Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bài Thứ 5: Chương Di Lặc Bồ Tát

23 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 6773)
Bài Thứ 5: Chương Di Lặc Bồ Tát

PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành 1997
KHOÁ THỨ 8: KINH VIÊN GIÁC 

BÀI THỨ NĂM

V. CHƯƠNG DI LẶC BỒ TÁT

1. Ngài Di Lặc Bồ tát hỏi Phật
2. Phật khen ngài Di Lặc Bồ tát
3. Phật dạy: Ái và Dục là gốc rễ của sanh tử luân hồi
4. Phật trả lời câu hỏi: “Có mấy loại chúng sanh luân hồi?”
5. Bồ tát hiện thân, không phải do Ái dục, mà do lòng Đại biNguyện lực
6. Phật nói: có năm chủng tánh
7. Bồ tát thị hiện các hình tướng và cảnh thuận nghịch để nhập thế độ sanh
8. Chỉ nguyện thành Phật, không ở Nhị thừa và chớ gặp ngoại đạo tà sư.
9. Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên

1. Ngài Di Lặc Bồ tát hỏi Phật

Khi đó Ngài Di Lặc Bồ tát ở trong Đại chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật ba vòng và chấp tay kính cẩn, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi qùy thẳng bạch rằng:

-Bạch đức Đại bi Thế tôn, Ngài đã vì các vị Bồ tátĐại chúng, mở kho báu bí mật của Như Lai (Viên giác cảnh giới) và làm cho Đại chúng hiện tại cùng chúng sanh đời sau, được con mắt đạo sáng suốt không lo sợ, phân biệt được việc tà chánh, hiểu sâu lý luân hồi, đối với cảnh Đại Niết bàn (niết bàn Đại thừa) sanh lòng tin chắc chắn, không còn khởi các vọng chấp, trở lại cảnh giới luân hồi nữa.

Bạch đức Thế Tôn:

1. Các vị Bồ tátchúng sanh đời sau, làm sao đoạn được gốc rễ luân hồi, để vào biển Đại Tịch diệt của Như Lai?

2. Có mấy loại chúng sanh luân hồi?

3. Có mấy hạng người tu theo đạo Bồ đề của Phật?

4. Khi Bồ tát nhập thế độ sanh, phải dùng những phương tiện gì để giáo hóa chúng sanh?

Cúi xin đức Thế Tôn, rủ lòng đại bi cứu thế, chỉ dạy cho các vị Bồ tát hiện tạichúng sanh đời sau, khiến cho chúng sanh, gương lòng được sáng tỏ, mắt trí huệ trong xanh, viên ngộ được “Tri kiến vô thượng” của Như Lai.

Ngài Di Lặc Bồ tát thưa thỉnh như vậy ba lần, và kính cẩn lạy Phật rồi trở lui.

 

LƯỢC GIẢI

Vì trong chương Kim Cang Tạng, Phật dạy: “Trước phải đoạn gốc rễ của luân hồi từ vô thỉ”, nên chương này Ngài Di Lặc Bồ tát hỏi: “... Làm sao đoạn được gốc rễ luân hồi? VÀ có mấy loại chúng sanh luân hồi?”

Đại ý đoạn này Ngài Di Lặc Bồ tát hỏi:

1. Làm sao đoạn được gốc rễ luân hồi để vào biển Đại Niết Bàn của Như Lai?

2. Có mấy loại chúng sanh luân hồi?

3. Có mấy hạng người tu đạo Bồ đề của Phật?

4. Khi Bồ tát nhập thế độ sanh, phải dùng những phương tiện gì thể giáo hóa chúng sanh?

Biển Đại Tịch diệt. -Tức là Niết bàn của Đại thừa, rộng rãi bao la như biển cả, đã thanh tịnh mà yên lặng nên gọi rằng “Tịch diệt”. Đủ cả bốn đức là: Chơn thường, Chơn lạc, Chơn ngã và Chơn tịnh. Cũng là một cái tên khác Viên giác hay chơn tâm.

Đức Di Lặc Bồ tát. -Tiền thân: Trong vô số kiếp về trước, có Phật ra đời hiệu là Đại thông Trí Thắng Như Lai, lúc bấy giờ Ngài (đức Di Lặc) và đức Phật Thích Ca (tiền thân) đồng phát tâm Bồ đề. Đến khi đức Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh ra đời, thì Ngài mới phát tâm xuất gia nhưng tánh hay giải đãi, quen theo lối phong lưu đài các, phóng túng, chẳng chịu thúc liểm tu hành, nên thành Phật trễ sau đức Thích Ca, vào tiểu kiếp thứ mười.

Về sau nhờ đức Phật Thích Ca dạy cho pháp tu Duy thức, Ngài quán thấy “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”

nhận thấy giàu sang phú quý, danh vọng quyền tước... đều như bóng trong gương như trăng dưới nước, do thức tâm biến hiện, nên Ngài tảo trừ hết vọng tưởng say mê về hư vọng giả cảnh, trừ tánh “biến kế sở chấp” trên “y tha”, ngộ được tánh “viên thành thật” nên được Phật Thích Ca thọ ký cho Ngài sau sẽ thành Phậtthế giới Ta bà này.

Thân hiện tại của đức Di Lặc: Cách đây 2500 năm (544, trước T.L), khi Phật Thích Ca giáng sanh tại Ấn Độ, thì Ngài hiện thân vào nhà của Bà La Môn trên là Ba Bà Lợi ở về Nam Thiên Trúc, nhằm ngày mùng một tháng giêng âm lịch. Họ của Ngài là A Dật Đa (không ai hơn), tên Di Lặc (Từ Thị). Tên họ này tiêu biểu lòng từ bi, hỷ xả vô biên của Ngài. Từ bao nhiêu kiếp cho đến ngày thành Phật, Ngài cũng vẫn lấy hiệu là Di Lặc.

Kinh Di Lặc thượng sanh có nói: Ngày rằm tháng 2 (tháng 4 ta) sau khi nói kinh này 12 năm, thì Ngài nhập diệt tại chỗ bản sanh, rồi Ngài sanh lên nội viện cõi trời Đâu suất để chờ khi thế giới này giảm rồi tăn trở lại trong khoảng kiếp tăng, loài người hưởng thọ tám vạn tuổi, lúc bấy giờ Ngài mới giáng xuống cõi này, rồi sau đến ngồi gốc câyLong Hoa tu thành ngôi Chánh giác. Ngài thành Phật rồi hóa độ chúng sanh vô lượng đến sáu vạn năm mới nhập diệt.

Hóa thân của đức Di Lặc: Kinh chép “bồ tát dĩ lợi sanh vi bổn hoài”: Bồ tát lấy việc cứu độ làm lợi ích cho chúng sanh làm bổn phận của mình. Ngài hiện ra nhiều thân để lẫn lộn với từng lớp người đặng hóa độ chúng sanh. Trong các hóa thân của Ngài, các Phật tử ở Tàu cùng ở Việt nam hiểu nhiều và thờ nhiều hơn hết là thân Ngài Bố đại Hòa thượng. Ngài hiện thân làm một vị Hóa thượng tại đất Minh Châu huyện Phụng Hóa bên Tàu. Ngài thường quảy cái đãy bằng vải đi khắp chợ búa xóm làng, ai cho vật chi Ngài đều bỏ hết vào đãy mang đi. Ngài tụ họp các trẻ con lại, rồi phân phát cho chúng bánh kẹo, giảng dạy Phật pháp, trò chuyện rất vui thú, nên Ngài đi đến đâu thì các em tụ họp đông đảo đến đó.

Ngài thường giảng kinh cho người nghèo, làm nhiều điều mầu nhiệm lạ thường. Lúc bấy giờ thiên hạ không ai hiểu đặng NGài là người như thế nào cả, chỉ cùng nhau kêu là vị Bố Đại Hòa Thượng (ông hòa thượng mang đãy bằng vải). Đến đời Lương niên hiệu Trịnh Minh năm thứ ba, tháng ba, Ngài nhóm chúng lại tại chùa Nhạc Lâm, rồi Ngài ngồi ngay thẳng nói bài kệ:

Di Lặc chơn Di Lặc

Hóa thân thiên bách ức

Thời thời thị thời nhơn

Thời nhơn giai bất thức

(Di Lặc thật là Di Lặc, biến hóa trăm ngàn ức thân, thường hiện trong đời, mà người đời chẳng ai biết). Nóixong kệ rồi, Ngài an nhiên nhập diệt. Kẻ tăng người tục đều cùng nhau đến lễ bái cúng dường và dựng tượng Ngài thờ tại điện ở phía đông chùa Nhạc Lâm bên Tàu.

Vì căn cứ theo ứng thân này, nên trong các chùa ở Tàu hay Việt Nam thường thờ tượng Ngài Bố Đại Hòa Thượng với vẻ mặt hiền từ hân hoan, miệng cười vui vẻ, tượng trưng cho đức hoan hỷ. Người béo bụng to, hay cầm cái đãy. chung quanh có sáu em bé đang leo trèo lên mình Ngài, là tượng trưng cho lục tặc (sáu giặc) khi đã bị Ngài hàng phục. Đây là hóa thân trong trăm ngàn hóa thân của đức Di Lặc Bồ tát.

Tương lai của đức Di Lặc: Hiện nay đức Di Lặc là một vị Bổ xứ Bồ tát đang ở nội viện cung trời Đâu suất, đợi đến khi thế giới này hết kiếp giảm thứ 9 rổi, đến kiếp tăng thứ 10, trong lúc nhơn loại hưởng thọ được trên tám vạn tuổi, lúc bấy giờ Ngài mới gián sanh xuống cõi này, trong nhà của một vị Bà la môn tên là Tu Phạm Ma, thân mẫu của Ngài tên Phạm Ma Bạt Đề. Khi sanh ra Ngài có nhiều tướng tốt, đức hạnh vẹn toàn, thông minh quán chúng. Lớn lên NGài xuất gia tu hành đến núi Kê Túc để nhận lãnh y bát của Đức Phật Thích Ca, do Ngài Ma Ha Ca Diếp trao lại, rồi sau Ngài đến ngồi dưới gốc cây Long Hoa dùng Kim Cang trí trừ sạch vi tế vô minh, chứng đạo vô thượng Bồ đề.

Ngài thuyết pháp tại giảng đường Hoa Lâm dưới cây Long Hoa. Hội thứ nhất độ được chính mươi sáu ức người thành A La Hán, hội thứ hai độ chín mươi bốn ức người thành A La Hán, hội thứ ba độ chính mươi hai ức người thành A La Hán. Htế nên gọi là “Long Hoa tam bội”. Ngài thuyết pháp đến sáu vạn năm, hóa độ vô số chúng sanh.

*********

2. Phật khen Ngài Di Lặc Bồ Tát

Khi ấy đức Thế Tôn khen Ngài Di Lặc Bồ tát và dạy rằng:

-Này Thiện nam, quý lắm! Ông vì các vị Bồ tát hiện tạichúng sanh đời sau, thưa hỏi Như Lai những nghĩa lý cao siêu huyền diệu, khiến cho các vị Bồ tát đều được con mắt trí huệ thanh khiết và tất cả chúng sanh đời sau đoạn tuyệt được sanh tử luân hồi, tâm ngộ thật tướng(1) và chứng được Vô sanh nhẫn(2). Các ông nên chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông chỉ dạy.

Khi ấy Ngài Di Lặc Bồ tátĐại chúng đều vui mừng kính cẩn, vâng nghe lời Phật khai thị.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật khen Ngài Di Lặc Bồ tát: Nhở lời ông hỏi, để Phật chỉ giáo, nên khiến các vị Bồ tát hiện tại, mắt trí huệ được sáng tỏchúng sanh đời sau cũng nhờ câu hỏi này mà vĩnh viễn ra khỏi luân hồi.

 

_________

(1) Thật tướng: Tướng chơn thật, không hư vọng, không bị thời gian thay đổi, không gian chuyển đổi, suốt xưa thấu nay, nó vẫn thường như; cũng một biệt danh của “Viên Giác”.

(2) Vô sanh nhẫn: Chữ “Nhẫn” là an nhẫn, an trụ hay là chứng. Chữ “vô sanh” là không sanh. Nghĩa là: an trụ chỗ Ngã và Pháp không còn sanh khởi, tức là an trụ “chơn tâm”

 

********

3. Phật dạy: Ái và Dục là gốc rễ của sanh tử luân hồi

-Này Thiện Nam! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến giờ, đều do món “ân ái và tham dục” cho nên mới bị sanh tử luân hồi. Tất cả chúngs anh trong thế giới tóm lạibốn loài:

1. Loài sanh trứng

2. Loài sanh con

3. Loài sanh chỗ ẩm ướt

4. Loài hóa sanh

Các loại chúng sanh này, đều do “dâm dục” mà tạo thành tánh mạng của nó (nhứt thế chúng sanh giai dĩ dâm dục nhi chánh tánh mạng).

Bởi thế, nên các ông phải biết: gốc rễ của sanh tử luân hồi là “Ái” và “Dục” vậy. Vì có “dục” cho nên mới sanh ra ái luyến, do “luyến ái” nên mới sanh tử tử sanh, nối luôn không dứt.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật chỉ ngay gốc rể của sanh tử luân hồi là “ân ái và tham dục”. Chính như thân mạng của các chúngs anh đây, cũng đều do dâm dục tạo thành.

Bởi thân mạng đã do ái dục sanh, nênthânm ạng còn thì ái dục còn, ái dục còn thì thân mạng còn.

Trong kinh Phật danh chép: “Có ái dục thì sanh, ái dục hết thì diệt; cho biết gốc rễ của sanh tửtham ái (hữu ái tắc sanh, ái tận tắc diệt, cố tri sanh tử, tham ái vi bổn).

Trong kinh Niết bàn cũng nói: “nhơn ái sanh ưu, nhơn ưu sanh bố, nhược ly tham ái, hà ưu hà bố”. Nghĩa là: Vì tham ái nên mới sanh lo, nhơn lo mới sanh sợ, nếu nguời lìa được ái dục rồi, thì có lo gì và sợ gì?

Bốn lòai:

1. Noãn sanh: loài sanh trứng, như loài chim, cá v.v..

2. Thai sanh: loài sanh con, như loài người và thú v..v...

3. Thấp sanh: loài sanh chỗ ẩm ướt, như lăng quăng, vi trùng v.v...

4. Hóa sanh: như loài nhộng hóa làm bướm, hoặc như loài địa ngục, ngạ quỷchư Thiên v.v...

 

****

-Này Thiện nam! Nhơn ái luyến nên sanh ra “dục”, do dục nên mới có thân mạng. Bởi thế, nên truy tầm đến cội gốc của nói, thi chúng sanh ái luyến thân mạng tức là ái luyến “Dục”. Ái luyến dục là “nhơn”, mà ái luyến thân mạng là “quả”.

 

LUỢC GIẢI

Ngài Tôn Mật nói: “Do cảnh dục trần bên ngoài nó trêu ghẹo, làm cho tâm sanh ái luyến; do tấm ái luyến, cho nên mới sanh ra tham dục. Vì tham dục nên tạo nghiệp, do tạo nghiệp nên mới thọ quả. hi thọ quả khổ rồi trở lại tạo nghiệp nữa. Vì thế nên sanh tử không cùng”.

 

********

4. Phật trả lời câu hỏi: “Có mấy loại chúng sanh luân hồi?”

-Này Thiện nam! Cảnh hồng trần có lắm điều xuôi ngược, nếu người khi gặp nghịch cảnh, sanh tâm giận ghét, tạo ra các nghiệp dữ, thì đọa vào Địa ngục, Ngạc quỷ và súc sanh.

Nếu người biết nhàm cảnh dục, ưa tạo nghiệp lành, chán chê ác nghiệp, thì lại sanh về cõi ngườicõi trời Dục giới.

Còn những người nhàm chê cảnh trần lao, ô nhiễm ở cõi Dục, tham ái cảnh Túu thiền và Bát định của hai cõi trên, như thế cũng còn tư dưỡng gốc tham ái, cho nên sanh về hai cõi hữu vi là “trời Sắc giới” và “Vô sắc giới”.

Các loại chúng sanh trên đây, đều còn trong vòng sanh tử luân hồi, vì còn các tham ái, nên chẳng thành Thánh đạo. Thến nên, chúng sanh nào muốn thoát ly sanh tử luân hồi, thì trước phải đoạn trừ các tham dục và tâm ái luyến.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn trêen là Ngài Di Lặc Bồ tát hỏi: “Có mấy loại chúng sanh luân hồi?”. Đến đoạn này Phật trả lời có ba loại chúng snah luân hồi:

1. Ác nghiệp: Như Địa ngục, Ngạ quỷsúc sanh (nghiệp ác bực thượng thì đọa vào địa ngục, nghiệp ác bực trung thì đọa làm Ngạ quỷ, nghiệp ác bực hạ thì đọa làm súc sanh).

2. Thiện nghiệp:  - Đây là nói về hữu lậu thiện. Như: Thiên, Nhơn và Thần A Tu La (Nghiệp lành bực thượng thì sanh lên 6 cõi Trời về Dục giới, nghiệp lành bực trung thì sanh về cõi Người, nghiệp lành bực hạ thì sanh làm thần A Tu La)

3. Bất động nghiệp (Thiền định) – Như cõi Trời Tứ Thiên và Tứ không. Do tu thiền định mà được sanh về bốn cõi Thiền ở Sắc giới (1. Ly, sanh hỷ lạc địa; 2. Định, sanh hỷ lạc địa; 3. Ly hỷ, diệu lạc địa; 4. Xả niệm, thanh tịnh địa). Và bốn c õi Hông, ở cõi Trời Vô sắc (1. Không vô xứ thiện; 2. Thức vô biên xứ thiên; 3. Vô sở hữu xứ thiên; 4. Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên)

Ba loại chúng sanh này (ác nghiệp, thiện nghiệpbất động nghiệp) tuy có cao thấy, sang hèn khác nhau, nhưng cũng đều còn ái và dục, chẳng qua thô hay tế đó thôi. Ái dục còn tức là phiền não hữu lậu còn; vì phiềnnão hữu lậu còn nên phải còn sanh tử luân hồi.

Tóm lại, vì chúng sanh trong ba cõi (Dục giới, Sắc giớiVô sắc giới) còn ái nhiễm nên đều còn luân hồi cả.

Kết thúc đoạn này, Phật dạy một câu:

“....Thế nên chúng sanh, muốn ra khỏi sanh tử luân hồi, thì truơóc hết phải đoạn trừ ân ái và tham dục” (Thị cố chúng sanh, dục thoát sanh tử, miễn chư luân hồi, tiên đoạn tham dục, cập trừ ái khát).

Phật dạy Pháp tu ra khỏi sanh tử luân hồi, vỏn vẹn chỉ có một câu thôi:

“Phải đoạn ân ái và tham dục”

Rất giản dị và rõ ràng vô cùng. Thật là “khuôn vàng thước ngọc”, đáng làm quy cũ cho muôn đời! Hành giả chỉ thực hành đúng như lời Phật dạy đây, đó là Tu, Tu là đó rồi.

Cũng như trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy rằng:

...Dâm Tâm bất trừ,

Trần bất khả xuất...”

Nghĩa là: Tâm nghĩ ngợi đến việc tham dục, nếu không dứt trừ, thì cảnh hồng trần này không biết bao giờ ra khỏi.

 

5. Bồ tát hiện thân, không phải do ái dục mà do lòng đại binguyện lực

-Này Thiện nam! Các vị Bồ tát hóa hiện thân hình ở trong thế gian, không phải vì ái dục nhiễm ô như chúng sanh, mà gốc do lòng Từ bi và đại nguyện cứu thế, nên đã hiện ra thân thamdục để vào sanh tử hóa độ chúng sanh, khiến cho chúng sanh xả bỏ các ái dục.

 

LƯỢC GIẢI

Vì sợ có người hiểu lầm: Bồ tát củng có phụ mẫu, thê tử, v.v... tất nhien phải có ái dục, nhiễm ô và cũng thật sanh tử như chúng sanh, nên đoạn này Phật giải thích: Bồ tát do lòng từ bi và đại nguyện cứu thế, nên hiện ra thân tham dục, để vào sanh tử, đặng hóa độ chúng sanh, chớ không phải thật có tham dụcsanh tử.

 

 

6. Phật dạy: Có năm chủng tánh

-Này Thiện Nam! Nếu tất cả chúng sanh đời sau, bỏ được các tham dục, trừ tâm thương ghét, dứt hẳn sanh tử luân hồi, nơi tâm được thanh tịnh, cầu nhập cảnh giới Viên giác của Như Lai thì sẽ được ngộ nhập.

-Này Thiện nam! Tất cả chúng sanh gốc từ vô minh tham dục, nên sanh ra năm món tánh sai khác. Năm món tánh này là căn cứ theo việc đoạn trừ hai chưóng có cạn và sâu mà phân định.

Thế nào là hai chướng?

1. Lý chướng: làm chướng ngại chánh tri kiến

2. Sự chướng: làm tiếp nối các sanh tử. Nếu đối với hai món chướng này má hoàn toàn chưa đoạn thì gọi là chúng sanh

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn trên NGài Di Lặc Bồ tát hỏi: “Có mấy hạng người tu theo đạo Bồ đề của Phật?”. Đến đoạn này Phật trả lời có năm hạng. Song năm hạng này là căn cứ theo việc đoạn trừ hai chướng có cạn và sâu của hành giả mà phân định.

Lý chướng: Chướng về Lý, cũng tên là “Sở tri chướng”, do chấp Pháp mà sanh. Vì chấp pháp nên làm cho chướng ngại “Chơn như lý tánh” không hiện bày; vì thế, nên nói “Lý chương là chướng ngại chánh tri kiến của Phật”

Sự chướng: Chướng về sự, cũng gọi là “phiền não chướng, do chấp Ngã sanh. Do các phiền não nên tạo ra các nghiệp vì tạo nghiệp nênmới thọ luân hồi. Vì thế Phật nói: “Sự chướng làm tiếp nối sinh tử luân hồi”.

Bởi chấp ngã nên khởi ra các phiền não làm chướng ngại Bồ đề. Bởi chấp ngã nên sanh ra Sở tri chướng, làm phát tâm tu hành, đối với hai món chướng này chưa đoạn được món nào, cho nên chỉ kêu là “chúng sanh” mà không liệt vào trong năm chủng tánh.

 

*********

-Này Thiện nam! Thế nào là năm chủng tánh?

1. Thinh văn chủng tánh

2. Duyên giác chủng tánh

3. Bồ tát chủng tánh

4. Bất định chủng tánh

5. Ngoại đạo chủng tánh

 

1. Thinh Văn và

2. Duyên giác chủng tánh

Nếu chúng sanh nào đoạn tuyệt tham dục, trừ được sự chướng (ngã chấp) nhưng lý chướng (pháp chấp) chưa đoạn, thì chỉ chứng đặng quả Thinh văn và Duyên giác chớ chưa được an trụ cảnh giới Bồ tát.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói về chủng tánh Thinh văn và Duyên giác, chung gọi là “nhị thừa chủng tánh”.

Đành rằng hai quả vị này đồng bỏ hẳn lòng tham dục, đồng phá được ngã chấp, trừ sự chướng, đồng đoạn được sanh tử và cũng đồng chưa trừ đượ clý chướng (pháp chấp) nhưng pháp tu củ ahai bên khác nhau.

-Một bên tu pháp Tứ đế đoạn được sự chướng (ngã chấp) thì gọi là “thinh văn chủng tánh”

-Một bên tu pháp “Thập nhị nhơn duyên đoạn được sự chướng (ngã chấp) thì gọi là “Duyên giác chủng tánh”

Ngài Tôn Mật giải rằng: “Biết được khổ sanh tử, dứt trừ tâm leo chuyền, thì gọi là trừ “sự chướng”, thật ra chưa có thể trừ được ba món Tế” (ba món Tế, xem trong quyển Đại thừa Khởi tin luận).

 

3. Bồ tát Chủng tánh

-Này Thiện nam! Nếu các chúng sanh đời sau, muốn vào biển Đại Viên giác của Như Lai, thì trước phải phát nguyện, siêng năng đoạn trừ hai món chướng. Đến khi hai món chướng đã nép phục, thì ngộ vào cảnh giới Bồ tát.

Nếu như khi món chướng (ngã chấp, pháp chấp) đã haòn toàn diệt, thì vào được cảnh gióoi Viên Giác mầu nhiệm của Như Lai, viên mãn quả Bồ đề và đạt Niết bàn.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói về bồ tát chủng tánh. Có chia làmhai thời kỳ:

1. Thời ky hai chướng mới nép phục.

2. Thời kỳ đoạn tuyệt hai chướng

Hành giả từ khi còn địa vị phàm phu, đang bị hai chướng (phiền não chướngSở tri chướng) hoành hành, rồi trải qua giai đoạn giằng co, cho đến lúc hai chướng bị nép phục, như thế mới vừa lên địa vị Bồ tát. Khi lên địa vị Bồ tát, tiếp tục đoạn chướng, đến lúc đoạn tuyệt được phiền não chướng (ngã chấp) thì đặng Bồ đề (trí đức), đoạn tuyệt được sở tri chướng (pháp chấp) thì đặng đại Niết bàn (đoạn đức). Hai chướng bị đoạn vĩnh viễn rồi, thì đặng vào quả “Phật”.

Tại sao lập Bồ tát tánh mà không lập Như Lai tánh? Vì Bồ tát tu hành đến lúc hoàn toàn rốt ráo, thì chứng quả vị Phật, nên không lập thêm Như Lai tánh.

 

**********

4. Bất định chủng tánh

-Này Thiẹn nam! Có loại chúng sanh có thể chứng được Viên giác. Song, nếu chúng gặp Thiện tri thức là Thinh văn hóa độ, thì chúng thành Tiểu thừa; còn gặp thiện tri thứcBồ tát hóa độ thì chúng thành Đại thừa. Nếu gặp Như Lai dạy tu đạo vô thượng Bồ đề, thì chúng thành Phật thừa.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói về “Bất định chủng tánh”. Nghĩa là chúng sanh này căn tánh không nhất định Đại thừa hay Tiểu thừa. Nếu gặp Thiện tri thức thuộc vè Đại thừa giáo hóa, thì chúng thành Đại thừa; còn gặp Thiện tri thức thuộc về Tiểu thừa giáo hóa thì chúng thành Tiểu thừa.

*******

5. Ngoại đạo chủng tánh

-Này Thiện nam! Có những chúng sanh đi tầm Thiện tri thức chỉ dạy đường lối tu hành, nhưn glại gặp ngoại đạo tà sư dạy bảo,nên chúng nó sanh ra tà kiến, hiểu ngộ không chơn chánh, thế gọi là “Ngoại đạo chủng tánh”. Đây không phải lỗi tại chúng sanh đó, mà lỗi tại tà sư.

Tóm lại, chúng sanh tu Bồ đề, có năm món chủng tánh sai khác, như ta vừa kể xong.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này nói về “ngoại đạo chủng tánh”. Tuy chúng sanh này vẫn có tâm tu hành, nhưng không gặp “thiện tri thức” giáo hóa, lại gặp tà sư chỉ dạy, nên thành ngoại đạo.

Vì sự hiểu biết của chúng tà ngụy, không phải là chánh đạo, nên gọi là “ngoại đạo”. Ngoại đạo chủng tánh, ở kinh khác gọi là “Xiễn đệ chủng tánh”, nghĩa là “đoạn giống Phật”. Vì trong bốn chủng tánht rên, tuy có Đại thừaTiểu thừa khác nhau, nhưng cũng đều “chánh ngộ”, duy có Ngoại đạo chủng tánh, sanh các tà kiến, đoạn diệt chánh kiến, trái ngược với chánh nhơn thành Phật cho nên gọi là “chúng Xiễn đề” (đoạn giống Phật).

 

7. Bồ tát nhập thế độ sanh thị hiện các hình tướng và các cảnh thuận nghịch

-Này thiện nam! Các vị bồ tát đều y bổn nguyện độ sanh của mình từ vô thỉ và do lòng Đại bi thanh tịnh(1) thúc đẩy nên nhập thế độ sanh. Bồ tát dùng phương tiện thị hiện ra nhiều hình tướng, khi thì hiện cảnh thuận, khi thì hiện cảnh nghịch, có lúc lại lân la ở chung với chúng sanh và đồng làm các nghề nghiệp như chúng sanh (Đồng sự nhiếp) để tiện bề hóa độ, khiến cho chúng sanh được thành Phật.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn trên Ngài Di Lặc Bồ tát hỏi Phật: “Khi bồ tát nhập thế độ sanh, phải dùng những phương tiện gì để giáo hóa chúng sanh?”

 

 

___________

(1) Đại bi thanh tịnh: Bồ tát do lòng từ bi rộng lớn thương xót chúng sanhhiện thân hóa đạo, không phải vì danh và lợi v.v.. cho nên nói là “Thanh tịnh”

 

Đại ý đoạn này Phật trả lời: Bồ tát do bản nguyên độ sanh từ vô thỉ (bồ tátlợi sanh vì bổn hoài), và lòng Đại bi thanh tịnh thúc giục, nên mới nhập thế độ sanh; không đồng như chúng sanh do ái dục làm nhiễm ô và bị nghiệp lực lôi cuốnnhập thế.

Bồ tát dùng phương tiên, thị hiện ra nhiều hình tướng để độ sanh. Như Ngài Quan Âm hiện 32 ứng thân, Đức Di Lặc Bồ tát hiện thân Bố đại Hòa thượng, hoặc có vị hiện thân Kim Cang, hiện thân Tiêu Diện, Thập Diện, Thập Điện Minh vương, Ngưu đầu, Mã viện v.v.. có lúc hiện “Từ”, có lúc hiện “Oai” nên có câu:

Kim Cang lộ mục sở dĩ hàng phục tứ ma

Bồ tát đê mi do thị ai từ ư lục đạo”

Nghĩa là: Thần Kim Cang trợn mắt là để hàng phục bốn maBồ tát xủ mày là vì thương chúng sanh trong 6 đạo. Bồ tát khi thị hiện cảnh thuận: giảng dạy Pháp lành khuyên người tu học v.v.. có lúc lại hiện cảnh nghịch như: hiện chảo dầu sôi, để độ ông Nan Đà tôn giả, hoặc dùng gọng xiềng đánh đập v.v.. để cho người biết thức tỉnh hồi tâm. Cổ nhơn nói: “Người không gặp tai nạn, thì chẳng biết hồi tâm hướng thiện”. (Nhơn vô vạn họa, bất hồi đầu). Hay như Ngài Thiện Tài Đồng Tử đi tham học với Bà Tu Mật Nữ v.v..

Bồ tá có khi thị hiện lân la ở chung cùng với chúng sanh và đồng làm các nghề nghiệp như chúng sanh (như Ngài Lục Tổ khi ở chung với bọn thợ săn v.v... để lần hồi dẫn dắt chúng sanh trở về Chánh Đạo).

Tóm lại,các Bồ tát nhập thế độ sanh, đều do tâm đại bi làm chủ động, lấy Đại nguyện làm căn bản, dùng phương tiện có nhiều môn, tuy không nhứt định, nhưng đại khái không ngoài Thuận và Nghịch. Hoặc dùng lời giảng dạy (khẩu giáo hóa) hoặc hiện thân hóa độ (thân giáo hóa), hoặc dùng đồng sự nhiếp, chung quy một mục đích là khiến cho chúng sanh được giải thoátthành Phật.

 

*****

8. Chỉ nguyện thành Phật, không ở nhị thừa và chớ gặp ngoại đạo

-Này Thiện nam! Nếu chúng sanh đời sau, phát đại nguyện thanh tịnh của Bồ tát, khởi tâm tăng tấn cầu nhập Viên Giác, thì phải phát nguyện như vầy:

Con nguyện ngày nay, được gặp Thiện tri thức dạy con tu hành để nhập Viên giác của Phật, chớ gặp tà sư ngoại đạoNhị thừa.

Con y theo bản nguyện tu hành, lần hồi dứt trừ các chướng. Khi các chướng hết, nguyện viên mãn, thì con sẽ được vào thành lớn Viên Giác, trang nghiêm tốt đẹp và lên cung điện thanh tịnh giải thoát của Như Lai.

 

LƯỢC GIẢI

Dại ý đoạn này Phật dạy các chúng sanh đời sau, muốn cầu Viên Giác, thì phải phát lời thệ nguyện: “Con nguyện chớ gặp tà sư ngoại đạotiểu thừa chỉ lo tu ích kỷ tiêu cực không chịu hoằng pháp lợi sanh. Con nguyện gặp Thiện tri thức Đại thừa, tu lợi tha tích cực, dạy bảo con tu hành được thành quả Phật”.

Ngài Như Sơn nói: “Lý, tuy đốn ngộ, nhưng về phần sự tướng thì phải lần lần diệt trừ” (lý tuy đốn ngộ, sự nải tiệm trừ)

Khi các chướng hết rồi, thì đi, đứng nằm ngồi trong tất cả thời và tất cả chỗ, đều được giải thoát. Đó là cung điện giải thoát thanh tịnh và thành Viên giác trang nghiêm của Như Lai.

 

**********

9. Phật nói bài kệ, tóm lại các nghĩa trên

Khi đó Đức Thế Tôn, muốn tóm lại các nghĩa trên, nên nóibài kệ rằng:

Di Lặc! Ông nên biết:

Tất cả các chúng sanh

Đều do tham dục vậy,

Nên đoạ vào sanh tử

Chẳng đặng đại giải thoát.

Nếu người đoạn thương ghét,

Cùng với tham, sân, si.

Không cần tu gì khác,

Cũng đều được thành Phật.

Cầu nguyện gặp Minh sư,

Khai ngộ được chơn chánh,

Y theo nguyện Bồ tát,

Trừ tuyệt hai món chướng,

Được vào đại Niết bàn

Các Bồ tát mười phương,

Đều bởi lòng Đại bi,

Phát nguyện vào sanh tử,

Tùy loại độ chúng sanh.

Người tu hành hiện tại

chúng sanh đời sau,

Phải đoạn trừ ái hoặc,

Mới đặng vào Viên Giác

 

LƯỢC GIẢI

Bài kệ này Phật gọi Ngài Di Lặc bồ tát mà dạy, đại ý như vầy: Tất cả chúng sanhtham dục, nên bị sanh tử luân hồi,không được giải thoát. Nếu ngưòoi đoạn tuyệt được tham, sân, si v.v.. thì được thành quả Phật. Thế nên người tu hành phải cầu Minh sư khai ngộ, rồi y theo hạnh nguyện của Bồ tát mà đoạn trừ hai chướng và cầu chứng quả Niết bàn của Phật.

Các vị Bồ tátmười phương đều do lòng Đại bi thanh tịnh làm chủ động và chí nguyện lợi tha thúc đẩy, nên không nỡ yên ở chỗ thanhtịnh tu giải thoát mộtm ình, thích thú nơi cảnh tịch tịnh lo phần ích kỷ như hàng Tiểu thừa; mà Bồ tát thệ nguyện nhập thế độ sanh, lẫn lộn với trần lao để tùy duyên hóa độ. Không sợ ô nhiễm, chẳng kể gian lao, không từ khó nhọc.

Như Ngài Địa Tạng Bồ tát nguyện rằng:

“Chúng sanh độ tận phương chứng Bồ đề

Địa ngục vị không thệ bất thành Phật”

Tổ A Nan cũng thệ rằng:

“... Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập

Như nhứt chúng sanh vị thành Phật

Chung bất ư thử thủ Nê hoàn...”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10988)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16321)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11778)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12000)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12693)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12603)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10127)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13819)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10137)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13597)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16166)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11874)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12875)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11558)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12581)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10699)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10892)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10862)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11807)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12659)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 10982)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12522)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11232)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12423)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 13979)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10743)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10409)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11076)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11880)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13047)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12272)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15251)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14215)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12004)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15192)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11886)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12334)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11099)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10512)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12469)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13047)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14694)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12563)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16422)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13409)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11877)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11526)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12666)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12784)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 17887)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12094)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12941)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant