Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Iv

09 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6861)
Phần Iv

KINH DUY MA
Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải

4

Nhìn Phật Bất Động

Hiến Cúng Bằng Pháp

Ký Thác Từ Tôn

Viết Tắt

Ghi Chú


Nhìn Phật Bất Động

Đức Thế tôn hỏi trưởng giả Duy ma, rằng trưởng giả muốn thấy Như lai, mà thấy Như lai bằng cách nào? Trưởng giả thưa, con nhìn thấy thật tướng thân con thế nào thì nhìn thấy đức Thế tôn cũng y như vậy. Con nhìn thấy đức Thế tôn trước không đến, sau không đi, hiện không đứng. Con không nhìn thấy sắc, sắc như, sắc tánh, không nhìn thấy thọ, tưởng, hành, thức, thức như, thức tánh. Không phát sinh từ bốn đại chủng. Đồng đẳng không gian. Sáu quan năng không dồn chứa. Đã siêu viêểt sáu quan năng. Không ở trong ba cõi. Thoát ly ba thứ dơ bẩn (38) . Thuận theo ba cửa giải thoát. Toàn hảo ba minh trí. Đồng đẳng vô minh. Không đồng nhất, không mâu thuẫn, không chủ thể, không khách thể. Không phải khái niệm không, không phải khái niệm chấp thủ. Không ở bờ bên này, không ở bờ bên kia, không ở giữa dòng, vậy mà hóa độ chúng sinh. Quan sát tịch diệt mà không vĩnh diệt. Không phải cái này, không phải cái kia, không lấy cái này, không lấy cái kia. Không phải nhận biết bằng trí, không phải nhận thức bằng thức. Không tối, không sáng. Không tên, không tướng. Không mạnh, không yếu. Không sạch, không dơ. Không thuộc phương hướng, không tách phương hướng. Không phải hữu vi, không phải vô vi. Không chỉ thị, không phô diễn. Không phải bố thí hay keo lẫn. Không phải trì giới hay phạm giới. Không phải nhẫn nhục hay sân hận. Không phải tinh tiến hay biếng nhác. Không phải định ý hay loạn động. Không phải trí tuệ hay ngu si. Không thật, không dối. Không đến, không đi. Không ra, không vào. Tất cả con đường nói năng đều bị cắt đứt. Không phải ruộng phước hay phi ruộng phước. Không phải thích ứng hiến cúng hay phi thích ứng hiến cúng. Không lấy, không bỏ. Không có, không không. Đồng đẳng chân tế, bình đẳng pháp tánh. Không thể cân, không thể lường, vượt quá mọi sự cân lường. Không lớn, không nhỏ. Không thấy, không nghe, không hay, không biết. Thoát ly kết buộc. Đồng đẳng trí giác. Bình đẳng chúng sinh. Với các pháp thì không phân biệt. Không đánh mất, không dơ bẩn, không bực tức, không thao tác, không phát động, không phát sinh, không hủy diệt, không e sợ, không lo buồn, không vui mừng, không chán nản. Không đã có, không sẽ có, không đang có. Không thể phân biệt biểu thị bằng mọi thứ ngôn ngữ. Bạch đức Thế tôn, thân thể của Ngài là như vậy. Nên nhìn thấy như vậy. Nhìn thấy như vậy là nhìn chính xác, nhìn thấy khác đi là nhìn sai lầm.

Lúc ấy tôn giả Xá lợi phất hỏi trưởng giả Duy ma, trưởng giả chết từ thế giới nào mà sinh đến thế giới này? Trưởng giả Duy ma hỏi lại, pháp của tôn giả được có chết có sinh không? Không, tôn giả Xá lợi phất trả lời như vậy. Trưởng giả Duy ma nói, nếu pháp không chết không sinh thì sao tôn giả lại hỏi con chết ở đâu sinh đến đây. Thưa tôn giả, ý của tôn giả nghĩ thế nào, nhà ảo thuật biến ảo ra nam nữ, thì có thể gọi nam nữ ấy là chết và sinh không? Tôn giả Xá lợi phất nói không có chết và sinh gì cả. Kính bạch tôn giả, ngài nghe Phật dạy các pháp đều như huyễn ảo chăng? Tôi nghe đúng như vậy. Vậy, các pháp như huyễn ảo thì sao tôn giả lại hỏi con chết ở đâu sinh đến đây. Kính bạch tôn giả, chết là bại hoại một cách dối trá, sinh là liên tục một cách dối trá. Bồ tát chết mà không chết gốc lành, sinh mà không sinh rễ ác. Bấy giờ đức Thế tôn bảo tôn giả Xá lợi phất, có một thế giới tên là Diệu hỷ, đức Phật giáo chủ hiệu là Bất động (39) . Trưởng giả Duy ma mất ở thế giới ấy mà sinh đến thế giới này. Tôn giả Xá lợi phất thưa, thật là chưa từng có, bạch đức Thế tôn. Vị trưởng giả này bỏ được thế giới thanh tịnh mà sinh đến thế giới lắm điều tai hại này. Trưởng giả Duy ma nói với tôn giả Xá lợi phất, tôn giả nghĩ thế nào, khi ánh sáng mặt trời xuất hiện thì có ăn nhập với bóng tối không? Không, ánh sáng xuất hiện thì bóng tối không còn. Mặt trời vì sao vận hànhđại lục Diêm phù? Vì muốn chiếu ánh sáng mà trừ bóng tối. Bồ tát cũng vậy, tuy sinh thế giới dơ bẩn mà để giáo hóa chúng sinh, hủy diệt phiền não ám chướng cho chúng sinh, chứ không phải ăn nhập với ám chướng.

Bấy giờ đại hội khao khát muốn thấy thế giới Diệu hỷ, thấy đức Bất động như lai, thấy bồ tátthanh văn của thế giới ấy. Đức Thế tôn biết ý nghĩ của đại hội, nên bảo trưởng giả Duy ma, rằng Thiện nam tử, hãy hiển thị cho đại hội này về thế giới Diệu hỷ, về đức Bất động như lai, về bồ tátthanh văn của thế giới ấy. Đại hội này ai cũng muốn được nhìn thấy. Trưởng giả Duy ma nghĩ mình đừng đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi ở đây mà tiếp lấy thế giới Diệu hỷ, bao gồm thiết vi, núi sông, khe hang, rào thác, biển cả, suối nguồn, tu di, thái dương, nguyệt cầu, tinh tú, chư thiên, long chúng, quỉ chúng, thần chúng, cung điện Phạn thiên v/v; bao gồm bồ tát, thanh văn, thành thị, thôn xóm, nam nữ, lớn nhỏ; đến cả đức Bất động như laicây bồ đề của ngài, những hoa sen quí, tất cả những gì có thể làm việc Phật bất cứ ở đâu. Có ba đường cấp từ Diêm phù đến Đao lợi. Do các đường cấp ấy mà chư thiên xuống lễ bái đức Bất động như lai, nghe và tiếp nhận kinh pháp Ngài nói. Người Diêm phù cũng đi bằng đường cấp ấy mà lên đến Đao lợi, thấy hàng chư thiên. Thế giới Diệu hỷ hoàn thành tất cả thành quả như vậy. Trên đến hữu đỉnh, dưới đến thủy luân, ta hãy dùng tay phải ngắt lấy, rồi, như cái vòng của người thợ gốm (40) , ta đem nhập vào thế giới này. Ta hãy làm như cầm vòng hoahiển thị cho đại hội. Trưởng giả Duy ma nghĩ như vậy rồi nhập chánh định, hiện thần lực, dùng tay phải ngắt lấy thế giới Diệu hỷ để vào thế giới này. Những vị bồ tát, thanh vănchư thiênthần thông thì cùng nói, dạ, bạch đức Thế tôn, ai lấy chúng con đem đi, xin Ngài cứu cho. Đức Bất động như lai nói không phải Như lai làm, mà làm việc này là thần lực của trưởng giả Duy ma. Những người chưa được thần thông thì không hay không biết mình đi đến đâu. Thế giới Diệu hỷ tuy nhập vào thế giới này mà thế giới này không thêm không bớt, cũng không dồn ép. Thế giới này vẫn nguyên trạng, không có gì khác lạ. Lúc ấy đức Thích ca thế tôn bảo cả đại hội, các người hãy nhìn đức Bất động như lai của thế giới Diệu hỷ, nhìn thế giới tráng lệ, bồ tát tịnh hạnhthanh văn thanh bạch của Ngài. Cả đại hội đều nói, dạ, chúng con đã nhìn thấy. Đức Thích ca thế tôn lại nói, nếu bồ tát muốn được thế giới thanh tịnh như vậy thì phải tu học theo đường đi của đức Bất động như lai. Khi thế giới Diệu hỷ hiện ra thế giới Sa bà này thì có mười bốn na do tha người phát tâm vô thượng bồ đề, cùng nguyện sinh về thế giới Diệu hỷ. Đức Thích ca thế tôn liền thọ ký, rằng các người sẽ được về đó. Thế giới Diệu hỷ ở thế giới Sa bà này làm những sự lợi ích đáng làm rồi, trở về chỗ cũ. Đại hội ai cũng thấy như vậy.

Đức Thế tôn bảo tôn giả Xá lợi phất, tôn giả nhìn thấy thế giới Diệu hỷ và đức Bất động như lai rồi, phải không? Dạ phải, con đã nhìn thấy. Bạch đức Thế tôn, con nguyện cho tất cả chúng sinh đều được tịnh độ như đức Bất động như lai, đều được thần lực như trưởng giả Duy ma. Bạch đức Thế tôn, chúng con được thiện lợi mới gặp người như vậy mà thân gần tôn kính. Chúng sinh có ai, hoặc bây giờ, hoặc sau khi đức Thế tôn nhập diệt, mà được nghe kinh pháp này thì cũng là đã được thiện lợi, huống chi nghe rồi tin hiểu, tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, thuộc lòng, giải thích, làm đúng. Nếu tay ai cầm được cuốn kinh này thì thế là đã cầm được kho tàng pháp bảo. Ai nghiên cứu, thuộc lòng, giải thích, làm đúng, thì thế là đã được chư Phật hộ trì, nghĩ nhớ. Ai hiến cúng những người như vậy thì nên biết thế là hiến cúng đức Thế tôn. Ai sao giữ kinh này thì thế là nhà họ có Phật. Ai nghe kinh này mà tùy hỷ thì thế là thủ đắc trí tuệ toàn giác. Ai tin hiểu kinh này, dầu một bài bốn câu chỉnh cú mà thôi, rồi loan báo và giải thích cho người, thì người ấy đã được thọ ký vô thượng bồ đề.

 

Hiến Cúng Bằng Pháp

Bấy giờ từ trong đại hội, Đế thích thưa với Phật, bạch đức Thế tôn, tuy con từ đức Thế tôn và ngài Văn thù nghe đến hàng trăm hàng ngàn kinh điển, nhưng chưa hề nghe được kinh điển nói về thần lực siêu việtthật tướng quyết định như thế này. Theo chỗ con hiểu ý hướng của đức Thế tôn, nếu có chúng sinh nào nghe được kinh điển này, tin hiểu, tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, thuộc lòng, thì chắc chắn được pháp thật tướng quyết định mà không còn nghi ngờ gì nữa, huống chi còn làm đúng theo kinh dạy. Người như vậy thì đóng nẻo đường ác, mở cửa đường lành, thường được chư Phật hộ trì, chiến thắng ngoại đạo, đàn áp ma quân, tu luyện tuệ giác, ở yên đạo tràng, đi theo dấu đi của đức Thế tôn. Bạch đức Thế tôn, nếu ai tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, thuộc lòng, làm đúng kinh dạy, thì con và tùy thuộc của con hiến cúng, cung phụng. Bất cứ thôn xóm, thành thị, núi rừng, đồng nội, chỗ nào có kinh điển này, thì con và tùy thuộc của con vì nghe pháp mà đến chỗ ấy. Rồi ai chưa tin thì con làm cho họ tin tưởng, ai tin rồi thì con giữ gìn cho họ. Đức Thế tôn dạy, tốt lắm, Đế thích, tốt lắm, đúng như ông nói; Như lai tùy hỷ với ông. Kinh điển này diễn nói một cách phong phú về vô thượng bồ đềtuệ giác bất khả tư nghị của chư Phật quá khứ vị laihiện tại. Do vậy, Đế thích, thiện nam hay thiện nữ nào tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, thuộc lòng, hiến cúng kinh điển này, thì thế là hiến cúng chư Phật cả ba thì gian.

Đế thích, giả sử chư Phật đầy cả đại thiên thế giới như mía, tre, lau, lúa, mè, rừng, rú. Nếu có thiện nam hay thiện nữ nào, hoặc một kiếp, hoặc dưới một kiếp, cung kính tôn trọng, tán dương hiến cúng chư Phật ấy, cung phụng những thứ để sống yên ổn. Khi chư Phật ấy nhập diệt, thì đem toàn thân xá lợi của mỗi ngài mà dựng những ngôi tháp bằng bảy chất liệu quí báu, chu vi bằng một đại lục nhân loại, cao đến Phạn thiên, trụ biểu tráng lệ. Dùng mọi thứ hoa, hương, vòng hoa, cờ, phan, âm nhạc, tất cả đều tinh tế bậc nhất, hiến cúng một kiếp hay dưới một kiếp. Đế thích, ý ông nghĩ thế nào, người ấy gieo trồng phước đức như vậy nhiều không ? Đế thích thưa, nhiều lắm, bạch đức Thế tôn; phước đức của người ấy nói cả trăm ngàn ức kiếp cũng không hết được. Đức Thế tôn dạy, Đế thích, ông nên biết thiện nam hay thiện nữ nào nghe kinh điển nói về sự giải thoát Bất khả tư nghị này, nghe rồi tin hiểu, tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, thuộc lòng, làm đúng, thì phước của họ hơn phước của người trước. Tại sao như vậy, vì tuệ giác bồ đề của chư Phật đều xuất phát từ kinh điển này; tuệ giác bồ đề vô hạn thì phước đức của người ấy cũng vô hạn.

(41) Đức Thế tôn dạy Đế thích, quá khứ vô số kiếp, bấy giờ có đức Phật danh hiệu Dược vương, bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giác hoàn toàn, bậc Tôn cao nhất đời. Thế giới của Ngài tên là Đại trang nghiêm, thời kỳ của Ngài tên là Trang nghiêm. Ngài sống lâu hai mươi tiểu kiếp. Thanh văn tăng của Ngài có ba mươi sáu ức na do tha. Bồ tát tăng của Ngài có mười hai ức. Đế thích, bấy giờ có vị luân vương tên là Bảo cái, đủ bảy thứ quí báu, thống trị cả bốn đại lục nhân loại. Luân vương có một ngàn người con, đẹp, khỏe, khả năng chiến thắng mọi kẻ thù nghịch. Luân vương Bảo cái cùng thân quyến hiến cúng đức Dược vương như lai, cung phụng mọi sự để sống yên ổn, tròn đầy năm kiếp như vậy. Qua thì gian ấy, luân vương Bảo cái nói với một ngàn người con, rằng các con hãy như ta, đem tâm trí sâu xa mà hiến cúng đức Thế tôn. Cả ngàn người con vâng mạng phụ vương, hiến cúng đức Dược vương tròn đầy năm kiếp, tất cả yên ổn. Trong số ngàn người con, có một vương tử tên là Nguyệt cái, ngồi nghĩ một mình, coi có cách gì hiến cúng hơn nữa. Do thần lực của đức Dược vương, trong không gianthiên nhân bảo, rằng Thiện nam tử, hiến cúng bằng chánh pháp thì hơn hết mọi sự hiến cúng. Vương tử Nguyệt cái tức thì hỏi hiến cúng bằng chánh pháp là thế nào? Thiên nhân nói, vương tử nên đến hỏi đức Dược vương như lai. Ngài sẽ dạy đầy đủ cho vương tử về sự hiến cúng bằng chánh pháp. Vương tử Nguyệt cái liền đến đức Dược vương như lai, lạy ngang chân Ngài, rồi đứng qua một phía, thưa rằng bạch đức Thế tôn, trong mọi sự hiến cúng, sự hiến cúng bằng chánh pháp là hơn cả, vậy hiến cúng bằng chánh pháp là thế nào? Đức Dược vương như lai dạy, Thiện nam tử, hiến cúng bằng chánh phápkinh pháp sâu xa của Như lai thuyết ra, thế giới khó tin khó nhận, tinh tế khó thấy, trong sáng không bẩn, không phải chỉ có tư duy phân biệt mà có thể thủ đắc. Kinh pháp ấy thuộc về kho tàng chánh pháp của bồ tát. Kinh pháp ấy được khuôn dấu tổng trì đóng dấu, đưa đến địa vị Không còn thoái chuyển, hoàn thành sáu độ, khéo phân biệt nghĩa, thuận bồ đề pháp, đứng trên các kinh. Kinh pháp ấy làm cho nhập vào đại từ bi, xa ma quân, khử tà kiến, thuận theo đạo lý duyên khởi chứ không chấp bản ngã, không chấp linh hồn, không chấp sinh thể, không chấp sinh mạng, phù hợp với không, không tướng, không tác, không khởi. Kinh pháp ấy làm cho chúng sinh ngồi đạo tràng, chuyển pháp luân, chư thiên long thần đều tán dương, khen ngợi. Kinh pháp ấy làm cho chúng sinh nhập vào kho tàng Phật pháp, thống nhiếp trí tuệ của hiền thánh, thuyết minh đường đi của bồ tát. Kinh pháp ấy căn cứ vào thật tướng các pháp mà nói rõ vô thường, đau khổ, không thật, không ngã, dứt bặt, cứu được chúng sinh phá giới. Ma quân, ngoại đạo, và những kẻ tham trước, đều bị làm cho sợ hãi, còn chư Phật hiền thánh thì ai cũng tán dương. Kinh pháp ấy chống khổ sinh tử, chỉ vui niết bàn, do chư Phật trong mười phương ba đời tuyên thuyết. Nếu nghe được kinh pháp như vậy mà tin hiểu, tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, thuộc lòng, dùng phương tiện lực mà phân tích, giải thích, khai thị và giữ gìn kinh pháp như vậy cho chúng sinh, như thế gọi là hiến cúng bằng chánh pháp. Lại nữa, đối với các pháp hãy thực tu đúng như lời dạy. Hãy thích hợp mười hai duyên khởi mà tách rời tà kiến, được vô sinh nhẫn. Quyết định không bản ngã, không sinh thể, nhưng đối với quả báo duyên khởi thì không chống đối, không tranh biện, tách rời mọi thứ sở hữu của bản ngã. Y theo nghĩa mà không y theo lời, y theo trí mà không y theo thức, y theo kinh liễu nghĩa mà không y theo kinh không liễu nghĩa, y theo pháp mà không y theo người. Thuận với thật tướng các pháp, không hội nhập, không qui túc. Vô minh hủy diệt triệt để nên các hành cũng hủy diệt triệt để, cho đến sinh hủy diệt triệt để nên lão tử cũng hủy diệt triệt để. Hãy quan sát như vậy, như vậy duyên khởi không có cùng tận, cũng không có phát khởi, như thế đó gọi là sự hiến cúng bằng chánh pháp tối thượng. Đức Thế tôn bảo Đế thích, vương tử Nguyệt cái từ nơi đức Dược vương như lai nghe pháp như vậy thì được đức nhẫn nhu thuận, tức khắc cởi áo khoác quí báu và đồ trang sức mà hiến cúng đức Dược vương như lai, rồi thưa Ngài, bạch đức Thế tôn, sau khi Ngài nhập diệt, con sẽ làm theo sự hiến cúng chánh pháphộ trì chánh pháp. Nguyện xin đức Thế tôn đem uy thần mà thương tưởng xây dựng cho con, làm cho con chiến thắng ma quân, tu hạnh bồ tát. Đức Dược vương như lai biết tâm lý sâu xa của vương tử Nguyệt cái, nên thọ ký rằng sau này ông sẽ là thành trì của chánh pháp. Đế thích, bấy giờ vương tử Nguyệt cái thấy pháp thanh tịnh, nghe Phật thọ ký, nên đem đức tinxuất gia, tu tập pháp lành. Tinh tiến không bao lâu, tỷ kheo Nguyệt cái được năm thần thông, đủ bồ tát đạo, được tổng trì, hùng biện bất tận. Sau khi đức Dược vương như lai nhập diệt, tỷ kheo Nguyệt cái sử dụng thần thông, tổng trì và hùng biện của mình, trọn vẹn mười tiểu kiếp phân bố pháp luân mà đức Dược vương như lai đã chuyển. Tỷ kheo Nguyệt cáigiữ gìn chánh phápnỗ lực tinh tiến, nên chính cái thân ấy đã làm cho trăm vạn ức người đứng nơi vô thượng bồ đề mà không còn thoái chuyển, làm cho mười bốn na do tha người phát khởi một cách sâu xa tâm chí thanh văn duyên giác, làm cho vô lượng chúng sinh được sinh chư thiên. Đế thích, luân vương Bảo cái lúc ấy có phải ai đâu, mà chính là vị đã được thành Phật với danh hiệu Bảo diệm như lai. Còn ngàn vương tử là ngàn đức Phật trong Hiền kiếp, đầu tiên là đức Ca la, cuối cùng là đức Lâu chí. Trong đó, tỷ kheo Nguyệt cái chính là bản thân của Như lai.

Đế thích, hãy nhận thức cái điều cốt yếu đó. Rằng trong mọi sự hiến cúng, hiến cúng chánh pháp mới là tối thượng, mới là bậc nhất, không gì có thể sánh bằng. Do vậy, Đế thích, hãy đem sự hiến cúng chánh pháp mà hiến cúng Như lai.

 

Ký Thác Từ Tôn

Bấy giờ đức Thế tôn nói với Di lạc đại sĩ, Như lai ngày nay đem cái pháp vô thượng bồ đề đã tập hợp trong vô số kiếp mà ký thác cho đại sĩ. Kinh pháp như thế này, sau khi Như lai nhập diệt, trong thời kỳ cuối cùng của Phật pháp, đại sĩ hãy vận dụng thần lựclưu hành tại đại lục Diêm phù, đừng để mất đi. Trong thời kỳ sau này, sẽ có thiện nam thiện nữ, có thiên long quỉ thần, có càn thát bà, la sát, v/v, phát tâm vô thượng bồ đề, ưa thích kinh pháp vĩ đại. Nếu để cho họ không nghe được kinh pháp như thế này thì họ mất lợi ích tốt đẹp. Nếu họ nghe được kinh pháp như thế này thì chắc chắn tin tưởngthích thú nhiều lắm, phát tâm hiếm có, đem đỉnh đầu của mình mà tiếp nhận, rồi tùy người thích ứng ích lợi như thế nào mà giảng giải phong phú. Di lạc đại sĩ, nên nhận thức bồ tát có hai sắc thái. Sắc thái thứ nhất là ưa thích văn từ hay ho. Sắc thái thứ hai là không e ngại ý nghĩa sâu xa mà lại chính xác nhập vào. Ưa thích văn từ hay hobồ tát mới tu học. Một cách không e ngại, nhập vào kinh pháp sâu xa và không nhiễm trước như thế này, nghe rồi thì tâm trí thanh tịnh, tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, thuộc lòng, làm đúng kinh dạy, thì nên nhận thức họ là bồ tát tu học đã lâu. Di lạc đại sĩ, lại có hai điều nữa gọi là người mới tu học, không thể quyết định đối với kinh pháp sâu xa này. Ấy là một, đối với kinh pháp sâu xa này, chưa nghe thì nghe rồi kinh hoảng, hoài nghi, không thể thuận theo, phỉ báng, không tin, và phát ngôn rằng kinh pháp này tôi chưa nghe nói đến bao giờ, từ đâu mà có ra đây. Hai, gặp người hộ trìgiải thích kinh pháp sâu xa này thì không những không chịu thân gần, tôn kính, phụng sự, mà có khi còn công kích. Có hai điều như vậy thì biết đó là bồ tát mới tu học, tự thương tổn, không thể thuần hóa tâm mình trong kinh pháp sâu xa này. Di lạc đại sĩ, lại có hai điều nữa, bồ tát tuy tin hiểu kinh pháp sâu xa này mà vẫn tự thương tổn, không thể thực hiện vô sinh pháp nhẫn. Hai điều ấy, một là khinh dễ bồ tát mới tu học mà không giảng giải cho họ, hai là tin hiểu kinh pháp sâu xa này mà lại phân biệt, chấp trước.

Di lạc đại sĩ nghe đức Thế tôn dạy như vậy thì thưa Ngài, bạch đức Thế tôn, thật là chưa từng có. Như đức Thế tôn đã huấn dụ, con sẽ tránh xa những điều bất thiện như vậy, kính giữ pháp vô thượng bồ đềđức Thế tôn đã tập hợp trong vô số kiếp. Trong thì vị lai, thiện nam hay thiện nữ nào tìm cầu đại thừa, thì con sẽ làm cho chính tay của họ có được kinh pháp này. Con sẽ đem lại cho họ sức mạnh ký ức, làm cho họ tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, thuộc lòng, loan báo và giải thích rộng rãi. Bạch đức Thế tôn, sau này, trong thời kỳ cuối cùng của Phật pháp, nếu có ai có khả năng tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, thuộc lòng, loan báo và giải thích về kinh pháp này, thì nên nhận thức toàn là thần lực Di lạc xây dựng. Đức Thế tôn dạy, tốt lắm, Di lạc, tốt lắm; như lời đại sĩ nói, Như lai tùy hỷ cho đại sĩ.

Các vị bồ tát khác cũng chắp tay mà thưa Phật, bạch đức Thế tôn, sau khi Ngài nhập diệt, chúng con cũng lưu hành kinh pháp vô thượng bồ đề này trong mọi thế giới. Chúng con lại mở mắt dắt đường cho những người thuyết pháp có được kinh pháp này.

Lúc ấy bốn vị Thiên vương cũng thưa Phật, bạch đức Thế tôn, bất cứ chỗ nào, thành thị hay thôn xóm, núi rừng hay đồng nội, ở đâu có cuốn kinh pháp này, có người nghiên cứu và thuộc lòng, loan báo và giải thích, thì chúng con sẽ huy động thuộc hạ của chúng con, vì nghe pháp mà đến chỗ ấy, hộ trì người ấy, làm cho trong phạm vi một trăm do tuần, không một ai rình được cơ hội thuận tiệntác hại.

Bấy giờ đức Thế tôn dạy tôn giả A nan, tôn giả hãy tiếp nhận kính giữ kinh pháp này, lưu hành rộng rãi. Tôn giả A nan thưa Phật, dạ, bạch đức Thế tôn, con nguyện tiếp nhận và kính giữ kinh pháp chính yếu này. Bạch đức Thế tôn, kinh pháp chính yếu này nên mệnh danh là gì? Đức Thế tôn dạy tôn giả A nan, kinh pháp chính yếu này tên là Trưởng giả Duy ma tuyên thuyết, cũng tên là Pháp môn giải thoát bất khả tư nghị. Tôn giả hãy tiếp nhận và kính giữ như vậy.

Khi đức Thế tôn tuyên thuyết hoàn tất kinh pháp này, thì trưởng giả Duy ma, đại sĩ Văn thù, tôn giả Xá lợi phất, tôn giả A nan, v/v, cùng với chư thiên, nhân loại, tu la, tất cả đại hội nghe những điều đức Thế tôn tuyên thuyết, ai cũng rất hoan hỷ, tin tưởng, tiếp nhậnphụng hành.

22.10.2535


Viết Tắt

La : La thập

Huyền : Huyền tráng

Triệu : Tăng triệu

Cơ : Khuy cơ


Ghi Chú

Ghi Chú (1)

Triệu giải: đại trínhất thế chủng trí, bản hạnh của đại trílục độ, lục thông. Huyền dịch: nghiệp đại thần thông.

 

Ghi Chú (2)

Thiên đế thích hay Đế thích.

 

Ghi Chú (3)

Nói rõ là chánh định tụ: người đã chắc chắn thuộc nhóm đã theo chánh pháp - Trái lạità định tụ.

 

Ghi Chú (4)

Đọc niệm xử (= niệm trú) đúng hơn.

 

Ghi Chú (5)

Huyền dịch: khéo nói mật ý.

 

Ghi Chú (6)

Tham khảo Huyền dịch mà dịch. Nếu theo Triệu giải thì chỉ là tham gia tư pháp.

 

Ghi Chú (7)

La giải: không phải như nội quan của Tàu, mà ở Ấn độ dùng những người nhiều đời trung lương, kỳ cựu và có đức để làm nội quan dạy bảo cung nữ.

 

Ghi Chú (8)

Sinh mệnh (thọ, thọ giả tướng), tái sinh (bổ đặc dà la: nhân, nhân tướng).

 

Ghi Chú (9)

Động lực (phong đại, động).

 

Ghi Chú (10)

La giải: là giếng khô trên gò. Xưa có tội nhân chạy trốn, bị cho voi say đuổi theo. Cấp bách quá, người này nhảy xuống giếng khô. Lưng chừng giếng có 1 cái giây cỏ mục, người ấy nắm lấy. Dưới có rồng độc ngước lên, ngang người có 5 rắn độc muốn cắn. Lại có 2 con chuột gặm nhấm giây cỏ mục. Giây cỏ sắp đứt, voi say đã đến ở trên. Nguy khốn cùng cực như vậy thì trên giếng có cây, từ cây ấy rơi xuống những giọt mật, vào miệng người ấy: người ấy quên cả nguy khốn. Giếng là sinh tử. Voi say là vô thường. Rồng độc là đường dữ, 5 rắn độc là 5 uẩn, giây cỏ mục là sinh mệnh, 2 con chuột là ngày tháng, những giọt mật là ngũ dục. Huyền dịch và Cơ giải: như cấp bậc xuống giếng. Ấn độ xưa làm giếng, xoi giếng đặt ván làm cấp bậc để xuống lấy nước. Cấp bậc ấy rất dễ hỏng.

 

Ghi Chú (11)

Chính văn là đệ tử. Thanh văn là nghe tiếng nói của Phật mà ngộ đạo, vậy thanh văn chính nghĩađệ tử.

 

Ghi Chú (12)

Sinh thể: chúng sinh. Sinh mệnh: thọ mạng. Tái sinh: nhân.

 

Ghi Chú (13)

La giải: tiếp xúcchứng đắc.

 

Ghi Chú (14)

Huyền dịch: đem pháp tánh bình đẳng vô gián mà nhập giải thoát.

 

Ghi Chú (15)

Có bản chép thêm: không không thủ đắc đaÍo quả.

 

Ghi Chú (16)

Dám xuất gia trong ngoại đạo, với sự hết lòng hóa cải cho họ.

 

Ghi Chú (17)

Nói tổng quát, đây là những nghịch hành mà có khi vì sự ích lợi chúng sinhPhật pháp buộc phải làm như vậy.

 

Ghi Chú (18)

Phi thời ở đây là công hạnh chưa đủ mà mong kết quả có được, là chưa cùng cực 3 giải thoát mônnửa đường thủ chứng. La giải và Triệu giải như vậy.

 

Ghi Chú (19)

La giải là cái mừng được thiền định và cái mừng chứng thật tướng.

 

Ghi Chú (20)

Dịch sát chính văn là không nói tội nhập vào quá khứ. La giải và Triệu giải : không nói tội thường còn, di chuyển từ vị lai đến hiện tại, từ hiện tại vào quá khứ. Huyền dịch đơn giản: không nói tội có di chuyển.

 

Ghi Chú (21)

La giải: pháp là thường lạc ngã tịnh của vọng tưởng. Bịnh là vọng tưởng. Nói không có pháp ấy, không có nghĩa pháp ấy có mà làm cho không đi, mà là không đi, trừ khử đi cái vọng tưởng.

 

Ghi Chú (22)

Phan duyên (níu vin) là mô tả sự biết.

 

Ghi Chú (23)

Triệu giải: chưa thâm nhập thật tướng, thấy có chúng sinh (kiến) mà sinh yêu thương (ái).

 

Ghi Chú (24)

Vòng (luân) chính nghĩa là bánh xe, nhưng có lẽ dịch là vòng thì đúng hơn. Tôi không rõ kyՠthuật làm gốm, nên không rõ dụng cụ và cách sử dụng dụng cụ này. Cũng không có giải thích nào rõ ràng. Đại khái đó là dụng cụ trong tay phải của người thợ gốm, xoay rất nhanh, phóng ra lại trở lại.

 

Ghi Chú (25)

Đúng chính văn, và tham chiếu Huyền dịch, thì phải dịch "chịu nổi". Nhưng tôi muốn chuyển ý nên dịch "làm được".

Ghi Chú (26)

Chính văn là Phật đạo. Danh từ này có nghĩa là tuệ giác của Phật, là đường đi của Phật... Tôi lấy nghĩa thứ hai, vì hợp với văn ý của phẩm này hơn. Huyền dịch là bồ đề phần, tức giác phần, quá xa văn ý phẩm này. Nhưng câu mở đầu, Huyền dịch: Lúc ấy ngài Diệu cát tường hỏi ngài Vô cấu xưng, bồ tát làm sao trong Phật pháp đến được nẻo đường rốt ráo? Ngài Vô cấu xưng thưa, nếu bồ tát đi theo nẻo đường không nên đi thì trong Phật pháp mới được rốt ráo. Chính lời dịch này cho thấy cái đề Phật đạo xác đáng hơn, và đề ấy dịch là đường đi của Phật hơn là dịch tuệ giác của Phật.

 

Ghi Chú (27)

La giải: là được vô sinh pháp nhẫn.

 

Ghi Chú (28)

Triệu giải: là các đạo giáo. Chính văn là chư đạo, có thể hiểu và dịch là các đường sinh tử, là các đạo giáo. Tôi chọn nghĩa thứ nhất.

 

Ghi Chú (29)

Huyền dịch: chân lý.

 

Ghi Chú (30)

La giải: không bẩn nhưng tắm cho mát (cho hết chướng ngại).

 

Ghi Chú (31)

Chính văn là nhất tâm. Huyền dịch là bồ đề tâm, chính xác hơn nên tôi chọn.

 

Ghi Chú (32)

Huyền dịch: ý thích siêu việt (thắng ý lạc).

 

Ghi Chú (33)

Huyền dịch: lấy sự sống trong sạch mà làm chăn gối.

 

Ghi Chú (34)

3 chỉnh cú 24 - 26 này là nói về tam tai: đao binh, tật dịch, cơ cẩn. (chiến tranh, nhiễm độc, nhân mãn).

 

Ghi Chú (35)

Số lượng = các hành, đối chiếu Huyền dịch mà biết như vậy.

 

Ghi Chú (36)

8 pháp này phân theo Huyền dịch.

 

Ghi Chú (37)

Triệu giải: thiền định tuy vui nhưng ở yên trong ấy thì đại đạo bất thành, nên thấy như địa ngục. La giải: Thiền định có 3: của đại thừa, của nhị thừa và của phàm phu. Phàm phu thì ngã mạn, nhị thừa thì tự lợi, toàn là phá hoại đạo căn vô thượng, nên bồ tát coi như địa ngục.

 

Ghi Chú (38)

Thái hư giải: là hoặc, nghiệp, khổ.

 

Ghi Chú (39)

Chính văn là Vô động. Vô động cũng dịch là Bất độngphổ thông hơn.

 

Ghi Chú (40)

Coi lại ghi chú 24 .

 

Ghi Chú (41)

Đoạn này là phụ lục 3 của bản dịch Pháp hoa của tôi, nhưng phụ lục 3 ấy là trích Pháp hoa bản Tấn dịch (Chính 9/99-100).
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11085)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16457)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11908)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12093)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12793)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12739)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10235)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13970)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10238)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13706)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16271)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11969)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12980)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11662)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12682)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10800)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11001)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10946)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11901)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12770)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11068)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12622)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11329)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12518)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14111)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10853)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10524)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11197)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12006)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13157)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12352)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15345)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14332)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12098)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15371)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12004)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12415)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11186)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12087)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10618)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12557)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13176)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14844)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12689)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16580)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19669)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12268)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13527)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11957)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11639)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12769)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14523)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12614)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13627)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12898)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 18019)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11167)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12182)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13052)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant