Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

9 Phẩm Pháp Môn Không Hai

08 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6756)
9 Phẩm Pháp Môn Không Hai

ĐƯỜNG TU KHÔNG HAI
KINH DUY MA CẬT GIẢNG LUẬN
Minh Tâm
Nhà Xuất Bản Thanh Văn - USA 1991

 

9. PHẨM VÀO PHÁP MÔN KHÔNG HAI

Bấy giờ ông Duy Ma Cật bảo các vị Bồ Tát rằng: Thế nào là Bồ Tát vào Pháp Môn Không Hai? Xin cứ theo chỗ hiểu biếttùy ý thích mà nói. 

Phẩm này là trọng yếu của Kinh Duy Ma Cật, là trung tâm điểm của giáo lý Đại Thừa chủ trương bỏ tướng trạng để nhập Tánh Thể. Phẩm này tuy dài nhưng tóm lại có thể chia ra làm ba phần: 
1) Phần đầu trình bầy các chủ trương, chỗ thích ý hoặc xu hướng công phu tu tập hoặc sự tu chứng của 31 vị Bồ Tát để vào Pháp Môn Không Hai.
2) Phần thứ hai là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi trình bầy ý kiến của Ngài.
3) Phần thứ ba là chủ trương của ông Duy Ma Cật

Danh từ không hai (Bất Nhị) có nghĩa là không phải là hai, không có đối đãi giữa một và hai. Không Hai có phải là một không? Nói Một cũng không đúng, chỉ tạm dùng thôi, vì nói một là ám chỉ có cái khác, không phải một, là hai, là ba, bốn gì đó. Thí dụ: Một là đối với nhiều, sáng đối với tối, xấu đối với tốt... nói bên này là nghĩ tới bên kia, luôn luôn có hai cái đối đãi với nhau

Chúng ta hãy học vài ý kiến của một số vị Bồ Tát

Bồ Tát Đức Thủ nói: Ngã, ngã sở là hai. Nhân có ngã mới có ngã sở, nếu không có ngã thì không có ngã sở, đó là vào Pháp Môn Không Hai

Ngã là ta, ngã sở là cái của ta. Vì chấp có ngã, cái ta là thật có, nên chấp luôn có ngã sở nghĩa là những cái của ta, thuộc về ta, chúng cũng thật có. Chấp có ngã và ngã sở thì phải bảo vệ chúng, cưng chiều chúng, ai đụng đến là không được, mong cho chúng được tốt đẹp, sống lâu giầu bền, hơn mọi người khác. Nhưng mọi mong cầu đâu có được như ý muốn, sinh già bệnh chết, vô ngã vô thường... ai mà tránh được. Càng chấp ngãngã sở nhiều thì càng đau khổ lắm. Nếu xả bỏ được lòng cố chấp, hiểu ngã và ngã sở là Không, là không có thật, là giả huyễn, được không vui, mất không buồn, hiểu biết luật Trời, nắm vững Chánh Pháp, an nhiên tự tại, hết khổ được vui, hết đối đãi thị phi, mà vượt lên trên tất cả để thể nhập vào Chân Như vô cùng vô tận, đó là vào Pháp Môn Không Hai

Bồ Tát Bất Thuấn nói: Thọ, không thọ là hai. Nếu các pháp không thọ thì không có được, vì không có được nên không thủ xả không gây không làm, đó là vào Pháp Môn Không Hai

Thọ là nhận, là chịu. Không thọ là không nhận, không chịu. Được khen thì vui, bị chê thì buồn, đó là có thọ. Khen không vui, chê không buồn là không thọ. Vui buồn, sướng khổ, nổi sân si là tâm bị động, là có thọ. Nếu đối cảnh mà tâm không động là không thọ. Ăn rau chê nhạt miệng, ăn thịt khen ngon, đó là có thọ. Chấp ăn chay là phải, ăn thịt là trái cũng là có thọ, vì còn thấy phải trái, khen chê. Ăn để sống, không chấp chay mặn, không chấp mặn nhạt ngon dở, thì là không thọ. Nói vậy không có nghĩa là khuyến khích người ăn chay trường nên ăn thịt, vì quý vị đó không thể ăn thịt được nữa, mà chủ yếu là giữ tâm không động, không phân biệt, không chấp trước. Các tu sĩ Bắc Tông ăn chay trường là y theo giới luật Bắc Tông, không nên chấp thọ khó chịu nếu thấy các tu sĩ Nam Tông còn ăn thịt cá do Phật Tử cúng dường, vì Nam Tông chủ trương đi khất thực ai cúng gì ăn nấy, bất tùy phân biệt, không phạm giới cấm. Nếu khởi tâm phân biệt chay mặn cao thấp là còn thọ. Các tu sĩ Nam Tông đắp y, để hở vai bên phải là cung kính. Các tu sĩ Bắc Tông mặc áo phải kín cả hai tay mới là tề chỉnh, hở vai là thô lỗ, không kín đáo đúng phép. Nếu biết tùy phong tục địa phương mà giữ tâm không động, không chê cười, là không thọ. Nếu còn chấp là hở hoặc kín là có thọ. Nơi này cho là phải, là Chân Lý; nơi khác cho là trái, là phi lý. Đừng chấp thọ, đừng chê bai, đừng động tâm, đó là vào Pháp Môn Không Hai

Bồ Tát Đức Đảnh nói: Nhơ sạch là hai. Thấy được tánh chân thật của nhơ thời không có tướng sạch, thuận theo tướng diệt, đó là vào Pháp Môn Không Hai

Nhơ sạch là tùy người, tùy phong tục địa phương, có điều mình cho là nhơ thì người khác cho là sạch. Người Việt Nam ăn cơm bằng bát đũa, cho là sạch; nếu bốc cơm bằng tay thì cho là nhơ. Người Ấn Độ bốc cơm bằng tay cho là sạch, dùng bát đũa cho là nhơ. Người lương thiện cho đồng tiền kiếm được một cách bất chính là nhơ, kẻ trộm cướp cho là sạch. (Có người nói: đồng tiền không có mùi. Xin để quý vị phê bình). Nếu còn thấy có nhơ sạch đối đãi là còn chấp tướng, khi thấy được Thể Tánh chân thật của các pháp thời không chấp hai tướng nhơ sạch nữa, thuận theo tướng diệt, đó là vào Pháp Môn Không Hai

Bồ Tát Phất Sa nói: Thiện, Bất Thiện là hai. Nếu không khởi Thiện và Bất Thiện, vào gốc không tướngthông suốt được, đó là vào Pháp Môn Không Hai

Thiện và Bất Thiện đôi khi cũng khó phân biệt, cùng một việc làm mà người cho là thiện, người cho là bất thiện. Hồi Pháp thuộc, có vị sư giúp những thanh niên ái quốc chống Pháp ẩn náu trong chùa, do lòng từ bi, đó là thiện, nhưng đối với nhà cầm quyền Pháp thì đó là vi phạm luật pháp, là bất thiện. Xử tử kẻ giết người được coi là đúng luật là thiện; đối với người giữ giới sát sinh thì giết một sinh vật đã là phạm tội huống chi giết người. Giữ tâm thanh tịnh không động không chấp, không ích kỷ thì sẽ không bị thiện ác chi phối, không bị hình tướng bề ngoài che đậy, có cái thấy thông suốt vào Thể Tánh, đó là vào Pháp Môn Không Hai

Bồ Tát Sư Tử nói: Tội, phước là hai. Nếu thông đạt được tánh của tội thì tội cùng phước không khác, dùng tuệ kim cang quyết liễu tướng ấy, không buộc không mở, đó là vào Pháp Môn Không Hai

Tội và phước là được coi trong vòng tương đối mà thôi, vì có việc người này cho là tội thì người khác cho là phước. Giết trâu bò gà lợn để cúng tế thần linh hoặc tổ tiên được coi là đúng tục lệ, có hiếu, nhưng giáo lý Đạo Phật lại cho là phạm tội sát sinh, không được phước gì cả. Nếu thông đạt được Tánh của tội thì tội cùng phước không khác. Phát huy được trí huệ sáng suốt như ngọc kim cang thì vượt lên trên tội phước tương đối, không còn trói buộc mà phải mở, đó là vào Pháp Môn Không Hai

Bồ Tát Thiện ý nói: Sinh tử, Niết Bàn là hai. Nếu thấy được tánh sinh tử thời không có sinh tử, không buộc không mở, không sinh không diệt, hiểu như thế đó là vào Pháp Môn Không Hai

Đứng về tướng trạng thì có sinh tử khổ đau. Niết Bàn an lạc. Người nào còn chán sinh tử, ưa Niết Bàn, mà chưa ra khỏi sinh tử chưa tới Niết Bàn thì khổ đau phiền não. Nếu thấy được Tánh của sinh tử là Không, cuộc đờimộng huyễn, sinh cũng không mà tử cũng không, Niết Bàn cũng không thể ra khỏi vòng sinh diệt mộng tưởng đó là vào Pháp Môn Không Hai

Bồ Tát Phổ Thủ nói: Ngã, vô ngã là hai. Ngã còn không có thời phi ngã đâu có được. Thấy được Thật Tánh của ngã không còn có hai tướng, đó là vào Pháp Môn Không Hai

Chúng ta chấp có ngã, có cái ta do năm uẩn họp thành. Rồi từ cái chấp ngã đó mà tạo vô lượng tội lỗi. Để phá cái chấp đó, Đức Phật dạy lý vô ngã, giúp chúng sinh xa lìa chấp ngãngã sở. Đó là phương tiện lấy độc trị độc mà thôi. Khi Bồ Tát thâm nhập Trí Huệ Ba La Mật thì thấy năm uẩn là Không, ngã không có thì làm gì có phi ngã. Thật Tánh của các pháp là bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm, không có hai tướng, thấy được như vậy là vào Pháp Môn Không Hai

Lần lượt 31 vị Bồ Tát phát biểu ý kiến của mình, tuy có 31 câu trả lời nhưng tất cả đều quy vào một điểm: đứng về tướng thì có phân biệt đối đãi: Ngã và ngã sở, thọ và không thọ, nhơ và sạch, thiện và ác, tội và phước, sinh tửNiết Bàn... rõ ràng có hai bên, hai phía; nhưng đứng về Thể Tánh, Thật Tướng thì vượt lên trên sự phân biệt, nhìn thấu suốt qua hình tướng để vào Bản Thể Chân Như thì không thấy hai, mà cũng không thấy một (vì thấy một là ám chỉ hai), chỉ thấy tất cả là Không. chẳng phải hai chẳng phải một, đó là Bất Nhị, Không Hai. 

Chúng sinh thấy có sinh có diệt là hai, đó là phần tướng. Các Bồ Tát đứng về phần Tánh thấy chẳng có gì sinh chẳng có gì diệt, mà sinh diệt chỉ là hiện tượng giả lập huyễn hóa mộng tưởng, nằm mộng thấy có, tỉnh giác biết là giả, không có thật. Chúng sinh thấy sắc và không là hai, một bên có một bên không. Khi thâm nhập Bát Nhã thì sắc tức là không, không tức là sắc. Khi đứng về tướng là còn trong vòng đối đãi phân biệt, nhưng đứng về Tánh nghĩa là đặt mình trong Chân Lý rốt ráo tột cùng, nhập vào Lý Thể chân thật duy nhất vắng lặng như như bình đẳng thì không có tướng trạng, không phân biệt tốt xấu tội phước, chẳng có không gianthời gian, mà chỉ thấy một sự bình đẳng tuyệt vời, một pháp giới bao la vô cùng vô tận vô biên, trong đó tất cả mọi pháp đều dung thông hòa hợp, tất cả là một, một là tất cả, danh từ một cũng là gượng dùng mà thôi, vì nói một là bao hàm có hai, có khác, nhưng ngoài danh từ một thì chẳng có danh từ nào khác để chỉ cái Thể Tánh Chân Như đó. 

Chúng ta cần bỏ qua sự dùng giác quaný thức tầm thường mà chúng ta vẫn quen dùng để phân biệt mọi vậthình tướng khác nhau: cao thấp, rộng hẹp, vuông tròn, xấu đẹp, đen trắng... mà phải cố gắng vươn lên trên, dùng trí huệnhận xét đến chỗ tận cùng thì thấy tất cả mọi sự mọi vật đều giả hợp, vô ngã vô thường, không thật có, không bền vững, trước còn sau mất, trước có sau không. Đó mới là giai đoạn đầu của quá trình chuyển Thức thành Trí, tùng Tướng nhập Tánh. Tiến lên một bước nữa thì thoạt nhìn qua tướng trạng bề ngoài mà đã thấy ngay cái Bản Thể Nhất Như, không cần chờ phân tích các tướng tan hoại. Đó là cái Lý Thể chân thật duy nhất vắng lặng như như bình đẳng lìa hẳn mọi sai khác đối đãi. Cái Lý Thể đó không thể dùng danh từ ngôn ngữ tâm duyên để diễn tả, nhưng nếu không diễn tả thì làm sao người khác hiểu được, cho nên các Bồ Tát gắng gượng tạm dùng danh từ Không Hai. 

Sau khi 31 vị Bồ Tát tạm dùng danh từ ngôn ngữ để diễn tả thế nào là Bồ Tát vào Pháp Môn Không Hai, đến lượt Ngài Văn Thù. Vị Bồ Tát này được xưng tụngĐại Trí, có trí huệ lớn nhất trong các hàng Đại Bồ Tát, Ngài nói: Đối với tất cả các pháp không nói không rằng, không chỉ không biết, xa lìa các vấn đáp, đó là vào Pháp Môn Không Hai

Ngài Văn Thù đã chứng ngộ Chân Lý, biết rằng ngôn từ không diễn tả được Thực Thể phải xa lìa các lời nói năng vấn đáp, phải trải qua kinh nghiệm sống, phải thân chứng mới biết cái Thực Thể bất Sinh bất diệt tiềm ẩn trong mọi loài chúng sinh, cái đó ở Phật không hơn, ở chúng sinh không kém. Tuy Ngài Văn Thù biết các pháp xa lìa các vấn đáp, nhưng Ngài vẫn dùng tiếng nói để đáp lại câu hỏi của các vị Bồ Tát, dùng ngôn ngữ để nói về cái mà ngôn ngữ không diễn tả được. 

Đến lượt ông Duy Ma Cật thì ông im lặng không nói năng chi cả. Đây là chỗ cao tột của bộ Kinh này, đưa chúng sinh vượt qua ngôn ngữ mà vào Thể Tánh Chân Như, ví như thiền sư vượt đầu sào trăm trượng để nhảy vào hư không. Đây chính là chỗ Tổ Sư Đạt Ma ngồi tham thiền quay mặt vào tường chín năm không nói, Ngài Đại Ca Diếp mỉm cười khi Đức Thích Ca dơ cành hoa sen trong hội Linh Sơn, và chính Đức Thích Ca cũng diễn tả bằng câu nói: “Trong 49 năm trời thuyết pháp, ta chưa hề nói lời nào”. Đứng về tướng thì có nói, nhưng đứng về Tánh thì không nói, vì Chân Lý vượt ra ngoài ngôn ngữ thì dùng ngôn ngữ diễn tả Chân Lý làm sao được. Sở dĩ phải dùng lời nói, thuyết pháp, in kinh dịch sách... là tạm dùng phương tiện để dắt dẫn chúng sinh trong bước đầu tu học, sau đó thì người tu phải tự mình tìm một phương pháp thích hợp với căn cơ của mình để vươn lên, vượt ra khỏi vòng tương đối để nhập vào Tuyệt Đối, đó là vào Pháp Môn Không Hai

Ông Duy Ma Cật im lặng không nói, nhưng để chứng minh sự nhập Thể cao tột đó, Ngài Văn Thù khen ngợi: đó mới là vào Pháp Môn Không Hai. Đây là Ngài Văn Thù muốn chỉ rõ cho chúng sinh biết rằng ông Duy Ma Cật đã vượt lên trên ngôn ngữ để nhập Thể Tánh chứ không phải ông Duy Ma Cật không biết, không trả lời nổi câu hỏi. Cũng trong tinh thần siêu việt đó, kinh sách có câu: Ngôn ngữ Đạo đoạn, nghĩa là lời nói làm đứt Đạo. 

Chủ ý của Phẩm này là khuyên chúng sinh rời bỏ những chấp trước tầm thường trong danh từ ngôn ngữ, mà cần thâm nhập vào nghĩa ẩn của lời Phật trong kinh, vượt ra ngoài khuôn sáo nhỏ hẹp để vươn lên, nhập vào Bản Thể Chân Như vô cùng vô tận. Đây cũng là chỗ thấy của hàng Bồ Tát phát lòng đại từ đại bi đại hỷ đại xả, vì thấy chúng sinh đang bị đau khổ trong địa ngục vô minh, làm sao các Ngài tự tại an vui được; vì sao? vì Bồ Tátchúng sinh là một, không hai, Bất Nhị

Lấy thêm một thí dụ cụ thể thường ngày cho dễ hiểu
Chúng ta đứng ở dưới đất thì phân biệt rõ ràng người này với người kia, vật này với vật nọ, nào kích thước, mầu sắc, xấu đẹp, quý tiện... khác nhau rất nhiều. Đó là chúng ta nhận xét, so sánh, phân biệt tương đối. Nếu chúng ta đứng trên sân thượng một tòa nhà mười tầng thì lúc đó sự so sánh phân biệt đã bớt rõ, chỉ thấy người đi qua đi lại mà không thấy mặt mày xấu đẹp, quần áo sang hèn mới cũ được nữa. Nếu chúng ta đứng trên nóc một tòa nhà chọc trời 100 tầng thì chỉ thấy lờ mờ những điểm nhỏ di động, không khác biệt nhau bao nhiêu, sự tương đối so sánh phân biệt đã giảm đi rất nhiều. Nay nếu chúng ta ngồi trên một máy bay phản lực siêu thanh bay thật mau trên độ cao mười cây số thì chúng ta không còn phân biệt gì bên dưới, mà chỉ thấy một màu trắng trinh nguyên, đồng nhất vô sai biệt

Đây là tạm thí dụ mà thôi, chứ còn thấy mầu trắng là còn tương đối phân biệt trắng với đen, còn đối đãi với các mầu khác, chưa tới chỗ tột cùng cao siêu tuyệt đối. Chúng ta là những người còn đứng dưới thấp, các Bồ Tát là những vị đã ở trên cao, sự thấy biết của chúng ta thua kém cạn hẹp, sai lầm, còn sự thấy biết của các Bồ Tát thì cao siêu và đúng sự thật. Nhưng nếu chúng ta chịu tin theo học hỏi và làm đúng các lời dạy của Đức Phật và chư vị Bồ Tát thì lần lần chúng ta cũng chuyển phần nào đôi mắt thịt thành cặp mắt trí huệ, sự hiểu biết của chúng ta cũng cao rộng thêm lên, sự chấp ngã ích kỷ mỏng dần, rồi có ngày tan vỡ để chúng ta nhập một với Bản Thể của vạn vật, như các giọt nước gặp nhau trong biển cả, lúc đó chỉ còn một vị nước mặn chứ không còn phân biệt nước suối hay nước sông, khi đó chúng ta đã vào Pháp Môn Không Hai vậy. 

Để áp dụng vào cuộc đời, thực hành Pháp Môn Không Hai trong xã hội, chúng ta đừng nhìn đời sốnghai mặt đối đãi tốt xấu, thiện ác, quen lạ, thân sơ, xuất gia tại gia, chiến tranh hòa bình... cái nhìn đó chưa được toàn diện, còn thiếu sót, mà phải nhìn cuộc sống trong thế gian với Tâm tĩnh lặng, nhờ trí huệ chiếu soi, không thương ghét thù hận, thấy chúng sinhhình tướng sai khác, tính nết khác nhau, nghiệp báo nặng nhẹ, nhưng tất cả đều có chung một cái cao cả mà không một danh lừ ngôn ngữ nào diễn tả được, nói ra là sai, vẽ ra là trật, nghĩ đến là biến, gượng dùng các danh từ Bản Thể, Chân Như, Thật Tướng, Phật Tánh, Bản Lai Diện Mục, Chân Tâm,... tạm chỉ mà thôi. Chúng ta dùng các phương tiện như niệm Phật, tụng Kinh, trì Chú, tu Thiền, quán tưởng... để diệt trừ vọng tưởng, giữ Tâm được an định, phát huy trí huệ sẵn có, bao nhiêu tạp niệm lắng xuống, chúng ta có cái nhìn đúng đắn về con người, về xã hội, về mọi hoàn cảnh; nhất là biết rõ chúng ta là ai, có mặt trên thế gian này với mục đích gì, và sẽ đi về đâu ? Hiểu biết được vậy là chúng ta vào Pháp Môn Không Hai

Trong phẩm này, các Bồ Tát thị hiện phân biệt nói năng dùng nhiều danh từ ngôn ngữ, để hướng dẫn chúng sinh trong giai đoạn mới học mới tu, rồi Ngài Văn Thù phá chấp ngôn ngữ, nó không thể diễn tả Chân Lý mà chỉ là phương tiện mà thôi, chỉ là chiếc bè đưa qua sông, là ngón tay chỉ mặt trăng, nhưng Ngài vẫn phải dùng ngôn ngữ hóa độ chúng sinh. Đến ông Duy Ma Cật mới là tuyệt đối cao siêu, dùng sự im lặng đưa dắt chúng sinh thể nhập Bản Tánh Như Như Bất Động, vì không thể nói ra được. 

Chúng ta đang sống trong cuộc đời tương đối, chưa thể làm như ông Duy Ma Cật được, nhưng đừng chấp lời thị phi, lắng lòng soi tâm lặng lẽ, đừng nói nhiều, không nói những lời vô ích làm buồn người khác, mà nên nói ít, nói đúng thời, đúng pháp, làm lợi ích chúng sinh. Các bậc Thánh Hiền, các người hiểu biết thường ít nói hoặc không nói (tri giả bất ngôn), còn chúng ta nói quá nhiều vì chúng ta chắng biết Chân Lý (ngôn giả bất tri). 

Nghe xong phẩm này, trong chúng có năm ngàn Bồ Tát đều vào Pháp Môn Không Hai, chứng vô sinh pháp nhẫn. Chỉ có các Bồ Tát đã có trí huệ mới thể nhập Chân Lý, còn các Thanh Văn và Trời người thì không hiểu được. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10988)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16321)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11778)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12000)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12692)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12603)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10126)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13819)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10137)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13597)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16166)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11874)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12875)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11558)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12580)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10699)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10892)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10860)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11807)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12659)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 10982)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12522)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11232)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12423)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 13979)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10743)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10408)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11076)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11879)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13045)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12272)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15251)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14215)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12004)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15191)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11886)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12332)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11099)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10512)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12469)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13047)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14694)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12563)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16420)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13409)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11877)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11525)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12666)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12784)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 17887)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12094)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12941)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant