Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bài Thứ 10 - 11: Chương Phổ Giác & Chương Viên Giác

23 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 7030)
Bài Thứ 10 - 11: Chương Phổ Giác & Chương Viên Giác

PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành 1997
KHOÁ THỨ 8: KINH VIÊN GIÁC

BÀI THỨ 10 & 11

X. CHƯƠNG PHỔ GIÁC
1. Ngài Phổ Giác bồ tát hỏi Phật
2. Phật khen ngài Phổ Giác bồ tát
3. Phật dạy ngài Phổ Giác bồ tát
4. Phật nói bốn định
5. Phật trả lời câu hỏi thứ ba: “phải làm những hạnh gì?
6. Phật trả lời câu hỏi thứ tư: Phải trừ bỏ bịnh gì?
7. Phật trả lời câu hỏi thứ năm: Phải phát tâm như thế nào?
8.Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên
XI. CHƯƠNG VIÊN GIÁC 
1. Ngài Viên Giác hỏi Phật
2. Phật khen ngài Viên Giác
3. Phật dạy pháp an
4. Phật dạy 21 ngày đầu ở trong tịnh thất
5. Phật dạy an cư 3 tháng theo Bồ tát thừa
6. Khi thấy thắng cảnh, hành giả chớ nên chấp trước
7. Tu chỉ (xa ma tha)
8. Tu quán (Tam ma Bát Đề)
9. Chỉ Quán song tu (thiền na)
10.Tóm tắt
11.Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên

 

X. CHƯƠNG PHỔ GIÁC

1. Ngài Phổ Giác bồ tát hỏi Phật

Khi ấy Ngài Phổ Giác bồ tát ở trong đại chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật ba vòng, kính cẩn lạy Phật và quỳ thẳng chắp tay bạch rằng:

-BẠch đức đại bi Thế Tôn, Ngài đã vì chúng sanh nói các bệnh (bốn tướng) của người tu thiền, khiến cho Đại chúng gội sạch các mê lầm nơi tâm và được an ổn. Đây là một việc lợi ích lớn chưa từng có.

-Bạch Thế Tôn, chúng sanh đời sau các Phật lần xa, các vị Thánh hiền lại ẩn, tà sư ngoại đạo rất thạnh hành; vậy trên đường tu hành:

1. Phải cầu bực nào để dạy bảo?

2. Phải y phương pháp nào tu hành?

3. Phải làm theo hạnh nào?

4. Phải trừ những bịnh gì?

5. Phải phát tâm như thế nào?

Xin Phật từ bi chỉ dạy, khiến cho những chúng sanh còn mê muội, khỏi bị đọa tà kiến.

NGài Phổ Giác bồ tát thưa thỉnh như vậy ba lần, cúi đầu kính lạy, rồi trở về chỗ cũ.

 

LƯỢC GIẢI

Chữ “Phổ Giác” là giác ngộ cùng khắp. Trên đường tu hành, hành giả phải gặp nhiều chướng ngại. Những chướng ngại ấy đều do chấp bốn tướng mà sanh ra. Bởi thế nên chương thứ 9, Ngài Tịnh Chư NGhiệp Chướng bồ tát đứng thưa hỏi, để Phật chỉ bày bốn tướng cho hành giả biết rõ đặng trừ. Khi bốn tướng trừ hết rồi thời các nghiệp chướng được thanh tịnh.

Song tren đường tu hành, hành gaỉ còn bị mây Vô minh rất vi tế, tức là bốn bịnh sau này che mặt trăng Viên giác của hành giả, làm cho trăng Viên Giác chiếu soi không được phổ biến.

Vì thế nên đến chương thứ 10 này, NGài Phổ Giác bồ tát đứng lên thưa hỏi, cầu Phật chỉ dạy thêm, để cho hành giả hiểu biết, đặng dẹp trừ hết mây vô minh, thời trăng Viên giác kia mới được chiếu soi phổ biến.

 

***

Tóm lại, đoạn này có 3 phần:

1. Trước NGài PHổ Giác tán thán Phật đã chỉ rõ những chứng bịnh của Thiền giả là bốn tướng vừa nói trên, để chúng sanh biết bịnh đặng trừ, sẽ được an ổn.

2. Ngài Phổ Giác bồ tát thương xót chúng sanh đời sau cách Phật xa pháp, các vị Hiền Thánh thì ở ẩn, ngoại đạo tà sư lại thạnh hành làm cho người tu hành dễ lạc vào tà kiến

3. Ngài Phổ Giác bồ tát, cầu Phật chỉ dạy 5 điều như sau:

a. Y theo phương pháp nào để tu

b.Phải làm những hạnh gì?

c. Phải trừ những bịnh gì?

d.Làm sao để phát tâm?

 

***

2. Phật khen ngài Phổ Giác bồ tát

Khi ấy đức Thế Tôn khen Ngài Phổ Giác bồ tát và dạy rằng

-Này Thiện nam, hay lắm và quý lắm! Ông vì chúng sanh đời sau thưa hỏi Như Lai đường lối tu hành như t hế. Đó là ông bố thí cho chúng sanh đời sau con mắt đạo không sợ (đạo nhãn vô úy), khiến cho chúng sanh đặng thành Thánh Đạo. Vậy các công nên chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông chỉ giáo.

Khi ấy Ngài Phổ Giác bồ tátđại chúng đều hoan hỷlẳng lặng vâng nghe lời Phật chỉ giáo.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật khen Ngài Phổ Giácchúng sanh, cầu Phật chỉ dạy đường lối tu hành để cho c húng sanh đi thẳng đường đến nơi thánh quả, không còn lo sợ đọa vào tà kiến.

“Mắt đạo không sơ” .- Đối với đạo hiểu biết được rõ ràng như con mắt thấy đường đi nên gọi là “con mắt đạo” (đạo nhãn). Trên đường tu hành không còn lo sợ đọa vào tà kiến, nên nói “không sợ” (vô úy)

 

***

3. Phật dạy ngài Phổ Giác bồ tát

-Này Thiện nam! Chúng sanh đời sau muốn phát tâm tu đại thừa thì phải cầu Thiện tri thức, tức là nhữn gngười hiểu biết chơn chánh (chánh tri kiến). Những vị ấy tâm chẳng trụ ở nơi tướng phàm phu và cũng không dính mắc nơi cảnh của Thinh văn, Duyên giác; tuy hiện ở nơi cảnh trần lao mà tâm vẫn thường thanh tịnh. Có khi các vị ấy thị hiện đồng ăn đồng ở với người tội lỗi (đồng sự nhiếp), mà thường khen ngợi các hạnh thanh tịnh (phạm hạnh), không để cho chúng sanh làm việc tội lỗi.

Hành giả phải cầu những người như vậy, dạy bảo tu hành, để thành tựu quả Phật.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật trả lời câu hỏi thứ nhứt của Ngài PHổ Giác bồ tát hỏi: “Phải cầu những bực nào dạy bảo?”. - Đại ý Phật trả lời: Người tu hành muốn được thành quả Phật, phải đủ hai điều kiện:

1. Bên trong, hành giả phải phát tâm Đại thừa làm chánh nhơn

2. Bên ngoài, phải nhờ các thiện hữu tri thức, huớng dẫn đường lối tu hành làm chánh duyên. Nếu có nội nhơn mà theiéu ngoại duyên, hay có ngoại duyên mà thiếu nội nhơn đều không thành tựu.

Song, cầu thiện hữu tri thức, phải là người “chánh tri kiến”. – Làm sao biết người “chánh tri kiến?” . – Hành giả phải dùng hai phương diện thuận cảnhnghịch cảnh sau đây quan sát, sẽ phân biệt được thế nào là “chánh tri kiến”

1. Thuận cảnh. – Vì thiện tri thức này, tâm không trụ nơi phước báo của phàm phucõi người hay cõi trời, vào cũngkhông trụ nơi phước báo của phàm phucõi người hay cõi Trời, vào cũng không trụ nơi cảnh thanh nhàn yểm thế tu ích kỷ tiêu cực của Tiểu thừaThanh vănDuyên giác.

2. Nghịch cảnh. – Vì thiện hữu Trí thức này, hiện thân ở trong cảnh nhiễm ô (trần lao) để hóa độ chúng sanh, mà tâm chẳng ô nhiễm, thật hành theo “đồng sự nhiếp” của bồ tát để hóa độ người.

Có khi vị này phải thị hiện làm việc lầm lỗi như người nhưng không bao giờ dùng lý luận miễn cưỡng để bào chữa lỗi mình, trái lại luôn luôn khen ngợi hạnh thanh tịnh và tự chỉ trích lỗi lầm của mình.

Ngài Như Sơn giải nghĩa chữ “Thiện tri thức” như vậy: Thiện là hay, khéo. Tri là biết bịnh. Thức là biết thuốc. Nghĩa là vị này có tài biết chơn vọng, tà chánh, biết tâm bịnh của chúng sanh, biết pháp dược của Phật để đối trị.

 

***

-Này THiện nam! Chúng sanh đời sau nếu gặp vị Thiện hữ tri thức như thế, phải hết lòng cung dường, không tiếc thân mạng. Vị thiện tri thức này khi giữ bốn oai nghi thanh tịnh, hành giả cung kính đã đành, mà khi thị hiện lẫn lộn với chúng sanh làm các tội lỗi để giáo hóa chúng sanh (đồng sự nhiếp), hành giả cũng chớ nên sanh tâm khinh dễ.

-Này thiện nam! Đối với thiện hữu tri thức này, mà hành giả không khởi một niệm khinh thường, thì hoa lòng (Tâm hoa) sẽ được rộng mở, chiếu sáng khắp cả mười phương thế giớithành tựu qủa Phật.

 

LƯỢC GIẢI

Đại ý đoạn này Phật dạy: “y pháp bất y nhơn”. Trong luận Trí Độ nói: “nếu vị thiện tri thức kia, có thể giải thích các nghĩa lý sâu xa của Phật, dẫn dắt hành giả tu theo chánh Đạo, được lợi ích, thì hànhg iả phải hết lòng cung kính, như tôn kính Phật, chẳng nên nghĩ những việc lỗi lầm của thiện hữu tri thức. Thí như cái đãy xấu đựng ngọc, chớ nên vì đãy xấu mà bỏ vật báu. NGười có ghẻ lát cầm đuốc đưa hành giả qua con đường nguy hiểm trong lúc ban đêm, chớ nên chê người lát mà không dùng đuốc sáng. NGười cầu dạo cũng thế: khi tìm được thiện hữu tri thức có thể dẫn dắt hành giả đi trên đưòng tu hành, thì hành giả phải trước sau một lòng tôn kính. Khi thiện tri thức giữ giới thanht ịnh, hành giả cung kính đã đành, mà khi NGài vì chúng sanh thực hành theo hạnh “đồng sự nhiếp” của bồ tát, người cầu đạo không nên thấy thế mà sanh tâm chấp nhứt và khinh thường. Được như thế, mới chứng được Phật đạo.

 

***

4. Phật nói bốn định

-Này thiện nam! Vị thiện tri thức kia,d dã chứng được diệu pháp và rời cả bốn bịnh sau đây:

a. Bịnh tác (làm các việc lành)

Như có người chấp như thế này: Bản tâm của tôi, vì muốn cầu Viên giác, nên làm tất cả các hạnh”. Song tánh Viên giác kia, không phải do làm mà được. Bởi hành giả lấy cái “làm” để cầu Viên giác, nên gọi là “bịnh tác” (bịnh làm).

 

LƯỢC GIẢI

CHữ “Tác”, nghĩa là làm. Tánh Viên Giác đâu có phải do “làm” mà được. Cũng như mặt trăng kia đâu phải do vẹt mây mới có. Bởi thế nên hành giả chấp: “phải là các hạnh lành để cầu nhập Viên giác”, thì không có thể được. Vì tánh Viên giác là thanht ịnh, vô vivô lậuhành giả lại dùng pháp hữu vi để cầu cảnh giới vô vi thanh tịnh, thì không thể được, nên gọi là “bịnh làm”.

Đọc đến đoạn này, độc giả không sao khỏi thắc mắc: tại sao bài trước Phật lại nói: “... Tánh Viên giác không phải do làm các h ạnh lành mà được, nếu chấp do làm mà được, thì thành ra bệnh “Tác” v.v.. >ời nói của Phật trưóc sao in tuồng mâu thuẫnNếu không suy nghĩa kỹ thì độc giả sẽ không hiểu.

Chúng tôi thường ví dụ: muốn cho lớp học được yên tịnh, thời phải làm sao trong lớp đừng có tiếng động, nếu có tiếng động thi lớp học chẳng được yên tịnh. CŨng như muốn đặng t1nh Viên giác vô vi thanh tịnh, thì không thể dùng pháp hữu vi vọng động mà cầu. Nếu dùng hữu vi vọng động mà cầu thì không bao giờ đặng Viên giác vô vi thanh tịnh.

Mặc dù như thế, song người muốn nhập Viên giác quyết định phải trải qua hai giai đoạn:

1. Gia đoạn đầu tiên, người muốn nhập Viên giác thanh tịnh, phải có học tu, bỏ các việc dữ, làm các việc lành v.v... Cũng như các ông thầy giáo, thấy học trò làm ồn, muốn cho lớp học được yên tịnh, giai đoạn đầu tiên, phải dùn gtiếng ồn để trị ồn. NGhĩa là ông thầy giáo phải gõ thước trước trên bảng cho lớn, thì các học trò mới hết làm ồn. Cũng như người đời nói: dùng độc trị độc, trong Đạo nói : lấy vọng để trừ vọng.

Đến khi học trò đã iml ặng rồi, mà thầy giáo vẫn gõ hoài trên bảng để mong cho lớp học được yên tịnh, thì không thể được. Vì tiếng gõ là tiếng động, rất trái với tịnh, làm sao lấy cái “động”, để cầu cái “tịnh” cho được. Cũng như người dùng cái tạo tác hữu vi, để cầu Viên giác vô vi thanh tịnh, không thể được.

2. Vì thế nên bước qua giai đoạn thứ hai: Thầy giáo phải thôi gõ bảng thì lớp học mới hoàn toàn yên tịnh. Cũng như hành giả, phải trừ cái bịnh “làm”, mới đặng Viên giác thanh tịnh.

NGười muốn đến bờ giải thoát, trước hết phải dùng cái bè tu học để qua sông mê. Song khi đã đến bờ rồi, mà cứ ôm cái bè mãi thì làm sao lên bờ được.

Tóm lại, hành giả muốn nhập Viên giác thanh tịnh, phải trải qua hai giai đoạn:

1. Giai đoạn đầu tiên, hành giả dùng cái bè tu học, bỏ dữ làm lành để qua sông mê. Hay nói một cách khác là dùng tiếng gõ bảnh của thầy giáo, để trừ tiếng ồn của học trò.

2. Đến giai đoạn tối hậu, hành giả phải bỏ cái bè hữu vị tu học, mới mong lên bờ giải thoát vô vi kia được. Hay đổi lại cách nói: ông thầy giáo phải thôi gõ bảng thì trong lớp mới đặng yên tịnh.

Cũng ý này, trong kinh “tứ thập nhị chương” Phật dạy: “... tu vô tu tu, chứng vô chứng chứng...” NGhĩa là: tu đến chỗ vô tu mới thật tu, chứng đến chỗ vô chứng mới thật là chứng v..v...

Bởi thế nên cổ nhơn có dạy rằng: “hữu vi tuy ngụy, xả chi tắt Phật đạo nan thành”: CÁc việc tu hành về hữu vi tuy rằng hư nguy chẳn gnhằm chi, nhưng nếu hành giả bỏ đi, thì Đạo Phật vô vi khó thành. Hay là câu: “thật tế l1y địa bắt thọ nhứt trần, vạn sự môn trung bất xả nhứt pháp”: Đành rằng chỗ lý tánh chơn thật (viên giác) không thọ một mảy trần, nhưng về sự tướng tu hành thì muôn điều không bỏ một việc lành nào.

 

b. Bịnh nhậm (mặc kệ, không tu hành)

-Này thiện nam! như có ngưòi chấp như thế này: “Tôi nay không cần đoạn sanh tử và cũng không cầu niết bàn. Người muốn cầu Viên giác, chớ nên móng niệm diệt sanht ử hay cầu niết bàn, mặc tình cho sanh tử hay niết bàn, tùy pháp tánh mà sanh hay diệt”.

Hành giả chấp như thế, là bị bịnh nhậm (mặc kệ); vì tánh Viên giác kia, đâu có phải để mặc kệ (nhậm) như vậy mà nhập được.

 

LƯỢC GIẢI

Chữ nhậm là mạc kệ. Bịnh này do hành giả chấp: “Tánh viên giác không phải do tu hành, làm các hạnh lành v.v.. mà nhập được”. Nên hành giả để mặc cho nghiệp lực xoay chuyển, chẳng sợ tôị lỗi, khôn gham phước lành, sanh tử không chê, niết bàn cũng chẳng quý; vì thế nên không nhập được Viên giác.

 

c. Bịnh chỉ (dứt các vọng niệm)

-Này thiện nam! Như có người chấp như thế này: “Tôi nay muốn cầu Viên giác, nên phải dứt hết các vọng niệm, đặng tất cả pháp bình đẳng vắng lặng”.

Chấp như thế, là bị bịnh “chỉ”; vì tánh Viên giác kia, đâu có phải do “dừng chỉ” các vọng mà nhập được.

 

LƯỢC GIẢI

Chữ “chỉ” là dứt các vọng niệm. Bởi hành giả thấy bịnh “tác” làm cho tâm khởi động bịnh “Nhậm” (mặc kệ) làm tâm phóng túng cả hai đều không nhập Viên giác được, nên hành giả xoay trở về nơi “chỉ” (dừng đứng)

vọng niệm mà thấy các pháp sai khác, không được bình đẳng, cho nên hành giả tu “chỉ” để dứt vọng niệm. Đâu biết rằng: tánh viên giác không có “niệm”, nếu khởi niệm thì trái, Viên giác không có “Chỉ”, nếu hành giả lại “chỉ”, thì làm sao nhập được viên giác.

 

d. Bịnh diệt (diệt các phiền não)

-Này Thiện nam! Như có người chấp như thế này: “Tôi nay muốn cầu Viên giác, nên vĩnh viễn đoạn các phiền não, nào thân tâm nào cảnh vật, tất cả đều hư vọng không thật có, rốt ráo vắng lặng”. Dùng cái “diệt” (vắng lặng) mà cầu Viên giác như thế là mắc bịnh diệt; vì tánh Viên giác đâu có phải chỉ vắng lặng.

 

LƯỢC GIẢI

Chữ “diệt” là dứt các phiền não, tâm và cảnh đều vắn glặng. Song tánh Viên giác vừa tịch (vắng lặng) lại vừa chiếu (linh tri). Tịch và Chiếu không hai. Hành giả chỉ chấp một bên “tịch” thì không hợp với tánh Viên giác.

 

***

-Tóm lại, người cầu đạo phải rời bốn bịnh trên, mới được nhập Viên giác thanh tịnh. Người quán sát để trừ bốn bịnh như thế, là Chánh quán; nếu trái lại, là tà quán.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này tóm lại bốn bịnh trên. Chữ “Tác” là làm; “nhậm” là không làm, để mặc kệ; “chỉ” là dùng chỉ các vọng niệm đương sanh và sẽ sanh; “diệt” là dứt các phiền não đã sanh. Bởi tánh Viên giác bất sanh bất diệt, bất cầu bất tịnh, bất tăng bất giảm, vô vi vô lậu, mà hànhg giả dùng Tác, Nhậm, Chỉ, Diệt v.v.. để cầu, thì không hiệp với tánh Viên giác.

Ngài Như Sơn nói: Đem bốn bịnh “Tác, Nhậm, Chỉ, Diệt” mà chiêm nghiệm lại tâm tư của mình, nếu còn một món nào thì cũng đều là bịnh cả; phải trừ hết bốn bịnh này, mới được nhập viên giác thanh tịnh

 

***

5. Phật trả lời câu hỏi thứ ba: “phải làm những hạnh gì?”

-Này thiện nam! CHúng sanh đời sau muốn tu hành, suốt đời phải kính trọng cúng dường Thiện hữu tri thức. Khi thiện hữu tri thức ở gần gũi, hành giả chớ nên khinh lờn. Khi thiện hữu tri thức đi xa, hànhg iả chớ nên hờn giận.

Khi thiện hữu tri thức hiện ra cảnh thuận hay nghịch, tâm hành giả pah3i như hư không, chớ nên thay đổi. Hành giả phải rõ biết: thân tâm minh cùng thầy bạn và các chúng sanh, đồngmột bản thể bình đẳng rốt ráo không khác. Hành giả phải tu hành như thế, mới nhập được viên giác.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật trả lời câu hỏi thứ ba: “phải làm những hạnh gì?”

Hạnh bồ tát rất nhiều, nhưng việc thờ Thầy là điều rất cần thiết. Vì đời mạt pháp nhược ma cường, nếu khôngc ó Minh sư chỉ dẫn, thì hành giả không sao khỏi bị lạc vào đường tà. Bởi thế nên hành giả phải suốt đời cung kính phục sự Thầy. Dù cho thiện tri thức làm những điều thuận ý hay nghịch lòng, hành giả cũng phải giữ một niềm tôn kính, tâm như hư không chớ nên thay đổi.

Hànhg iả phải quán sát: Thầy bạn cùng chúng sanh và mình đều đồng một thể viên giác, không riêng khác. Do đó hành giả mới bỏ được tánh kiêu mạn của mình để thờ Thầy, quên bản ngã để độ sanh. Phải tu hạnh như thế, mới nhập được Viên giác.

 

***

6. Phật trả lời câu hỏi thứ tư: “Phải trừ bỏ bịnh gì?”

-Này thiện nam! CHúng sanhd dời sau, không đuợc thành Đạo, đều do tất cả hạt gióng thương ghét, nhơn ngã, từ vô thỉ đến giờ. Vì thế nên chẳng được giải thoát.

Nếu người xem những kẻ oan gia cũn gnhư cha mẹ không khác, đối với các pháp tâm cũng không thương ghét, phân b iệt tự tha, thì người ấy sẽ trừ được các bịnh.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn trước Ngài Phổ Giác bồ tát hỏi PHật: “phải trừ những bịnh gì?” - Đoạn này Phật trả lời: “phải trừ thương ghét”

Đành rằng trong bài số 9, Phật đã dạy trừ thương ghét, nhưng chỉ nói về phần thô (hiện hành). Đến đoạn này Phật dạy trừ về phần vi tế của thương ghét tức là chủng tử. Nếu còn một chút ít thương ghét ngấm ngầm bên torng làm chướng ngại, thì hành gaỉ không thể nhập được Viên giác thanh tịnh.

Bao giờ hành gaỉ đối với kẻ oan gia, xem cũng như cha mẹ, bình đẳng không khác, xem sanht ử và Niết bàn chẳng hai, thì hành giả mới đoạn được chủng tử của thương ghét và mới có thể nhập viên giác thanh tịnh.

 

***

7. Phật trả lời câu hỏi thứ năm: “phải phát tâm thế nào?”

-Này thiện nam! chúng sanh đời sau muốn cầu Viên giác thì phải phát tâm như thế này: “tôi nguyện độ tất cả chúng sanh khắp cả hư không, đếu được rốt ráo vào Viên giác; người được viên giác không chấp ở nơi viên giác; trừ hết các tướng Nhơn và Ngã v.v..” - Phải phát tâm như vậy mới khỏi đọa vào tà kiến.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật trả lời câu hỏi thứ 5 mà ngài PHổ Giác bồ tát đã hỏi Phật: “Phải phát tâm thế nào?”

Phật trả lời phải phát tâm như vầy, mới khỏi đoạ vào tà kiến:

1. Phát tâm quảng đại: nguyện độ tất cả chúng sanh (noãn, thai, thấp, hóa) trong mười phương.

2. Phát tâm rốt ráo: độ chúng sanh nhập viên giác cứu kính.

3. Phát tâm chơn thường: ở trong viên gaíc mà không khởi vọng chấp nơi viên giác.

4. Phát tâm không điên đảo: Không khởi vọng tưởng điên đảo chấp các tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạngtướng độ sanh.

Hai món phát tâm trước là đại bi, hai món phát tâm sau là đại trí. Bi và Trí được iên dung là do phát bốn món tâm trên được tròn. CÂu hỏi của ngài PHổ giác giống như trong kinh Kim Cang, câu hỏi của Ngài Tu Bồ Đề: “Vân hà ưng trụ?” (Phải trụ tâm như thế nào?_

Đoạn này nói chữ “phát tâm”, nghĩa là tâm phát nguyện. Như nguời đời nói “lập chí”. Nhờ phát nguyện hay lập chí mà người đời tu hành vượt qua bao nhiêu trở lực khó khăn và thúc đẩy sự tu hành mau được thành công. NẾu “nguyện” rất thiết, thì hạnh mới chuyên cần. Do đó mà mau đuợc kết quả. Các đức Phật cũng nhờ phát nguyện rồi y theo nguyện đó tu hành mà được thành đạo chứng quả.

Hành giả nếu không có “nguyện lực” của mình làm động cơ thúc đẩy trên trường tu hành, thì quả Phật khó mà đạt được.

 

***

8. Phật nói bài kệ, tóm lại các nghĩa trên

KHi ấy đức Thế Tôn muốn tóm lại các nghĩa trên, nên nói bài kệ rằng:

 

LƯỢC GIẢI

Đại ý bài kệ này nói tóm tắt lại các nghĩa trên: Các chúng sanh đời sau muốn cầu thiện tri thức, phải tìm người chánh kiến. Làm sao biết chánh kiến? – Là đã trừ bốn bịnh và xa lia tư tưởng Nhị thừa

Cách đối xử với thiện tri thức: khi thân cận chớ nên khinh lờn, khi xa cách chớ nên sầu hận. Khi thấy thiện tri thức hiện ra, cảnh thuận hay nghịch, hành giả chớ nên vì thấy thế mà đổi tâm tâm, phải lấy làm hy hữu và kính như Phật ra đời. Hành giả phải giữ giới hạnh thanh tịnh, không phạm các tội lỗi và độ các chúng sanh, rốt ráo vào viên giác.

Hành giả phải y trí huệ chơn chánh, trừ các tướng Ngã, Nhơn mới khỏi đọa tà kiến và được nhập viên giác hay chứng quả niết bàn.

 

BÀI THỨ MƯỜI MỘT

XI. CHƯƠNG VIÊN GIÁC

1. Ngài Viên Giác bồ tát hỏi Phật

Khi ấy Ngài Viên Giác bồ tát ở trong Đại chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật 3 vòng rồi lạy Phậtchắp tay quỳ thẳng bạch rằng:

-Bạch Đức đại bi Thế Tôn! NGài đã vì chúng con rộng nói các phương tiện để nhập Viên giác thanh tịnh, khiến cho chúng sanh đời sau đặng lợi ích lớn

Bạch Thế Tôn! Chúng con ngày nay đã được khai ngộ rồi. Nếu sau khi Phật nhập diệt, chúng sanh đời sau chưa được khai ngộ, thì làm sao an cư để tu tập cảnh giới Viên giác thanh tịnh này? VÀ ba pháp quan1 thanh tịnh trong Viên giác đây, phải tu pháp nào trước?

Cúi xin đức Đại biđại chúng và chúng sanh đời sau, bố thí cho chúng con được lợi ích lớn.

Ngài Viên Giác bồ tát thưa thỉnh như vậy 3 lần, kính lạy dưới chân Phật rồi trở lui.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này NGài Viên Giác Bồ tát hỏi Phật có hai câu:

1.Làm sao an cư tu Viên giác thanh tịnh?

2.Ba môn quán thanh tịnh nên tu pháp nào trước?

Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác. Nhưng đứng về phương diện tu hành, không phải tu nhứt thời mà chứng được Viên giác; phải lần lượt như người lau guơng lau nhiều bụi mới sạch. Bụi càng sạch thì gương càng sáng; sáng, sạch đến chỗ hoàn toàn là dụ cho Viên giác.

Xin nhắc lại, trước về chương “tịnh chư Nghiệp chướng” là dạy hành giả chưa được phổ biến. Đến chương “Phổ Giác”, bồ tát cầu Phật chỉ dạy phương pháp tu hành để cho Giác tánh được phổ biến, nhưng chưa Viên. Đến chương “Viên Giác” là nói Giác tánh Viên mãn. Chương này bồ tát hỏi Phật về việc an cư và tu 3 pháp quán, toàn chú trọng về sự tướng tu trìCho biết: Sự chưa tròn là Lý chưa Viên. Lý Viên là nhờ sự tròn. Thí như người tu đức từ bi, nếu chưa phổ cập đến loài vi tế côn trùng (hộ mạng côn trùng) thì lòng từ bi chưa tròn.

 

***

2. Phật khen ngài Viên Giác Bồ tát

Khi ấy đức Thế Tôn khen ngài Viên Giác bồ tát và bảo rằng:

-Này Thiện nam, hay lắm và quý lắm! Ông thưa hỏi Như Lai nhữn gphương tiện tu hành, thế là ông bố thí cho chúng sanh lợi ích rất lớn. VẬy các ông nên lóng nghe, ta sẽ vì các ông mà chỉ giáo.

KHi ấy Ngài Viên Giác bồ tátđại chúng đều yên lặng và hoan hỷ nghe lời Phật chỉ giáo.

 

3. Phật dạy pháp an

-Này Thiện nam! Khi Phật còn tại thế hoặc nhập diệt rồi, hay đời mạt pháp(1) nếu chúng sanh nào có đủ căn tính Đại thừa, tin cái tâm Viên giác của Phật, phát tâm tu hành; như ở Già Lam (chùa) thì phải lo xếp đặt chúng TĂng, hoặc có những duyên sự khác không thể chuyên tu tập được, thì tùy phận của Hành giả, tư duy và quán các pháp môn mà ta đã dạy trước.

Nếu khôngnhơn duyên khác, thì hành giả phải lập đạo tràng và định thời kỳ tu tập. Nếu thời gian đài thì 120 ngày, vừa thì 100 ngày, ngắn thì 80 ngày.

CÁch bài trí trong tịnh thất, phải treo tràng phan và đủ cả hương hoa. Như Phật còn tại thế thì nên chánh suy nghĩ. Nếu Phật nhập diệt rồi thì an trí hình tượng Phật, mắt nhìn tâm tưởng nhớ, kính đồng như Phật còn tại thế

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật dạy hai cách:

1. Người phát tâm tu hành, nếu vì bận rộn việc chùa hoặc các duyên sự khác, không thể nhập đạo tràng chuyên tu được, thì hành giả nên quán sát các pháp môn của Phật dạy, như trong chương Phổ Nhãn v.v..

2. Nếu khôngduyên sự gì bận rộn, thì hành giả nên lập đạo tràng và phân kỳ mà tu tậpTrường kỳ là 120 ngày, trung kỳ là 100 ngày, đoản kỳ là 80 ngày.

Nếu Phật còn tâi thế, thì hànhg iả chỉ chánh tâm nhớ nghĩ đức Phật, khỏi cần có hình tượng. Nếu Phật nhập diệt rồi, thì nên thờ tượng Phật để mắt nhìn, tâm tưởng, kính như Phật còn tại thế.

 

______

(1)Chữ “Mạt pháp” – Giáo pháp của Phật có chia làm 3 thời kỳ:

1. Chánh pháp, 1000 năm

2. Tượng pháp (mường tượng như chánh pháp) 1000 năm

3. Mạt pháp (rốt ngọn) 10000 năm. Hiện nay (1992) Phật lịch 2536, thế là đã sang mạt pháp 536 năm.

 

***

4. Phật dạy 21 ngày đầu, ở trong tịnh thất

-Trải qua 21 ngày đầu, hành giả kính lạy danh hiệu của các đức Phật trong 10 phương và chí thành sám hối. Nếu gặp cảnh giới tốt, thì hành giả tâm đuợc nhẹ nhàng thư thới (khinh an). Qua 21 ngày rồi, hành giả phải chuyên nhiếp vọng niệm.

 

LƯỢC GIẢI

NGười mới tu, giới đức chưa đủ, thân tâm chưa được thanh tịnh, nên không có năn glực tu định huệ. Vì thế nên lúc ban đầu phải lập đạo tràng. Hành giả trải qua 21 ngày đầu lễ Phậtsám hối. Cũng như cái chén cần rửa cho sạch mới có thể đựng Đề hồ được. Hành giả phải nhứt tâm thật hành như vậy, thì thân mới được thanh tịnh. Trong 21 ngày, hoặc căn lành phát hiện, hay có cảm ứng: hành giả thấy được điềm lành, thời thân tâm sẽ được khoan khoái.

“Cảnh giới tốt”: Như ở trong chiêm bao thấy Phật, hoặc khi làm lễ sám hối thấy hào quang v.v...

 

***

5. Phật dạy an cư 3 tháng theo bồ tát thừa

-Này Thiện nam! Nếu gặp đầu mùa Hạ 3 tháng an cư, thì hành giả phải an trụ nơi hạnh thanh tịnh của Bồ tát, tâm lìa tư tưởng của Thinh văn, không nhờ đồ chúng.

Đến ngày an cư, hành giả phải đối trước Phật phát nguyện như vầy: “Con là Tỳ kheo (tên gì) hoặc Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc hay Ưu bà di, nguyện tu theo hạnh tịnh diệt của Bồ tát thừa, trụ trì nơi thật tướng, lấy đại viên giác làm già lam (chùa). Thân tâm con an cư nơi “Bình đẳng tánh trí” hay “tự tánh Niết bàn”, không có hệ thuộc xứ sở.

Con năy chẳng y theo Thinh văn, con kính thỉnh mười phương chư Phật và các vị Bồ tát cùng với con đồng làm pháp an cư 3 tháng. Con vì một nhơn duyên lớn là tu bồ tát hạnh, cầu chứng quả Vô thượng Diệu giác, nên không hệ phược đồ chúng.

Tu như thế mãn 3 thời kỳ rồi, tùy ý hành giả ra vào vô ngại. Đây gọi là bồ tát thị hiện an cư.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này chia làm 3 phần:

1. Phật dạy hành giả lập thời kỳ tu tập như vậy chưa đủ mà phải an cư 3 tháng, bắt đầu từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch. Người phát tâm bồ đề tu theo viên giác, thì phải an cư theo bồ tát hạnh. Nghĩa là không cần phải tập chúng an cư theo luật tiểu thừa, mà tâm của hành giả phải luôn luôn an trụ nơi hạnh thanh tịnh của Bồ tát. Bởi thế nên trên nguyên văn kinh nói: “Tam rời tư tưởng của Thinh văn, không nhờ đồ chúng”.

2. Đên1 ngày an cư, hành giả phải đối trước Phật bạch như vầy:

“Con tên. thọ giới tỳ kheo hay Tỳ kheo Ni, Ưu bà Tắc (thiện nam) hay Ưu Bà Di (Tín nữ); nay y theo pháp đại thừa, tu theo hạnh tịch diệt của bồ tát, lấy viên giác làm chùa, thân tâm con thường an trụ nơi “tựtánh Niết bàn” hay “bình đẳng tánh trí”.

3. Hành giả đối trước Phật phát nguyện rằng:

“Con nay vì muốn tu hạnh Viên giác, nên không theo luật an cư của thinh văn (tiểu thừa) không tập chúng tăng an cư, mà con chỉ cầu thỉnh 10 phương chư Phật và Bồ tát cùng với con làm pháp an cư trong 3 tháng. Hành giả an cư như thế 3 tháng, sau khi mãn thời kỳ rồi, tùy ý đi tới lui không ngại.

Chữ “Tịch diệt”: Diệt các phiền não, tâm được tịch tịnh, tức là nói: ý theo tâm chơn như không sanh diệt mà tu.

Chữ “thật tướng” Tướng chơn thật, tướng này không sanh không diệt, không cấu không tịnh, không tăng không giảm, không bị thời gian thay đổi, kkhông gian chuyển dời, tức là chỉ cho “chơn như thật tướng”, cũng là cái biệt danh “viên giác”

“Viên giác làm chùa” - Tiểu thừa an cư thì lấy sự tướng là cảnh chùa (già lam) của mình ở, làm nơi tu hành, bồ tát an cư thì lấy lý tánh là Viên giác làm chuà của mình ở tu, nên nói: “lấy Viên giác làm chùa”.

“Bình đẳng tánh trí”. – Hành giả đã an cư nơi thật tướng, tức là tánh Viên giác, nên 6 căn ở thân không tạo nghiệp, 6 thức không dong ruỗi theo 6 trần.

Lúc bấy giờ 5 thức trước, chuyện lại làm “thành sở tác trí”; thức thứ 6 chuyển thành “Diệu quan sát trí”.

Khi hành giả chưa an trụ nơi Viên giác thì thức thứ 7 này chấp ngã, nhơn, bỉ thử. Đến khi hành giả an trụ nơi Viên giác, thì thức thứ 7 chuyển thành “Bình đẳng tánh trí”. Lúc bấy giờ thức thứ 8 không còn bị thức thứ 7 chấp làm “ngã” nữa, nên thức thứ 8 chuyển thành “Đại viên cảnh trí”.

Chữ “niết bàn tự tánh”: cũng gọi là “tánh tịnh Niết bàn”, tức là biệt danh của Chơn như hay Viên giác.

Chữ “không hệ thuộc xứ sở”: tiểu thừa an cư phải có cảnh chùa để làm đạo tràng xứ sở. Đến như bồ tát thì lấy “Niết bàn tự tánh” làm đạo tràng, nên nói: “không hệ thuộc xứ sở”.

Chữ “vô thượng Diệu giác”: quả vị Phật sáng suốt (giác) mầu nhiệm (diệu) không có quả vị nào trên (vô thượng)

 

***

6. Khi thấy thắng cảnh, hành giả chớ nên chấp trước

-Này thiện nam! Như chúng sanh đời mạt pháp muốn tu hành để cầu đạo bồ tát trong khi vào tu 3 thời kỳ này, nếu thấy có các thắng cảnh hiện ra, mà không đúng như hành giả đã nghe thấy, thì quyết không nên chấp thủ.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật dạy hànhg iả khi tu, nếu thấy hiện ra cảnh giới thù thắng, không nên luyến trước.

Hànhg iả khi dụng côn tu hành, cố nhiên sẽ có cảnh giới thù thắng lạ thường hiện ra. Song, nếu sanh tâm chấp trước, không phân biệt chánh tà, thì hành gaỉ dễ mắc lưới ma. Cho nên hànhg aỉ phải thấy các cảnh giới ấy đúng như sự nghe học của mình, nghĩa là lời Phật dạy, hoặc thiện tri thức bảo hay trogn kinh sách dạy như thế nào, thì khi các cảnh ấy hiện ra phải đúng như thế ấy, mới gọi là chơn chính. Trái lạingũ ấm ma hiện (nên xem đoạn NGũ Ấm Ma, trong kinh Lăng Nghiêm)

Phàm người tu hành, không ai chẳng nhơn nghe hiểu rồi sanh lòng tin, nhơn có tin mới tu, nhơn tu mới có chứng, chứng là kết quả của nghe, tin và tu. Thế nên tin, hiểu, tu và chứng trước sau phải hiệp nhau. Nếu chõ chứng (cảnh giới hiện ra) không hiệp với sự nghe thì bất luận hiện ra cảnh giới thiện hay ác, cũng đều là Ma cả.

 

***

7. Tu chỉ (Xa Ma tha)

-Này thiện nam! Như có các chúng sanh tu pháp “chỉ” (Xa ma tha) trước giữ chỗ chí tịnh (rất yên lặng) không khởi vọng niệm nhớ nghĩ; do yên lặng tột bực nên trí giác hiện ra. Như vậy từ khi mới bắt đầu tịnh và ở một thân, cho đến khi khắp cả một thế giới đều tịnh. Cũng thế, “trí giác” bắt đầu hiện ra ở một thân cho đến khắp cả một thế giới đều “giác”.

-Này thiện nam! Khi “trí giác” đã hiện khắp một thế giới, thì trong thế giới ấy nếu có một chúng sanh nào, móng lên một niệm, lúc bấy giờ hành giả đều biết cả. Cho đến trăm ngàn thế giới cũng thế.

Các cảnh giới ấy, nếu không phải đúng như sự nghe của hành giả, thì quyết chẳng nên chấp thủ.

 

LƯỢC GIẢI

Đại ý đoạn này Phật dạy hànhg iả khi tu Định, đến chỗ tột bực, nên trí giác (huệ) phát sinh. Bởi từ một thân tịnh cho đến một thế giới tịnh, nên trí giác phát ra cũng từ một thân cho đến khắp cả thế giới. Vì cả thế giới đều là “trí giác” của hành giả, nên co một chúng sanh nào vừa móng niệm, thì hành giả đều biết hết.

Song những cảnh giới đã hiện ra, phải đúng như sự thấy nghe mà hành giả đã từng nghe thiện tri thức hay trong kinh chỉ dạy, như thế cảnh thấy mới chánh. Nếu trái lạiNGũ ấm Ma hiện.

Ngài Như Sơn nói: “Vì toàn cả thế giới đã thành “giác” nên chúng sanh toàn ở trogn giác tánh của hành gaỉ. Bởi thế nên khi chúng sanh khởi ra một niệm gì, thì hành giả đều biết cả. Cũng như bóng đã hiện trogn gương, nên gương chiếu không sót”.

Tron gkinh Viên giác lược sớ chép: hành g iả tin, hiểu, tu, và chứng tuy thứ lớp không đồng, nhưn gpải không khác. Nghĩa là: “hiểu là hiểu theo chỗ mình Tin, Tu là Tu theo chỗ mình hiểu. CHứng là chứng theo chỗ mình Tu. Nay những cảnh giới củ hành giả chứng, nếu không phải đúng như chổ hiểu, tin và tu, thì không nên chấp thủ”.

 

***

8. Tu quán (ta ma bát đề)

-Này thiện nam! Nếu chúng sanh, tu pháp “quán”, thì trước phải nhớ tưởng mười phươgn các đức Phật và các vị bồ tát, rồi y theo các pháp môn của Phật dạy đó mà siêng năng cần khổ tuần tự tu hành, đặng thành tam muộiphát nguyện rộng lớn, tư huân tập thành chủng tử. Trong lúc tu, nếu có hiện ra những cảnh giới gì mà không dúng như chỗ nghe của hành giả, thì chớ nên chấp thủ.

 

LƯỢC GIẢI

Phật dạy người tu “quán”, trước phải nhớ tưởng các đức Phậtbồ tát rồi y theo các pháp môn của Phật dạy mà siêng năng khổ hạnh tuần tự tu hànhd để thành tam muội. VÀ phải phát đại nguyện huân tập vào tâm thức của hành giả để thành chủng tử.

Trong khi tu, nếu có những cảnh giớihiện ra mà không đúng như chỗ của hành giả đã nghe thầy bạn dạy bảo, hay trong kinh luật chỉ giáo, thì không nên chấp thủ; vì đó là Ma hiện.

“Tam muội” – Xem đoạn giải thứ 2 trogn chương PHổ Hiền Bồ tát.

 

***

9. Chỉ quán song tu (thiền na)

-Này thiện nam! Nếu có chung sanh muốn tu Thiền na (Chỉ quán song tu) thì trước phải tu pháp môn sổ tức; trong âm hành giả biết rõ được mỗi niệm khi sanh, trụ, dị và diệt; phân biệt được ranh giới và số mục của các niệm. cho đến khắp cả bốn oai nghi (đi, đứng, nằm, ngồi). Hành gia cũng đều biết; cũng như con mắt thấy các vật dụng. trogn khi tu nếu thấy có hiện ra cảnh giới gì không đúng như sự thấy nghe của hành giả thì không nên chấp thủ.

Đây là phương tiện đầu tiên tu hành của hành giả, tức là ba pháp quan1. NẾu các chúng sanh tinh tấn siêng tu ba pháp quán này được hoàn toàn, tức là Như Lai xuất hiệnthế gian vậy.

 

LƯỢC GIẢI

Ngaì Viên giác bồ tát hỏi Phật: Hành giả đối với 3 pháp quán, tu pháp nào trước? - Phật dạy trước tu pháp “chỉ” giữ tu pháp “Quán”, sau tu “chỉ, quán song tu”.

Đoạn này Phật dạy “Chỉ, Quán song tu”. Người tu pháp này, trước phải tu pháp sổ tức (đếm hơi thở). Nhờ có điều hòa hơi thở, nên tâm được tịnh (chỉ); nhờ tâm được tịnh nên những vọng niệm thô tế, khi sanh, trụ, dị và diệt, giới hạn của nó dài ngắn, lâu mau, nhiều hay ít, hànhg iả đều biết được hết (quán)

Hành gaỉ tịnh tọa, dụng tâm tu pháp quán như vậy, khi mới thành công, thời trong tất cả thời gian động tịnh như đi, đứng, nằm ngồi v.v... hành giả đều hiểu biết phân biệt được rõ ràng, mmỗi niệm, khi sanh, trụ, dị và diệt, giới hạn dài ngắn hay lâu mau và ít nhiều v.v...

Đến lúc thành công hoàn bị, thì torng trăm ngàn thế giới, có những vật gì, cho đến có bao nhiêu hạt mưa, hành giả cũng đều biết được hết. Không phải hành giả hiểu biết một cách lờ mờ, mà hiểu biết một cách rõ ràng; cũn gnhư mằt xem thấy các sự vật thụ dụng vậy.

 

***

10. Tóm tắt

-Này Thiện nam! Nếu chúng sanh đời mạt pháp, tâm muốn cầu đạo, nhưng vì nghiệp chướng đời trưóc nặng nề, căn tánh ám độn, nên tu hành khó thành tựu, thì phải siêng năng sám hối; thường sanh tâm trông mong đoạn trừ các phiền não: thương, ghét, tật đố, dối nịnh v.v... và tìm cầu quả vị cao thượng thù thắng.

Đối với 3 pháp quán thanh tịnh này, tùy hànhg iả tu một pháp. Nếu tu pháp quan1 này không thành tựu thì tu pháp quan1 khác, phải lần hồi cầu chứng, chớ nên thối tâm buông bỏ.

 

LƯỢC GIẢI

Đại ý đoạn này Phật dạy: NẾu chúng sanh đời sau căn tánh ám độn, nghiệp chướng nặng nề, muốn cầu Phật đạo, nhưng không thành tựu, thì phải siêng năng sám hối, tâm thường trông mong đoạn các phiền não. Đối với 3 pháp quán, nếu tu phap1 này không thành tựu thì tu pháp khác, dốc lòng cầu chứng Đạo, không nên thối tâm.

 

***

11. Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên

Khi ấy đức Thế Tôn, muốn tóm lại các nghĩa này, nên nói bài kệ rằng:

Viên Giác ông nên biết:

TẤt cả các chúng sanh

Muốn cầu đạo vô thượng,

Phải lập ba thời kỳ:

Hai mươi mốt ngày đầu

Sám hối nghiệp vô thỉ,

Vậy sau chánh suy nghĩ;

Nếu phi cảnh đã nghe,

Thì chẳng nên chấp thủ

Pháp “chỉ” rất tịch tịnh

Pháp “Quán” chánh nhớ nghĩ,

THiền na rõ đếm hơi,

Thế gọi là tịnh quán.

NGười siêng năng tu tập,

Thế gọi Phật hiện thế.

Kẻ độn căn chẳng thành,

Thì phải siêng sám hối

Các tội từ vô thỉ.

Các tội chướng tiêu rồi,

Cảnh Phật liền hiện trước

 

LƯỢC GIẢI

Đại ý bài kệ này Phật dạy các chúng sanh muốn cầu đạo vô thượng bồ đề, thì phải phân ba thời kỳ tu tập. Khi vào tịnh thất, trong 21 ngày đầu, hành giả phải chí tâm sám hối các nghiệp chướng từ vô thỉ, sau rồi chánh tâm suy nghĩ.

Trong lúc tu, như có hiện ra cho cảnh giới gì, nếu không đúng với chỗ thấy nghe của hành giả, thì chớ nên chấp thủ.

Nếu hành gaỉ siêng năng tu tập ba phép quán thanh tịnh là: chỉ, quán và chỉ quán song tu thì gọi là Phật hiện thế.

NẾu người nào căn tánh ám độn không thể tu ba pháp môn này được thì nên siêng sám hối các tội từ vô thỉ; khi các tội chướng tiêu diệt rồi, thì cảnh Phật liền hiện ra trước mặt.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11079)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16444)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11894)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12077)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12768)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12724)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10230)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13963)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10218)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13697)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16250)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11949)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12965)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11637)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12665)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10791)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10976)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10931)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11889)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12752)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11061)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12611)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11313)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12501)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14097)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10843)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10510)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11174)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11986)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13119)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12345)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15330)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14319)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12089)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15353)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11995)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12391)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11156)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12073)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10599)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12550)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13155)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14811)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12668)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16540)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19633)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12249)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13492)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11938)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11622)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12756)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14498)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12589)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15656)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13603)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12887)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 18007)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11153)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12170)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13035)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant