Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

5. Bản Chất Của Chân Như

09 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 6643)
5. Bản Chất Của Chân Như

ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN
(大乘起信論; S. Mahāyāna Śraddhotpāda Śāstra)
Thích Nhật Từ
(Bài dạy tại lớp Cao Đẳng Phật học TP.HCM, khoá IV-2005)

BÀI 5: 
BẢN CHẤT CỦA CHÂN NHƯ

 

I. ĐẠI Ý

Chân như của mọi sự vật vượt ra ngoài mọi giả định của ngôn ngữ, tự loại và tâm chủ quan của con người. Chỉ có thông qua cái nhìn quán chiếu, con người mới có khả năng vượt thoát khỏi các lớp màn giả định và mặc ước phủ trùm lên bản chất của thực tại. Lúc ấy, ngôn ngữ không còn là một trò chơi hý luậnthái độ nhận thức của con người không còn là tư duy phân biệt chủ quan. Hành giả nhờ đó vượt thoát khỏi mọi chấp thủ, không còn sung đột, loại trừ, tranh chấp; sống vững chải và an lạc.

II. NGUYÊN VĂN

Phần giải thích [giáo nghĩa đại thừa] bao gồm ba phương diện:[1] 1) Trình bày giáo nghĩa chân thật,[2] 2) Phủ định[3] các tà chấp, 3) Phân tích[4] và thực hành chánh đạo.[5]

1. Trình bày giáo nghĩa chân thật

Tâm này có hai phương diện:[6] phương diện chân như của tâm và phương diện sinh diệt của tâm. Cả hai phương diện này đều chứa đựng tất cả các hạt giống,[7] vì chân nhưsinh diệt tương thuộc vào nhau[8] và không tách rời khỏi nhau. 

Chân như của tâm chính là tính tổng thể bao hàm[9] thế giới hiện tượng (pháp giới), cũng là “thể” của giáo pháp Phật.[10] 

Tính chất của tâm[11] vốn không sanh, không diệt. Chỉ vì chạy theo vọng niệm phân biệt[12] nên thấy mọi sự vật hiện tượngsai biệt.[13] Nếu dứt trừ được vọng niệm[14] sẽ không còn ý niệm về tướng trạng của cảnh giới sai khác. 

Vì thế, bản chất của mọi sự vật hiện tượng từ xưa đến nay vốn không hạn cuộc trong ngôn ngữ,[15] không hạn cuộc trong ngôn từ diễn tả,[16] không hạn cuộc trong tầm nhận thức của tâm,[17] tuyệt đối đồng nhất,[18] chưa từng bị biến dị và mất đi vĩnh viễn.[19] Tâm thể đồng nhất đó được mệnh danh là chân như

Bởi lẽ tất cả ngôn ngữngôn từ mô tả có mặt là do mặc định của vọng niệm phân biệt nên chỉ giả có, chứ không thực có. Cái gọi là chân như vốn không có tướng trạng, mà chính là chỗ tột cùng của ngôn thuyết[20] có chức năng loại bỏ ngôn thuyết bằng ngôn thuyết.[21] 

Trong bản thể của chân như không có gì bị loại trừ và cũng không có gì được thêm vào,[22] vì bản chất của mọi sự vật hiện tượng đều chân thật như vậy. Nên nhận thức rằng[23] mọi sự vật hiện tượng không thể diễn tả,[24] [chính xác được], không thể phân biệt,[25] [chính xác được], nên gọi là chân như.

Hỏi: Theo ý nghĩa vừa trình bày, làm thế nào con người có thể thể nhập[26] được chân như?

Đáp: Nên biết rằng dù diễn tả mọi sự vật hiện tượng nhưng vốn không thực có chủ thể diễn tả (năng thuyết) và đối tượng diễn tả (khả thuyết);[27] dù có phân biệt nhưng vốn không thực có chủ thể phân biệt và đối tượng phân biệt.[28] Đó là tuỳ thuận. Chỉ cần lìa tất cả ý niệm phân biệt chủ quan thì được gọi là thể nhập chân như.[29] 

III. NHẬN XÉT

1. Đây là phần khá quan trọng, giải thích rõ ràng giáo nghĩa của đại thừa đã được giới thiệu bao quát ở phần xác lập giáo nghĩa. Phần giải thích này được trình bày với ba phương diện: a) Trình bày giáo nghĩa chân thật (hiển thị chánh nghĩa): giải thích rõ hai phương diện của đại thừa là pháp đại thừa và nghĩa đại thừa được nêu trong phần xác lập giáo nghĩa. b) Phủ định các tà chấp (đối trị tà chấp) giới thiệu các phương pháp tháo gỡ toàn bộ các thái độ chấp trước về phương diện nhận thứchành trì. c) Thực hành chánh đạo: giới thiệu thú hướng của chánh đạo với các cách thức phát tâmhành trì cụ thể, giúp hành giả đạt được an lạc. Trong bài học hôm nay, chúng ta chỉ khảo sát một phần của mục trình bày giáo nghĩa chân thật.

Trong đoạn văn trên, tổ Mã Minh đã giải thích lại một cách vắn tắt về hai phương diện của tâm, đó là chân nhưsinh diệt, hay bản thểhiện tượng. Nói đến hai phương diện của tâm là nhằm xác định tính chất tương tức và tương thuộc của mọi sự vật hiện tượng đối với bản thể của nó. Một bên tịnh một bên nhiễm, một bên nội hàm một bên ngoại diên, cùng có chức năng chứa đựng các hạt giống nhiễm và tịnh của tính cách, thiện và ác. Chân như thuộc về cảnh giới tuyệt đối, trong khi sinh diệt thuộc về thế giới tương đối. Bản thể tuyệt đối thì vốn vắng lặng, tịch tĩnh, vốn vượt lên trên mọi ngôn ngữ, danh ngôn và chủ thể tư duy chủ quan. Thế giới hiện tượng thì thiên sai vạn biệt, tuỳ thuộc theo duyên, lệ thuộc vào ngôn ngữ mô tả. Nhiễm và tịnh tuy hai phương diện khác nhau nhưng cùng hỗ tương và không tách biệt khỏi nhau. 

Có thể phân thành hai loại chân như chính. Chân như của tâm và chân như của mọi sự vật hiện tượng còn lại. Mỗi con người và mọi sự vật hiện tượng đều có chân như riêng. Chân như của mọi sự vật hiện tượng chính là bản chất như thật, không biến thiên, không dị biệt, không thay đổi của chúng trong bối cảnh thời giankhông gian khác nhau. Hiểu được chân như của từng sự vật sẽ giúp cho hành giả không bị phương diện hình thức của con người và sự vật lừa dối; nhờ đó, con người sẽ thái độ ứng xử rất phù hợp với tinh thần không chấp thủ.

2. Khởi Tín Luận đề cập đến vọng niệm, còn được gọi tắt là “niệm,” như trạng thái phân biệt hay tư duy nhị nguyên mang tính chủ quan (subjectivity). Có khi được dịch là phân biệt, tức tâm nhị nguyên đối đãi. Vọng niệmthái độ chủ quannhị nguyên (dualistic) của tâm. Đây là cách nhận thức không đặt trên nền tảng của chân như, đầu mối của các học thuyết, triết họctôn giáo mang tính đối đãi. Thỉnh thoảng trong văn mạch, từ này được dịch là vọng niệm phân biệt, để giúp người đọc dễ nắm bắt được nội dung của cách nhận thức sai lầm này. Vọng niệm chính là ý thức cá biệt hoá (particularising consciousness), phân định và tách rời cái A khỏi những cái phi A; đồng thờiý thức nhị nguyên trong lòng thực tại.

Tác hại của vọng niệm đối với đời sống là điều mà chúng ta không thể không lưu tâm. Người sống với tâm vọng niệm thường có cái nhìn và thái độ so đo, tính toán, hơn thua. Khi ý thức về cái cá biệt trong mọi sự vật hiện tượng được duy trì, tâm con người dễ dàng bị chấp trước. Lúc ấy, trạng thái an tịnh của tâm sẽ không còn nữa, ngược lại thay vào đó là tâm lý về cái cá biệt gia tăng, ảnh hưởng xấu đến cung cách hành xử của con người

Về phương diện tâm lý giao tiếp, ý thức về sự cá biệt quá nhiều (tức sự nắm giữ tướng riêng trong kinh Pali) sẽ có khả năng dẫn đến và tạo ra thái độ đam mê giới tính và chấp thủ dục lạc thấp kém. Trong hành trì, thái độ này sẽ còn làm phát sinh các thái độ phân biệt đối xử trên nền tảng của màu da, sắc tộc, giới tính, tuổi tác, vị trí xã hội, và thân phận bệnh tật hay khoẻ mạnh của con người. Về phương diện nhận thức luận, các hình thức chủ nghĩa vùng miền, tông phái, giáo phái, hệ phái, phe phái, đảng phái đều phát sinh và được nuôi dưỡng bởi ý thức về sự cá biệt

Chỉ khi nào hành giả không còn nhìn đời bằng con mắt của vọng tưởng phân biệt, lúc đó sự thiên sai vạn biệt trong chủng loại, con người, giới tính, ngôn ngữ, cách thức ứng xử sẽ không còn là sự khác biệt như chúng đã, đang và sẽ còn bị mặc định trong tư duy phân biệt đối xử. Cái nhìn không phân biệt đối xử sẽ góp phần thiết lập một thế giới đại đồng, trong đó, tất cả thành viên sống với tinh thần tự nguyện tương thân và tương trợ lẫn nhau.

3. Đừng tưởng rằng chỉ có ngôn ngữ là cửa ngỏ duy nhất của truyền thông giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên. Sự truyền thông theo Phật giáo có thể được thiết lập ngay cả khi con người không sử dụng ngôn ngữ, dù là ngôn ngữ của nước nào hay ngôn ngữ của quốc tế. Có những tình huống biểu cảm đặc biệt, ngôn ngữ trở nên nghèo nàn và bất lực, càng mô tả càng làm cho người tư duy trở nên rối rắm. Lúc ấy, con người có thể biểu đạt chân như đó bằng nhiều cách khác nhau. Có thể truyền thông bằng biểu đạt của tay, chân, nói chung ngôn ngữ thân thể. Nói một cách khác là đừng bao giờ áp đặt vào ngôn ngữ một thuộc tính với những chức năng không bao giờ thay đổi. Chúng ta có thể tiếp xúc trực tiếp với trời xanh mây trắng mà không cần thông qua trung gian hay sự giúp đỡ của các nhà văn, nhà thơ, hoạ sĩ và người kể chuyện. Chỉ cần mở mắtmở lòng ra để quan sát, chúng ta sẽ tiếp xúc được chân như của nó. Lúc đó, tất cả những gì thuộc về nhân tạogiá trị nhân tạo sẽ không còn là thước đo bản chất của các giá trị thực tại đang diễn ra. 

4. Đừng nghĩ rằng các từ loại trong các ngôn ngữ của nhân loại đóng vai trò cố định như trong ngữ pháp, cố định đến độ chúng không thể được quyền có nghĩa khác trong cùng một ngữ cảnh hay nhiều ngữ cảnh văn phạm khác nhau. Triết học văn phạm của con người được đặt trên nền tảng của logic từ loại. Sẽ là một sai lầm nếu chúng ta đánh đồng hay đẳng thức hoá logic với chân lý. Cái chân lý về bản chất (chân như) của mọi sự vật không lệ thuộc hay nhất thiết phải tỉ lệ thuận với logic mô tả của ngôn ngữ, dù là của ngôn ngữ toán học hay ngôn ngữ của văn phạm học. Chân lý thực tại của sự vật không bị hạn cuộc và vượt lên trên logic của ngôn từ. Đó là chưa nói đến tình trạng từ loại của ngôn từ đã bị thay đổi khi trật tự từ ngữ đã bị thay đổi.

5. Các phán đoánlý luận dựa vào hay chạy theo đối tượng của tâm (tâm duyên) sẽ thường kéo theo các sai lầm về hình thức lẫn nội dung. Cơ sở của sự kéo theo ở đây thường bắt nguồn từ tâmliên tưởngkinh nghiệm suy luận “không A thì B,” chẳng hạn, cái gì “không trắng thì đen.” Chân như của mọi sự vật và hiện tượng vốn tồn tại khách quan và không bị hạn cuộc trong sự suy luậnnhận thức chủ quan của con người tư duy. Do đó, các mặc định hay áp đặt tính giá trị sử dụng lên trên sự vật đều không phản ánh đúng được bản chất của sự vật. Nói cách khác, giữa sự vật và các mô tả về chúng, tiêu cực hay tích cực, chủ quan hay khách quan, đều không phải là đồng nhất. Đánh đồng vật được mô tả qua tâm suy diễn, tâm liên tưởng, tâm so sánh v.v… với bản chất thật của sự vật là một sai lầm lớn mà hành giả cần phải tránh. 

Thái độ ứng xử này giúp cho con người có cái nhìn vô cùng chí công vô tư, không thiên vị, không ủng hộ và tán đồng theo tiếng nói của con tim. Với thái độ nhận thức mọi sự vật theo công thức chân như “ly tâm duyên tướng” hành giả sẽ không bị tác động của những lời khen và tiếng chê ảnh hưởng đến khuynh hướng và lý tưởng cuộc sống. 

6. Khi thực tập và hành xử với thái độ ly tâm duyên tướng trong khi nhận diện chân như của mình và người khác, chúng ta sẽ tránh được các tình trạng thành kiếnmặc cảm, dẫn đến tình trạng phân hoá, mất đoàn kết. Ngôn ngữ của con người rất nghèo nàn và khô khan, không thể diễn tả đúng được bản chất của mọi sự vật hiện tượng đang là. Nỗ lực lớn nhất của ngôn ngữ là sao chụp lại bóng dáng của thực tại, chứ không phải là bản thân thực tại.

Cũng cần nói thêm rằng mặc dù vốn không lệ thuộc và hạn cuộc vào ngôn ngữ, từ loại, các phương thức biểu đạt và sự nhận thức chủ quan của tâm, bản chất chân như của một sự vật dù trải qua nhiều biến thiên của hình thái và điều kiện vẫn tuyệt đối đồng nhất, không hề phải chịu quy luật thay đổi từ hình thức sang nội dung. Cái như thị của chân như muôn đời vẫn thế, chưa từng bị biến dịch, chưa từng bị mất một cách vĩnh viễn. Chính nhờ vào chân như này, chúng sinh phàm phu dù bị trôi lăn trong ba cõi sáu đường vẫn không hề mất đi tiềm năng giác ngộ. Dựa theo đặc điểm này, các hành giả không nên để tâm chìm vào sự mặc cảm, khi thấy mình hiện tại thua kém sự siêu việt của các bậc thánh. 

7. Sự có mặt của ngôn ngữ trong xã hội loài người là một bước tiến rất quan trọng mà các loài vật khác không thể nào có được. Nhờ sự ra đời của ngôn ngữ, con người có thể thiết lập các phương tiện truyền thông, trao truyền cho nhau kiến thứckinh nghiệm để tồn tại, phát triển và sống tốt. Bản chất của ngôn ngữ không thể phản ánh đúng như thực chân như của mọi sự vật. Ngôn ngữ chỉ là nhịp cầu giữa sự vật và sự biểu đạt. Sự biểu đạt đúng phương pháp sẽ có thể phản ánh phần nào bản chất của sự vật. Sự phản ánh sai phương pháp sẽ làm cho con người không thể nhận thức được đối tượng cần khảo sát. Do vậy, chức năng của ngôn ngữ chỉ là giả lập. Chấp ngôn ngữbản chất của sự vật chẳng khác nào cho rằng ngón tay là mặt trăng.

8. Chức năng của học thuyết chân như là loại trừ thái độ chấp mắc ngôn thuyết bằng chính bản thân của ngôn thuyết, tương đương với Kinh: “dĩ huyễn độ huyễn.” Thiền tông chủ trương: “không lập văn tự” nhưng trên thực tế lập nhiều văn tự nhất để phá chấp. Như vậy chức năng của sự giả lập và vay mượn ngôn ngữ là nhằm tháo gỡ các thái độ chấp trước vào ngôn ngữ trong văn học, trong giao tế và đối tác.

Bản chất chân như của mọi sự vật hiện tượng không chỉ không lệ thuộc vào ngôn ngữ, tự loại biểu đạt, hệ thống mặc ước và giả định của ngôn ngữvăn phạm, không có mối liên hệ tất yếu với nhận thức chủ quan, mà còn không bị hạn cuộc trong bất kỳ tướng trạng và hình thái nào của sự vật. Có một sự vật khoác lên nó nhiều hình thức khác nhau, nhưng chân như của chúng vẫn là một, không tăng không giảm. Ví dụ, một người giàu có, yêu chuộng thời trang, có hàng trăm bộ quần áo, mỗi lần ăn vận và thay đổi y phục thời trang không có nghĩa là y đã trở thành một người khác. Chân như của y vẫn như cũ. Kẻ ăn trộm có thể ăn cắp áo long bào và khoác vào thân thể nhưng không vì thế mà anh trở thành vua. Chân như của kẻ ăn mày vẫn như vậy, không hơn không kém. Còn ông vua mặc áo ăn xin vẫn là ông vua đáng kính. Các hình thức khoác lên thực tại không làm cho thực tại đó biến dạng. Mặc dù thế, chân như của thực tại đó vẫn y nguyên, không biến đổi. Phim ảnh và kịch là những ví dụ điển hình về nhiều hình thức đã được khoác lên chân như của một con người với nhiều vai diễn rất khác nhau, làm cho người thưởng thức tưởng chừng như sự kiện thực đang được diễn ra. Sự đánh đồng tính cách của nhân vật trong phim, truyện, kịch với tính cách của các diễn viên đóng các vai đó quả chẳng khác nào đánh đồng bức tranh vẽ về mùa xuân chính là bản thân mùa xuân

9. Theo học thuyết chân như, tất cả cái giả lập chỉ đóng chức năng công cụ, do đó, cần phải được tháo gỡ đi. Bám vào các mô tả giả lập về chân như rồi đánh đồng chúng với chân như thật là một điều cần tránh, vì bằng không ta sẽ rơi vào tình trạng “bỏ giả chấp thật.” Mà hễ là chấp thì tâm không thể đạt được trạng thái vững chải và thong dong được. Mặc dù biết ngôn ngữgiả lập của con người; để cho con người thấy được cái giới hạn của giả lập này phải vận dụng ngôn ngữ tháo gỡ để mở toang cánh cửa thực tại. Cho nên chân như theo ngài Mã Minh là chỗ cùng tột của ngôn ngữ, tinh hoa nhất của truyền thông về bản chất của thực tại như thị. Mượn cái tinh hoa và cùng tột của ngôn ngữ để tháo gỡ các chấp thủ về ngôn ngữ là điều cũng nên làm. Giống như chúng ta vẫn biết rằng các bậc thang của từng tầng lầu không phải là chiều cao của lầu, cũng không phải chính là các tầng lầu, nhưng nếu không nương vào các bậc thang của tầng 1, tầng 2 v.v… thì vĩnh viễn chúng ta không thể lên đến bậc thang cuối cùng của tầng lầu cuối cùng của ngôi nhà nhiều tầng. Để vào được tầng cuối của toà nhà cao từng, ta phải mạnh dạn rời khỏi vị trí của từng bậc thang. Phải bỏ bậc thang 1 thì mới lên được bậc thang 2 và bậc thang cuối cùng

Nương vào giả lập của ngôn ngữ để hiện thị giáo nghĩa của chân như cũng là một cách giả lập. Mượn ngôn ngữ để xoá đi cái chấp về ngôn ngữ trong truyền thông và giao tế cũng lại là một cái giả lập khác. Trong thế giới tương đối, không thể tìm kiếm sự tuyệt đối. Do đó, giả lậpcần thiết. Vấn đề chính yếu ở chỗ là sau khi đạt được giá trị tháo gỡ giả lập thì chính cái phương tiện tháo gỡ đó cần phải được loại trừ luôn thể. Tương tự, chân nhưhọc thuyết nhắm đến sự tháo gỡ chấp thủ một cách tuyệt vời nhất. Cần phải buông luôn phương tiện giả lập của chân như qua ngôn ngữ biểu đạt, lúc đó hành giả mới thật sự không còn bị chấp trước, từng bước đạt được trạng thái giải thoát

Phát biểu “dùng độc trị độc” là một trong những mô thức điển hình của việc sử dụng ngôn ngữ để loại trừ ngôn ngữ phá chấp. Nói đến chân như là nói đến tính chất phi lưỡng phân và nhị nguyên của ý thức phân biệt trước mọi sự vật hiện tượng. Sử dụng ngôn ngữ của chân như là nhằm xoá bỏ các chấp trước ngôn ngữ trên cơ sở của mặc định.

10. Đứng từ phương diện sinh diệt hay thế giới hiện tượng, chúng ta thấy mọi sự vật bị biến dị theo quy luật “thành trụ dị không” hay “sinh lão bệnh tử” nhưng đứng từ mặt chân như hay bản thể của sự vật, không thể có gì được thêm vào, hay có cái gì đó bị loại trừ, vì bản chất của mọi sự vật đều không tăng và không giảm.

Học thuyết chân như dạy chúng ta cách tiếp cận, nhận định, đánh giá một sự vật đúng với bản chất như thị của chúng. Hành giả của thuyết chân như không thể suy đoán theo công thức loại suy hay quy nạp: “hư hư thực thực.” Trên thực tế có thể có trường hợp hư là thực và thực là hư, tuỳ theo chân như của từng tình huống. 

Nói tóm lại, theo ngài Mã Minh, trong bản thể của sự vật, chỉ có sự diễn tả, trình bày, biểu đạt ngôn ngữ như một hành vi đang diễn ra, chứ không thật có chủ thể diễn tả và đối tượng diễn tả. Tương tự, dù có hành động nhận thức phân biệt nhưng vốn không thực có chủ thể phân biệt và đối tượng phân biệt. Nếu hành giả nhận thức được như vậy thì lo gì không thể nhập được chân như.

IV. CHÚ THÍCH THUẬT NGỮ

Chủ thể diễn tả (能說): tác nhân sử dụng ngôn ngữ để trình bày, biểu đạt, diễn tả một sự vật nào đó. Tính cách biểu đạt và phát ngôn chỉ tồn tại trong thế giới hiện tượng, nơi mà theo đó, mọi sự vật được khảo sát dưới lăng kính của nhân duyên. Theo đạo Phật, tác nhân diễn tảsử dụng ngôn ngữvô ngã nên nó không thực hữu dưới lăng kính chân như.

Đối tượng diễn tả (所說): tất cả nội dung được chủ thể diễn tả biểu đạt và trình bày. Đối tượng được diễn tả thường được mổ xẻ dưới lăng kính chủ quan dưới ảnh hưởng của ý thức phân tích và óc nhị nguyên đối đãi. Ngôn ngữphương tiện sử dụng để trình bày đối tượng được diễn tả không nhất thiết thống nhất với bản chất như thị của đối tượng. 

Chủ thể tư duy (能念): tác nhân nhận thức, tư duy, nhận biết, đánh giá, phán đoán sự vật. Tác nhân này thường được nhận lầm là một thực thể bản ngã bất biến, nhưng trên thực tế chỉ là một tập hợp vô ngã của dòng cảm xúc, ý niệm hoá và nhận thức phân biệt, giống như thân thể vật lý chứa đựng nó. Nếu chủ thể tư duy được soi sáng bằng tuệ giác vô ngã thì các nội dung được nhận thức sẽ vượt thoát khỏi mạng lưới hữu ngã. Ngược lại, nếu không được soi sáng bằng tuệ giác vô ngã thì chủ thể này có thể là đầu mối của mọi chấp thủ trong đời.

Đối tượng tư duy (所念): tất cả nội dung tư duy của chủ thể nhận thức, bao gồm vật chất đến tinh thần, từ vật có thể hình dung, đặt tên, phân định cho đến những thứ không thể hình dung, không thể đặt tên và chỉ tồn tại giả định. Đối tượng tư duy có thể là sự vật trong quá khứ, hiện tạivị lai, có thể thực hữu hay phi thực hữu.

[1] Lương = Đường: “3 chủng” (三種) tức ba loại.

[2] Lương dịch là “chánh nghĩa” (正義); trong khi Đường dịch là “thật nghĩa” (實義).

[3] Lương = Đường: “đối trị” (對治).

[4] Lương = Đường: “phân biệt” (分別) tương đương với chữ “phân tích” trong văn học hiện đại.

[5] Dựa theo bản Đường “tu hành chánh đạo tướng” (修行正道相). Lương dịch: “phát thú đạo tướng” (發趣道相). 

[6] Lương = Đường: “chủng môn” (種門), có thể dịch thoátphương diện.

[7] Lương = Đường: “tổng nhiếp nhất thiết pháp” (總攝一切法).

[8] Đường: “triển chuyển” (展轉).

[9] Lương = Đường: “đại tổng tướng” (大總相), có nghĩa đen là “tính chất bao hàm nhất.”

[10] Nguyên tác toàn câu văn trong bản Lương: tâm chân như giả tức thị nhất pháp giới đại tổng tướng, pháp môn thể” (心真如者。即是一法界大總相法門體). Các cụm từ “nhất pháp giới” (一法界) và “pháp môn thể” (法門體) trong hai bản thống nhất.

[11] Lương: “tâm tánh” (心性), không có nghĩa là “tâm và tánh,” mà là “tính chất của tâm.” Bản Đường dịch rõ hơn “tâm bản tính” (心本性) tức “bản tính của tâm” hay “bản chất của tâm.”

[12] Lương: “y vọng niệm” (依妄念); Đường: “do vọng niệm” (由妄念). Vọng niệmthái độ chủ quan (subjectivity) và nhị nguyên (dualism) của tâm.

[13] Sai biệt là hình thái của cá thể, tách lập cái A với phi A hay B, C, D.

[14] Lương = Đường: “ly vọng niệm” (離妄念).

[15] Lương: “ly ngôn thuyết tướng” (離言說相). Đường dịch là “ly ngôn ngữ” (離語言).

[16] Lương: “ly danh tự tướng” (離名字相).

[17] Lương: “ly tâm duyên tướng” (離心緣相). Đường:”ly tâm phan duyên, vô hữu chư tướng” (離心攀緣無有諸相) có nghĩa là “không bị hạn cuộc trong tâm tìm kiếm đối tượng, cũng không có các tướng trạng.”

[18] Lương dịch: “tất cánh bình đẳng” (畢竟平等). Đường: “cứu cánh bình đẳng” (究竟平等).

[19] Lương = Đường: “vĩnh vô biến dị, bất khả phá hoại” (永無變異不可破壞).

[20] Lương: “ngôn thuyết chi cực” (說之極).

[21] Lương: “nhân ngôn khiển ngôn” (因言遣言).

[22] Lương: “thử chân như thể vô hữu khả khiển, dĩ nhất thiết pháp tất giai chân cố; diệc vô khả lập, dĩ nhất thiết pháp giai đồng như cố: (此真如體無有可遣。以一切法悉皆真故。亦無可立。以一切法皆同如故). Đường: “thể tính của chân như không có cái gì có thể loại trừ và không có cái gì có thể dựng lập thêm” (非其體性有少可遣有少可立: phi kỳ thể tánh hữu thiểu khả khiển, hữu thiểu khả lập). Bản dịch tiếng Anh của Suzuki (p.57) gần với bản Lương hơn bản Đường: “In the essence of suchness, there is neither anything which has to be excluded, nor anything which has to be added.”

[23] Lương: “đương tri” (當知).

[24] Lương: “bất khả thuyết” (不可).

[25] Lương: “bất khả niệm” (不可念).

[26] Thể nhập là hiểu một cách tường tận và thấu đáo một sự vật.

[27] Lương: “vô hữu năng thuyết khả thuyết” (無有能說可說). Đường: “vô hữu năng thuyết sở thuyết” (無有能說所說).

[28] Lương: “vô năng niệm khả niệm” (無能念可念), có nghĩa là “không có người tư duy và cái có thể tư duy.” Đường: “vô năng niệm sở niệm” (無能念所念), có nghĩa là “không có người tư duy và đối tượng tư duy.”

[29] Đường dịch: “lúc ấy dù có tuỳ thuận vọng niệm phân biệt mà vẫn được gọi là đang ngộ nhập” (nhĩ thời tuỳ thuận vọng niệm đô tận danh vi ngộ nhập 爾時隨順妄念都盡名為悟入).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10986)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16315)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11775)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 11999)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12691)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12600)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10123)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13814)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10136)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13595)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16161)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11868)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12871)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11556)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12579)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10697)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10889)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10859)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11805)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12657)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 10979)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12516)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11230)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12423)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 13970)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10740)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10404)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11075)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11868)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13039)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12267)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14211)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11998)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15188)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11882)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11097)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12003)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10507)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13045)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12560)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16415)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19478)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13406)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11867)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11520)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12662)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14394)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12521)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12778)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 17882)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11052)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12091)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12938)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant