Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tổng Luận

08 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7792)
Tổng Luận

LƯỢC GIẢI KINH DUY MA
Thượng Tọa Thích Trí Quảng
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành PL. 2535 - 1999


TỔNG LUẬN

NHẬN XÉT TỔNG QUÁT VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA 

Sau khi thành đạo, từ Bồ đề đạo tràng đến Sa La song thọ trải qua hơn 300 hội, Phật dùng tuệ giác quan sát thật tướng các pháp và thực trạng xã hội, Ngài đưa ra nền giáo lý trong sáng, toàn bích.

 Tuy giáo pháp của Phật có tám vạn bốn ngàn pháp môn, nhưng chính yếu vẫn là tinh thần “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác”. Phật dạy chúng ta phát triển nếp sống đạo đức thanh cao và phát huy trí tuệ thấy đúng như thật để hành động phù hợp với chuyển biến của quy luật khách quan. Chính Đức Phật đã tìm thấy chân lý ngay trên thế gianthể hiện chân lý trong cuộc sống dưới mọi tình huống. 

Trên bước đường hoằng hóa độ sanh, tùy theo sinh hoạt từng nước, Ngài dạy chúng Tăng nhận thức đúng đắn về thực trạng xã hội và đưa ra pháp tu tương ưng, để hoán chuyển tâm chúng hội an trú thanh tịnh ngay trong lòng cuộc đời. Và xa hơn, họ nương theo Phật pháp, cải tạo nếp sống xã hội trở thành thiện mỹ hơn.

Với nhân cách siêu việt, trí tuệ tuyệt luân, việc làm thánh thiện lợi lạc cho đời, cùng với hàng đệ tử mô phạm Thánh chúng, Phật đã đáp ứng yêu cầu cần thiết của xã hội lúc bấy giờ. Ngài đã là hạt nhân thu hút mọi tầng lớp người quy ngưỡng. Một đạo Phật hiện hữu sống động, cần thiết tất yếu như vậy đã nhẹ nhàng đẩy lùi tư tưởng lạc hậu của Bà La Môn giáo

Phật tại thế, mọi người sống hạnh phúc bên Ngài, thì vấn đề tìm hiểu về Phật tất nhiên không cần đặt ra. Tuy nhiên, khi Ngài Niết bàn, không có người có đạo đứctri thức như Ngài để dìu dắt chúng hội. Từ đó, người ta bắt đầu suy nghĩ, tìm hiểu về Phật.

 Mọi người đều có chung suy nghĩ rằng cần góp nhặt lời Phật dạy, truyền trao cho nhau để tu hành. Trong lần kiết tập này, dĩ nhiên không thể trùng tuyên đầy đủ lời Phật dạy, cũng như không được mọi người tán thành hoàn toàn

Thật vậy, những chứng nhân quan trọng đã từng trực tiếp nghe Phật thuyết pháp như Xá Lợi Phất hay Mục Kiền Liên không còn hiện diện. Các Ngài đã nhập Niết bàn. Ngoài ra, lịch sử cũng ghi rõ đại đệ tử thuyết pháp bậc nhất Phú Lâu Na và 500 Tỳ kheo không đồng ý với những gì được kiết tập. Họ đã rời bỏ cuộc họp đến hang động khác để trùng tuyên lại. 

Theo tôi, những gì các vị La hán hiểu và góp nhặt được trong kỳ kiết tập đầu chỉ là một phần tư tưởng của Phật. Chính Đức Phật thường nhắc đi nhắc lại rằng pháp của Ngài nói cho chúng ta chỉ là lá trong tay khô chết, không phải chân lý. Ý này được xác định trong kinh Văn Thù rằng suốt 49 năm thuyết pháp, Phật chưa nói một lời. Và kinh Pháp Hoa diễn tả các pháp vắng lặng không thể dùng lời để diễn tả.

 Như vậy, điều Phật nói ra mà Ngài còn khẳng định là phương tiện. Huống chi cái chúng ta nắm bắt phương tiện chỉ là “Phương tiện nằm trong phương tiện”, ắt hẳn còn cách xa chân lý Phật hơn nữa.

 Dưới nhãn quan Phật giáo Đại thừa, ý tiềm tàng bên trong chúng ta cần vận dụng mang lợi ích thiết thực cho đời sống ví như lá trong rừng. Nó hoàn toàn khác với những gì đóng khuôn trong lời Phật nói, không còn sức sống, giống như nắm lá trong tay.

 Đến đây, cần đề cập thêm về vấn đề liên quan đến sự hưng vong của Phật giáo Ấn Độ để hiểu rõ thêm việc làm tác hại của người theo chủ nghĩa giáo điều. Các nhà sử học đều thắc mắc rằng Phật giáo sinh hoạt mạnh mẽ khi Phật tại thế và đến thời kỳ Phật giáo phát triển, sinh động của đạo Phật cũng còn mạnh. Nhưng đột nhiên, Phật giáo bị suy đồi cho đến mất tích ở Ấn Độ. Tại sao lại xảy ra tình trạng tệ hại như vậy; trong lúc ở những nước khác, Phật giáo cũng gặp chống phá mạnh mẽ mà vẫn duy trì tồn tại được ?

 Theo tôi, Thượng tọa bộ thời ấy cứ khư khư giữ nguyên những gì họ cho là đúng theo Phật dạy. Họ không chịu nhìn vào thực trạng xã hội để đáp ứng yêu cầu thời đó, đã trở thành đối kháng với Bà La Môn giáo. Giáo đoàn sống đóng khuôn trong giáo điều, nên giới trí thức trong xã hội từ từ rời bỏ Phật giáo. Dưới mắt Bà La Môn hay xã hội, tu sĩ Phật giáo trở thành những người ăn hạidần dần bị rơi vào quên lãng

Trái với chủ trương thoái hóa bị tàn lụn dần của Thượng tọa bộ, giáo nghĩa Đại thừa với tinh thần phóng khoáng, dung hóa và thu nhiếp những gì Phật dạy Bà La Môn, cư sĩ, hay nói chung cho xã hội phát triển.

 Vì vậy, giáo nghĩa Đại thừa chẳng những không đối kháng với Bà La Môn giáo, mà còn gần gũi lợi ích, nên được họ tiếp thu để phát triển thành tân hưng Bà La Môn gọi là Ấn Độ giáo

Tóm lại, tinh thần cục bộ, tiêu cực của Phật giáo Tiểu thừa đã bị Bà La Môn giáo xóa bỏ. Ấn Độ giáo ra đời kết hợp văn minh Vệ Đà với tinh ba của giáo nghĩa Đại thừa. Tinh thần Phật giáo Đại thừa tiềm ẩn trong Ấn Độ giáo ngày nay được thể hiện qua lời phát biểu của cố Thủ tướng Nerhu. Ông tự coi mình theo đạo Phật, mặc dù thực sự ông là tín đồ của Ấn Độ giáo. Hoặc đọc các tác phẩm của triết gia danh tiếng Ấn Độ như Tagore, cũng thấy man mác giáo nghĩa Đại thừa hàm chứa bên trong. 

Trở lại vấn đề thời kỳ kiết tập lần đầu của Ngài Ca Diếp, chúng ta nhận thấy thời đó chưa soạn thành kinh điển, chỉ truyền thừa bằng cách truyền khẩu.

Sau đó, vì trình độ hiểu biết của mỗi người khác nhau, tuy cùng một lời dạy của Phật lại nảy sanh những nhận thức khác biệt. Đó là nguyên nhân phát sinh A Tỳ Đàm hay luận tạng, tạo thành giáo lý tam tạng.

 Kinh tạngluật tạng ghi lại cuộc sống của Phật và lời dạy của Ngài. Luận tạng giải thích lời Phật. Sự giải thích này thay đổi khác nhau tùy theo xuất xứ, hoàn cảnh quốc độtrình độ nhận thức của từng luận sư. Từ đó, dẫn đến hiểu biếtnhận thức về lời dạy của Phật không đồng nhất, mở đầu cho thời kỳ A Tỳ Đạt Ma phát triển. Nhiều bộ phái Phật giáo được hình thành, nhưng chung quy có hai bộ phái chính là Thượng tọa bộĐại chúng bộ

Thượng tọa bộ gồm những người lớn tuổi, bảo thủ, ít thích cải cách sửa đổi, thường quen sống theo lối mòn cũ, cảm thấy bình ổn hơn. Họ chủ trương y kinh, y luật Phật dạy, không được thêm bớt

Trái lại, Đại chúng bộ gồm lớp người trẻ có tư tưởng tiến bộ, chủ trương kế thừa tư tưởng của Phật, nhưng lấy ý của đại chúng làm chính và tùy theo yêu cầu của đại chúng mà vận dụng, phát triển giáo lý phục vụ đại chúng

Từ căn bản dựa trên ý thức về xã hội, về đại chúng làm chuẩn, khác với chủ trương giáo điều của Thượng tọa bộ, kinh điển của Đại chúng bộ phát triển những điểm mới lạ hơn kinh của Thượng tọa bộ biên soạn.

Tư tưởng của hai bộ phái này bắt đầu lan rộng mạnh mẽ thành hai con đường. Con đường Nam truyền Phật giáo đi xuống phía Nam Ấn Độ và qua Xri Lanca biên soạn thành tạng kinh Pali. Con đường Bắc truyền Phật giáo từ Trung Ấn Độ đi ngược lên phía Bắc, truyền sang Apganixtan, Trung Đông, Trung Á đến Trung Quốc, Triều TiênViệt Nam

Tư tưởng của Thượng tọa bộ truyền xuống phía Nam được tiếp nhận đầy đủ nguyên vẹn, vì nơi đây nền văn hóa còn thấp hay chưa có văn hóa

Ngược lại, tư tưởng Phật giáo của Đại chúng bộ từ Trung Ấn lên Bắc Ấn gặp ngay tư tưởng triết học có sẵn thuộc văn hóa Hy Lạp, Ai Cập, La Mã.

 Thật vậy, sau Phật nhập diệt 400 năm, Alex­an­dre chinh phục Ấn Độmang đến tư tưởng Hy Lạp, một nền triết học lớn của nhân loại thời ấy. Chính trong môi trường của văn minh Ấn kết hợp với văn minh Hy Lạp, sản sinh ra tư tưởng Phật giáo Đại thừa, tạo nên một cái nhìn mới về Phật giáo dưới dạng triết học.

 Đại thừa Phật giáo hay Phật giáo phát triển chú trọng đến việc vận dụng tinh thần của kinh,ï diễn tả theo chân ý của Phật bằng lối văn thời đại. Sách giáo lý diễn tả theo văn xưa không còn thích hợp, được thay bằng kinh điển Đại thừa đương đầu với tư tưởng ngoại đạo

Đó là chân tinh thần Phật giáo phát triển, truyền bá đến nơi nào cũng tiếp thu những nét sáng đẹp của văn hóa địa phương để phát triển tinh ba của địa phương ấy. Sức sống của Phật giáo phát triển giống như dòng nước ngọt trôi chảy đến mọi nơi, nuôi sống, tưới mát đất đai cây cỏ xanh tươi mà không tàn phá, cuốn trôi đi những kỳ hoa dị thảo. 

Với sự hài hòa tốt đẹp, Phật giáo Đại thừa hay Phật giáo phát triển lần lần khác biệt Phật giáo gốc, đặt giá trị truyền thừa Phật giáo trên tinh thần hơn là kế thừa hình thức. Phát triển nội dung và xóa bỏ hình thức chính là nguyên nhân phát xuất bộ kinh Duy Ma cũng như kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa.

Theo sự nghiên cứu lịch sử, những bộ kinh này thực sự được hình thành vào thế kỷ thứ nhất trước công nguyên. Vì vậy, các học giả thế giới không cho rằng kinh này do Phật nói ra và Ngài A Nan kiết tập để lại cho chúng ta.

 Ngày nay, các học giả đều đồng ý rằng kinh điển Đại thừa được biên soạn sớm nhất trước công nguyên 100 năm. Có người dựa vào đây để chỉ trích kinh Đại thừa không phải của Phật. 

Tuy nhiên, có thể kết luận rằng tam tạng kinh điển của Phật dù thuộc hệ Nam truyền hay Bắc truyền đều không phải ghi nhận một cách chính xác trực tiếp từ lời nói của Phật. Ý kinh thuộc về phần thuyết giảng của Phật, nhưng văn kinh do người đời sau ghi lại. Mỗi khi thuyết pháp, Phật ứng căn cơ, trình độ, hoàn cảnh địa phương mà nói pháp khác nhau. Trong chúng hội, người nghe pháp trình độ không đồng, nên sức tiếp thughi nhận phải khác nhau, là điều tất yếu. 

Kinh thuộc hệ Nam truyền với lối văn mộc mạc, bình dân diễn tả sự kiện thực tế hơn. Kinh điển của Phật giáo phát triển thì văn lý hàm chứa ý nghĩa sâu sắc và chải chuốt, rất linh hoạt như kinh Hoa Nghiêm có đến 45 ngàn bài kệ.

Ngoài ra, xây dựng trên tinh thần phát triển nội dung, Phật giáo Đại thừa thường chia giáo lý Phật thành hai phần : phương tiện mônchân thật môn. Giáo lý thuộc chân thật môn không thể dùng ngôn ngữ diễn tả. Phật cũng thường nhắc trong kinh Pháp Hoa rằng các pháp tướng thường tự vắng lặng, chỉ có thể dùng tâm mà trực nhận. Chính vì sự khó khăn trong việc chỉ dạy cũng như trực nhận chân thật pháp, Phật khởi lòng đại bi, tạm dùng giáo lý phương tiện. Phật thường ví pháp phương tiện đó như nắm lá trong tay, đã rời khỏi sự sống. Sự hiểu biếtdiệu dụng của Ngài như lá trong rừng luôn xanh tươi theo bốn mùa.

Tinh thần Đại thừa nhằm triển khai sức sống của lá trong rừng. Hay nói cách khác, nhìn sự vật hiện hữu, sinh hoạt đúng như thời đại và phân tích, vận dụng giáo lý cho phù hợp với xã hội đang sống. Còn giáo pháp Phật thuyết ra chỉ là phương tiện hướng dẫn chúng ta tiếp cận chân lý

Phát huy tinh thần này, Phật giáo Đại thừa cố gắng tìm hiểu ý nghĩa sâu xa hàm chứa bên trong lời nói của Phật, cố diễn tả chân ý của Phật. Quan niệm bảo thủ thì chỉ ghi nhận lời Phật và luôn luôn trân trọng giữ nguyên, không thay đổi.

Người thể hiện tinh thần tìm hiểu nghĩa lý thâm sâu của kinh điển Đại thừa một cách chân thành là Trần Huyền Trang. Ngài là pháp sư đời Đường, mà vua Đường Thái Tông quý mến, nhận làm em. Ngài tha thiết với việc tìm hiểu chân ý của giáo pháp Đại thừa, đã vượt mọi khó khăn, hiểm nguy gian khổ sang Ấn Độ cầu pháp.

 Trước Ngài, kinh Duy Ma đã có 5 bản và bản gần nhất của Ngài Cưu Ma La Thập dịch, cách Ngài 100 năm. Ngài Huyền Trang cảm nghĩ kinh Duy Ma còn hàm chứa nhiều nghĩa sâu xa bên trong mà Cưu Ma La Thập chưa dịch được. Vì Cưu Ma La Thập là người Quy Tư, không hiểu rõ văn Trung Quốc, phải nhờ Tăng Duệ, Tăng Triệu sửa kinh, thì ý không còn đúng nữa. 

Điều này thôi thúc Ngài Huyền Trang ra đi tìm áo nghĩa kinh, trải qua 17 năm ở Ấn Độ. Trở về, Ngài dịch lại bản kinh Duy Matính cách học thuật. Bản của Ngài Cưu Ma La Thập dịch mang tính chất tín ngưỡng.

Học giáo lý Đại thừa không nắm được chân ý của kinh, chúng ta dễ thế tục hóa hay không tưởng hóa đạo Phật, trở thành xiển đề. Chính Phật cũng xác định rằng Ngài hiện hữu trên cuộc đời để dìu dắt chúng sanh từ bờ mê đến bến giác. Và kinh không phải là cứu cánh, chỉ là phương tiện nhằm chuyển đổi ta từ con người phàm phu vô minh thành bậc sáng suốt.

Tất cả kinh Đại thừa nói chung đều thể hiện tính chất này rõ rệt và kinh Duy Ma cũng không nằm ngoài mục tiêu ấy.

 VỊ TRÍ CỦA KINH DUY MA TRONG HỆ TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA 

Kinh Duy Mabộ kinh Đại thừa có sớm nhất, phát sinh từ ngã rẽ của bộ phái Phật giáo và 10 điều phi pháp ở thành Tỳ Da Ly. 

(Nguyên vì đức Thích Tôn diệt độ sau khoảng 100 năm, các vị Tỳ kheo xuất thân từ dòng họ Tỳ Xá Ly, đề xướng ra 10 hành vi chủ trương là thích hợp với giới luật của Tỳ kheo. 10 hành vi đó như sau : 1- Diêm tịnh : Căn cứ vào giới luật, các Tỳ kheo không được để đồ ăn cách đêm. Nghĩa là các thứ đồ ăn thông thường, không được để đến ngày hôm sau rồi lại ăn. Nhưng nếu đồ ăn đó đem ướp với muối, thì vẫn có thể được dùng ngày hôm sau. 2- Chỉ tịnh : Về bữa ăn của Tỳ kheo phải ở lúc chính ngọ. Nếu đúng lúc đang đi giữa đường, thì bữa ăn có thể được dùng ở quá giờ ngọ một chút, nghĩa là mặt trời đã xế bóng chừng độ 2 chủ, mỗi chủ 1 thước 5 tấc ta. 3- Tụ lạc gian tịnh : Tỳ kheo sau khi ăn rồi, nếu ở trước giờ ngọ, tới chốn tụ lạc khác, xin được thức ăn, vẫn có thể được thụ dụng. 4- Trụ xứ tịnh : Một tháng hai kỳ các Tỳ kheo phải tụ tập ở một trụ xứ nào đó để làm lễ Bố tát. Nếu trụ xứ quá hẹp, có thể được phân chia làm hai nơi để làm lễ Bố tát. 5- Tùy ý tịnh : Quyết nghị của đoàn thể xuất gia, cần phải toàn viên tận tập để giải quyết. Nếu trường hợp không thể xuất tịch được, sau khi giáo đoàn quyết nghị, sẽ có thể đem những quyết nghị đó thông cáo sau. 6- Cửu trụ tịnh : Có thể noi theo vào tiền lệ, nghĩa là noi theo thể lệ của người trước đã làm. 7- Sinh hòa hợp tịnh : Sau giờ ngọ, các Tỳ kheo không được ăn phi thời. Nhưng có thể được dùng nước hòa lẫn với sữa, không cần phải để sữa lắng xuống. 8- Bất ích lũ ni sư đàn tịnh : Tọa cụ của Tỳ kheo kích thước bề dài, bề rộng phải theo đúng như quy định trong giới luật. Nếu là tọa cụ không có viền xung quanh, có thể được dùng quá khuôn khổ đã định. 9- Thủy tịnh : Tỳ kheo không được uống rượu, nhưng vì trường hợp bệnh hoạn, dùng để làm thuốc, có thể pha lẫn với nước để uống. 10- Kim tiền tịnh : Tỳ kheo vốn dĩ không được cầm tiền. Nếu bất đắc dĩ, có thể được cầm tiền bạc và xúc tích tiền bạc.

 Mười điều trên thực ra vi phạm giới luật. Đứng về phương diện nghiêm khắc của giới luậtgiải thíchphi pháp. Nhưng đứng về mặt khoan đại mà giải thích, thì thích hợp với giới luật.

 Các Tỳ kheo ở phương Đông, đứng về phe tự dogiải thích, nên dung hứa 10 điều kể trên. Trong lúc đó, ở phương Tây có một học giả tinh thông giới luậttrưởng lão Da Xá du hành tới thành Phệ Xá Ly, gặp ngày Bố tát. Ngài nhận thấy các Tỳ kheo thuộc dòng Tỳ Xá Ly khuyến hóa tín đồ cúng dường tiền bạc. Ngài rất kinh ngạc

can ngăn việc đó, Ngài đối trước tín đồ mà tuyên cáo : “Việc Tỳ kheo cầm tiền và nhận tiền là một cấm giới nghiêm trọng trong giới luật”, để cảnh cáo các Tỳ kheo

Các Tỳ kheo cho rằng trưởng lão Da Xá làm phương ngại sự cúng dường của tín đồ và lăng mạ đại chúng. Họ bắt Ngài phải xin lỗi trước đại chúngtín đồ. Nhưng Ngài không nghe theo, trốn vào thành, đối trước dân chúng công nhiên phát biểu 10 hành vi phi pháp như trên. Đại chúng thấy vậy liền tập Tăng tác pháp sấn xuất (đuổi ra khỏi chúng, theo luật Phật, nếu một Tỳ kheo nào đem lỗi xấu của đại chúng công bố trước tín đồ sẽ bị xuất chúng). 

Trưởng lão Da Xá trở lại phương Tây, cảm thấy giới luật của Phật bị suy tàn. Ngài quyết đi vận động các bậc trưởng lão để giải quyết 10 điều phi pháp. Các trưởng lão kết luận 10 điều kể trên là phi pháp.

 Ngược lại, các Tỳ kheo thuộc Đông bộ không phục tùng nghị quyết này. Họ cùng nhau hội họp tại nơi khác và cũng để kiết tập kinh điển, gọi là Đại kiết tập hay Đại chúng kiết tập) (Trích Lược sử Phật giáo Ấn Độ tr. 89 của HT. Thích Thanh Kiểm).

Có thể nói kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”. 

Thật vậy, kinh Duy Ma phát xuất từ cách nhìn khách quan về xã hội. Bằng trí Bát Nhã của hệ Đại thừa rọi vào lòng xã hội sau Phật nhập diệt 100 năm, tư tưởng Duy Ma đã ra đời tại thành Tỳ Da Ly và manh nha phát triển trong giới trí thức. Đứng trên lập trường Bát Nhã quán chiếu sự vật đúng như thật, Đại chúng bộ nhận thấy thành Tỳ Da Ly là trung tâm giao lưu về tư tưởng, văn hóa, thương mại. Nơi đó có 500 trưởng giả thuộc thành phần giàu có, trí thức. Họ là những người ưu tú nồng cốt của xã hội, không thể chấp nhận tôn giáo mang tính chất lạc hậu; cũng như ngày nay hình thức khất thực không tồn tại được ở các nước văn minh

Sự quan sát chính xác của Phật giáo Đại thừa về hiện thực xã hội ở thành Tỳ Da Ly ngày nay được chứng minh rõ rệt. Theo khảo chứng căn cứ vào Đại Đường Tây Vực thuật ký của Ngài Huyền Trang, các nhà khảo cổ tìm thấy nền nhà của Duy Matrưởng giả Bảo Tích cùng các dấu vết lưu lại của một thành phố trù phú.

Sinh hoạt trong môi trường của nền văn hóa giao lưu, những nhà Phật giáo Đại thừa nhận chân được thực trạng của Phật giáo đang đổ dốc trong một xã hội phát triển với tư tưởng văn minh của Hy Lạp truyền xuống, cộng thêm lý luận sắc bén có sẵn lâu đời của giáo lý Vệ Đà. Vậy mà các vị trưởng lão thuộc Thượng tọa bộ lại còn quá câu nệ hình thức, tự sống khép mình trong vỏ giới luật cứng nhắc. Sinh hoạt tôn giáo đối với họ chỉ đóng khuôn vào công việc lập đi lập lại một cách đơn thuần, máy móc, là đi khất thựctruyền bá những giáo điều không còn thích hợp với xã hội văn minh.

Đối trước những tệ trạng đó, những nhà tâm huyết Đại thừa thao thức cho sự sống còn của Phật giáo. Trước trào lưu tiến hóa xã hội, họ đã vận dụng tôn chỉ của Phật cho phù hợp với thời đại. Văn minh loài người tiến đến đâu, tri thức của Phật giáo mở rộngchỉ đạo cho sinh hoạt thế gian đến đó. Nếu tri thức của giới Phật giáo thấp hơn xã hội, thì sẽ bị nhận chìm. Tư tưởng Duy Ma được hình thành theo tinh thần này. 

Vì vậy, có thể nói kinh Duy Ma khởi đầu cho sự duy tân Phật giáo. Bộ kinh này tổng hợp toàn bộ nhận thức của cả Tiểu thừa lẫn Đại thừa. Tuy nhiên, chỉ lọc lấy những sâu kín hay phần cốt tủy của kinh và loại bỏ phần không cần thiết

Theo lối kiến giải mới về giáo lý Đại thừa, kinh Duy Ma được xếp vào thời kỳ chỉnh lý giáo lý của Phật. Từ giáo lý khô chết, sống đóng khuôn, không ích lợi gì cho xã hội, kinh Duy Ma rút ra những điểm tinh ba đem trang nghiêm cho thân tâm chúng ta để thăng hoa cuộc sống. Và rộng hơn nữa, rọi giáo lý giác ngộ vào lòng xã hội để kiến tạo xã hội văn minh, hạnh phúc, tức xây dựng một Tịnh độ ngay trên nhân gian .

Công việc chỉnh lý được thể hiện qua nội dung kinh bằng sự kiện 10 đại đệ tử của Phật tiêu biểu cho 10 vị Thanh văn xuất gia đều không dám đến thăm bệnh cư sĩ Duy Ma. Họ không dám đến, vì quá nể sợ nhận thức rộng lớn của Duy Ma đã đánh ngã kiến giải thấp kém của họ. 

Kinh Duy Ma mượn hình ảnh 10 đại đệ tử bị một cư sĩ vấn nạn để diễn tả thao thức của Đại chúng bộ, hay nói chung tâm trạng của hàng Tăng lữ sau khi Phật Niết bàn. Họ bước chân vào đời chạm trán với thực tế phũ phàng. Làm thế nào truyền đạo, giữ vững tư cách làm thầy của thiên hạ, khi họ phải đối đầu với người trí thức thế gian vượt hẳn giới xuất gia về mọi lãnh vực.

Kinh Duy Ma vẽ ra câu chuyện 10 đại đệ tử của Phật đã trả lời một cách lúng túng những câu hỏi của cư sĩ Duy Ma hay phải chịu thua, cúi đầu im lặng. Ý này gợi chúng ta hình dung cuộc sống của tu sĩ đóng khuôn trong lớp vỏ tôn giáo, mà không sử dụng được kho tàng giáo lý của Phật quá diệu dụng, trong khi xã hội mỗi ngày một tiến triển nhanh chóng, không ngừng. Nếu cứ tiếp tục lối sống lạc hậu, quay lưng lại với xã hội, đi ngược lại đà phát triển của văn minh nhân loại, chẳng bao lâu Phật giáo sẽ bị tự đào thải ra khỏi cuộc đời

Trước mối ưu tư đó, giai tầng trí thức chủ trương phải tổ chức lại Phật giáo có một hướng đi rõ rệt, cao thượng và lợi ích thiết thực trên nhân gian. Và kinh Duy Ma xây dựng trên tinh thần này đã hình thành hai mẫu người lý tưởng của đạo Phật : một mẫu người tiêu biểu cho giới tu sĩVăn Thù Sư Lợi Bồ tát và một người gương mẫu đại diện cho giới cư sĩ tại gia tu hành đúng pháp, thể hiện được trí tuệ sáng suốt, đời sống đạo đức, làm sáng đẹp cho đạo và đời. Cả hai mẫu người xuất giatại gia như vậy đều có giá trị ngang nhau. Tuy hai sắc thái nhưng là một, đưa đến kiến giải cao nhất của giáo lý Đại thừapháp môn bất nhị. Theo pháp bất nhị, những gì còn chia chẻ, còn phân biệt được, thì còn nằm trong vòng đối đãi của pháp sanh diệt thế gian.

Việc vấn đáp với cư sĩ Duy Ma, tất cả đại đệ tử của Phật đều thất bại, ngoại trừ Văn Thù Sư Lợi Bồ tát.

 Văn Thù tiêu biểu cho giới xuất giatri thức tuyệt vời, đã đối đáp trôi chảy mọi thắc mắc của cư sĩ. Hình ảnh này gợi nhắc hàng tu sĩ chúng ta muốn giáp mặt với đời, giáo hóa chúng sanh, ngoài đời sống phạm hạnh cao quý, còn phải trang bị sự hiểu biết chính xác. Với kiến thức thế giansiêu thế gian, chúng ta chỉ đạo mọi việc thành công. Thực hiện được điều này, tự động xóa bỏ được chỉ trích tu sĩ là lớp người ăn bám. 

Hình ảnh kiểu mẫu thứ hai hộ trì chánh pháp thể hiện qua cư sĩ Duy Ma. Ngài sử dụng trí tuệ sáng suốt, tùy hoàn cảnh, tùy người mà hiện thân tương ưng để mang đến an vui lợi lạc

Việc làm của Duy Ma gợi nhắc hàng cư sĩ rằng tuy lăn lóc trên mọi nẻo đường đời, nhưng tâm phải luôn hướng về Vô thượng chánh đẳng giác, giống như như hoa sen vẫn tỏa hương thơm ngát trong vũng bùn nhơ. Cư sĩ mang tinh thần Duy Ma lấy trí tuệtâm từ bi làm hành trang xây dựng cho chính mình và người cùng thăng hoa, tạo dựng một xã hội an lạc giải thoát.

Tóm lại, hai hình ảnh Văn ThùDuy Ma là hai mẫu người mô phạm lý tưởng duy trìbảo vệ chánh pháp còn mãi trên thế gian. Nối gót theo các Ngài trên bước đường tu, đi theo lộ trình của kinh Duy Ma, chúng ta không an trú Niết bàn, cũng không trước sanh tử, phải giải thoát ngay trên cuộc đời này. Nghĩa là với trí Bát Nhã quán sát, chúng ta không theo đuổi con đường hoàn toàn thế tục nhiễm ô, nhưng cũng không đi trên Thánh đạo xa lánh cuộc đời

Chúng ta bước theo Trung đạo, tức con đường xây dựng thế giới giác ngộ, tình thươnghạnh phúc ngay trong lòng thế gian. Thành tựu được như vậy, chúng ta xứng đáng là người kế thừa của Phật hiện hữu trên cuộc đời chỉ nhằm mang ánh sáng trí tuệ và phước lạc đến cho mọi người.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11076)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16441)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11890)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12073)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12758)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12717)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10224)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13955)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10217)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13689)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16250)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11945)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12958)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11627)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12656)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10786)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10973)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10930)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11877)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12747)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11046)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12605)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11307)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12498)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14094)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10842)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10510)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11168)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11978)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13104)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12340)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15327)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14317)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12087)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15334)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11988)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12387)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11153)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12072)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10596)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12548)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13153)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14790)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12659)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16535)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19629)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12245)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13484)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11936)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11621)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12753)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14495)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15652)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13601)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12882)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 18001)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11148)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12160)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13032)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant