên thắng giải như thế: Đây là hiển bày tâm tăng thượng, trí tăng thượng, nên ở trong chỗ không phân biệt, thấy, biết, thắng giải. Ở đây, nếu trí nương dựa nơi chỉ, nên là biết. nương dựa nơi quán, nên là thấy. Hai thứ ấy nương dựa nơi Tam-muội, nên là thắng giải. Do Tam-muội tự tại, nên hiểu rõ bên trong duyên dựa nơi ảnh tượng. Đó gọi là thắng giải.

Kinh viết: Nhận biết, hiểu rõ như thế rồi, nhưng không trụ nơi pháp tưởng: Đây chính là hiển bày về không phân biệt.

Kinh nêu: Pháp tưởng, pháp tưởng ấy tức phi pháp tưởng, đó gọi là pháp tưởng: Đây là hiển bày về nghĩa không chung và nghĩa tương ưng trong pháp tưởng, như trước đã nói.

Như vậy, trong tất cả trụ xứ, nên biết phương tiện của Tam-muội tương ưng cũng thế. Hai thứ dục nguyện cùng thâu giữ tán loạn như trước đã nói, lại không có nghĩa khác, do đấy không nói nữa. Ở trong phương tiện nơi tâm gồm đủ kia, vì nói pháp không nhiễm, nên kinh viết: Nầy Tu-bồ-đề! Nếu có Bồ-tát, đem bảy thứ báu đầy khắp trong vô lượng A-tăng-kỳ thế giới v.v…: Đây là nhằm hiển thị điều gì? Do có lợi ích lớn như vậy, nên quyết định diễn nói thật. Diễn nói như thế, nhưng không nhiễm chấp.

Kinh viết: Thế nào là diễn nói mà không diễn nói, đó gọi là diễn nói?: Đây có nghĩa gì? Tức hiển bày không thể ngôn thuyết nên không diễn nói. Thể của pháp kia có thể nói, nên diễn nói như vậy. Nếu khác với đây, tức là giảng nói có nhiễm, do nghĩa điên đảo.

Lại, lúc thuyết giảng như thế không cầu tin kính v.v…, cũng là thuyết pháp không nhiễm. Ở trong tâm gồm đủ ấy, vì không nhiễm nơi sinh tử, nên nói kệ về sao, màng, đèn, huyễn v.v…, nghĩa nầy như trước đã nói.

Nếu nghe nghĩa như vậy

Nơi Đại thừa không ngộ

Ta nghĩ quá hơn đá

Nên cứu cánh không nhân.

Người kém nơi pháp lớn sâu nầy

Không thể hiểu biết cùng hướng tin

Thế gian có nhiều người như thế

Do đấy pháp nầy thành hoang phế.

Kim Cương Đoạn Cát Bát Nhã Ba La Mật Luận xong. A Tăng Già (Vô Trước) tạo.

HẾT - QUYỂN 2


ĐẠI TẠNG KINH TUỆ QUANG
Đại Chánh Đại Tạng Tập 25
do Cư Sĩ Nguyên Huệ hiệu đính
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10987)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16315)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11775)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 11999)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12691)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12600)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10123)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13814)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10137)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13596)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16162)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11868)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12872)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11556)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12579)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10697)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10890)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10859)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11805)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12657)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 10979)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12516)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11230)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12423)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 13971)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10740)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10404)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11075)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11868)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13045)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12267)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14212)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11998)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15188)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11883)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11097)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12003)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10507)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13046)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12561)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16415)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19478)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13406)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11867)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11520)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12662)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14394)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12521)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12779)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 17882)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12091)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12938)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant