Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần Năm : Điều Hoà

07 Tháng Mười 201000:00(Xem: 3919)
Phần Năm : Điều Hoà

PHẦN NĂM
ĐIỀU HÒA

A. LÚC BẮT ĐẦU HỌC TỌA THIỀN, TU HÀNH CHÁNH PHÁP CỦA MƯỜI PHƯƠNG CHƯ PHẬT:

Trước hết phải phát Bồ Đề nguyện, nguyện độ tất cả chúng sanh, nguyện thành vô thượng Phật đạo. Tâm phải vững vàng, tinh tấn dũng mãnh, không tiếc thân mạng, thề nếu không thành Phật đạo, quyết không thối chuyển.Sau đó, chính trong mỗi một niệm thường suy nghĩ thật tướng của các pháp, biết tất cả các pháp, nào là nội căn, ngoại trần, vọng thức hoặc các pháp phiền não, các pháp nhân quả đều do tâm mà có, chứ không phải thật có. Nếu tâm không phân biệt thì các pháp vốn không có tự tánh, nếu tâm không nhiễm trước thì thoát khỏi luân hồi sanh tử. Suy nghĩ như thế thật kỹ càng không còn chỗ nghi hoặc nữa, mới có thể theo thứ lớp mà tu tập Chỉ Quán.

Muốn tu tập được kết quả tốt, hành giả cần phải chuẩn bị, cũng như người thợ làm đồ gốm, muốn có những chén bát hay ấm bình tốt thì trước hết phải nhồi đất cho nhuyễn, sau đó mới bắt, nặn được các đồ dùng ấy tốt được. Và cũng như người gảy đàn, trước hết phải so dây cho đúng, khi gảy mới có được những âm ba vi diệu. Cũng thế, hành giả cần phải điều hòa năm việc sau đây mới tránh được những khó khăn, trở ngại về sau:

1)Điều hòa ăn uống:

Ăn uống cốt để nuôi thân cho khỏe mạnh, để có khả năng tu tập chánh pháp. Nếu ăn quá no thì tức bụng, hơi thở không đều, huyết mạch không thông, không thể ngồi lâu mà thực tập được. Nếu ăn quá ít thì thân thể suy nhược, ý niệm không vững, khó bề tọa thiền. Nếu ăn những thứ tanh nồng thì tâm trí hôn mê, nếu ăn những vật không thích hợp thì dễ sanh bệnh hoạn. Vì thế trong lúc tu định cần phải thận trọng điều hòa sự ăn uống.

2. Điều hòa sự thiếp ngủ:

Thiếp ngủ quá nhiều thì hoang phế sự tu hành, nó còn làm cho tâm trí hôn ám, thiện căn sút kém. Nếu ngủ quá ít thì trở ngại cho sức khỏe. Cần nên giác ngộ sự vô thường, điều hòa sự thiếp ngủ để cho ý niệm rõ ràng, tâm thức sáng suốt, chứng được Tam-muội. Sinh mạng vô thường, mỗi ngày càng đến gần chỗ chết, không nên vì nhân duyên thiếp ngủ mà luôn bỏ việc tu hành.

3. Điều hòa thân thể:

Điều hòa thân thể, điều hòa hơi thở, điều hòa tâm niệm cần phải làm chung một lần. Lẽ ra không nên nói riêng, nhưng đây nói riêng về điều hòa thân thể chỉ cốt để cho dễ hiểu mà thôi. Người tu thiền, trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi đều cần phải điều hòa thân thể, cho thân thể được khoan khoái, thì hơi thở mới được nhẹ nhàng. Cần ngồi trên giường êm, như giường có mặt bằng dây đan, hoặc có nệm lót để khỏi bị tê. Nên ngồi bán già, nếu không kiết già được, nên mặc áo quần rộng rãi, và nới lỏng thắt lưng, nhưng lại cần đeo dây hoặc cài kim để hạ y khỏi tụt xuống. Sau đó để bàn tay trái lên trên bàn tay phải rồi kéo về gần thân, và đặt trên chân cho thật cân đối. Ngồi xuống như thế rồi uốn mình bảy tám lần, nhưng vẫn để tay chân nguyên như cũ, cốt làm cho các khớp xương giãn ra. Nếu trường hợp bị tê bại, thì nên ngồi ghế nệm mềm, hai chân thỏng xuống, hạ hai đầu gối sát nhau, và hai tay để trên hai bắp vế, rồi cũng uốn mình bảy tám lần như thế. Phép ngồi sau này không bằng phép trước, nhưng đối với những người tê bại thì lại có thể tác dụng ngồi được lâu hơn. Uốn mình xong thì ngồi thẳng thắn, xương sống không uốn cong và cũng không thẳng quá, đầu cổ ngay ngắn, không ngữa, mặt ngó thẳng ra trước.

Thứ nữa, nên thở ra những trược khí. Nghĩa là thở vào cho sâu, rồi mở miệng phóng hơi ra, phóng từ từ nhẹ nhàng, không nên thơ?i ra thành gió. Phóng trược khí như thế ba lần, và trong lúc ấy tưởng tất cả hơi uế trược trong thân và chỗ nào không thông suốt đều nhờ phóng trược khí đó mà được thông suốt. Xong rồi thì ngậm miệng, môi răng vừa dính với nhau, không bậm chặt, lưỡi thì dính lên vòm hàm trên, mắt nhắm vừa không thấy ánh sáng mà thôi. Nên ngồi nghiêm chỉnh như thế, thân, đầu và tứ chi tuyệt đối không lay động. Đó là phương pháp điều hòa thân thể, cốt yếu làm cho thân không buông lơi, không co rút. Lại cũng có thể tập Chỉ Quán trong lúc đi, lúc đứng, lúc nằm. Đi thì chậm rãi, khoan thai, để hơi thở được nhẹ nhàng. Đứng thì ngay thẳng, hai tay duỗi xuống, phía sau nên dựa vào tường hoặc dựa vào một cái gì khác để tránh lay động. Nằm thì theo phương thức cát tường của chư Phật, cốt yếu là phải tỉnh táo, không được thiếp ngủ.

4 Điều hòa hơi thở:

Hơi thở có bốn tướng: gió, suyển, khí, tức. Khi hơi thở trong mũi ra vào có tiếng, đó là tướng gió, khi hơi thở tuy không có tiếng, lúc ra vào còn bực tức không thông, đó là tướng suyển. Khi hơi thở tuy không có tiếng, không bực tức, nhưng ra vào không được nhẹ nhàng, đó là tướng khí. Khi hơi thở không có tiếng, không ngưng kết, không thô phù, ra vào nhẹ nhàng như không có, giúp cho ý niệm an lành vui vẻ, thì đó mới làtướng tức.

Hơi thở còn có tướng gió thì tâm tán loạn, hơi thở còn có tướng suyển thì tâm ngưng trệ, hơi thở còn có tướng khí thì tâm mệt nhọc, như thế chưa tu định được. Cần phải giữ hơi thở luôn luôn có tướng tức thì mới đắc định. Trong lúc tham thiền, nếu khởi sinh tướng gió, tướng suyển, tướng khí thì biết là hơi thở chưa điều hòa; do đó không nên quán tưởng, mà phải chú trọng điều hòa thân thể bằng ba phương pháp:

a)Hướng tâm ở dưới rốn.

b)Buông lơi thân thể một ít.

c)Quán hơi thở ra vào thông suốt cùng khắp thân thể, không có ngăn ngại, đến khi hơi thở không rít, không trơn, tức là không ngưng trệ, không thô phù, thì hơi thở được điều hòa và tâm dễ vào định.

5. Điều hòa tâm niệm:

Điều hòa tâm niệm có ba giai đoạn:

Trong lúc nhập định.

Trong lúc trụ định.

Trong lúc xuất định.

Trong lúc nhập định:

Điều hòa tâm niệm có hai phương pháp:

Điều phục những loạn tướng, không có buông lung.

Điều khiển tâm niệm yên lành, không chìm, không nổi, không lơi, không gấp.

Nếu trong lúc tọa thiền tâm trí mờ tối không ghi nhớ rõ, đầu muốn cúi xuống, đó là tướng chìm, lúc bấy giờ nên chuyên tâm an trụ nơi đỉnh mũi, khiến tâm chú ý trong duyên, không bị phân tán, thì trị được tướng chìm. Nếu trong lúc tọa thiền tâm hay lay động, thân cũng không yên, nghĩ đến việc khác ở ngoại cảnh, đó là tướng nổi, lúc bấy giờ nên an tâm hướng xuống dưới, để tâm an trụ nơi rốn, chế phục các loạn niệm, như thế trị được tiếng nổi và làm cho tâm được bình tĩnh, dễ yên lặng. Nếu trong lúc tọa thiền tâm niệm tản mác, thân muốn nghiêng ngả, hoặc trong miệng ra nước bọt, hoặc tâm niệm tối tăm, thì đó là tướng lơi, lúc bấy giờ cần chỉnh đốn thân thể, quán tưởng gấp nhặt thêm để tâm an trụ torng duyên, thân thể bình tĩnh, đó là cách trị tướng lơi. Nếu trong lúc tọa thiền, đương nhiếp tâm quán tưởng, nhân đó tâm hướng lên trên quá trong ngực đau nhói, đó là tướng gấp, lúc bấy giờ nên buông lơi tâm tưởng một ít, tâm nghĩ trở xuống và hết đau ngực, đó là cách trị tướng gấp.

Tâm niệm còn có thể có một số tướng khác, nhưng cốt yếu trong lúc nhập định là phải điều hòa tâm niệm, không chìm xuống, không nổi lên, không gấp rút, không buông lơi, cho đến không rít qua, không trơn quá thì tâm niệm sẽ được điều hòa. Và trong lúc nhập định, phải từ thô phù, đến tế nhị.

Thân là thô phù, Tâm là tế nhị, Tức là ở chặng giữa. Phải điều hòa từ thô phù đến tế nhị, khiến cho tâm được yên lặng, đó là phương tiện ban đầu trong lúc nhập định.

Trong lúc trụ định:

Cần điều hòa ba việc: Thân, Tức và Tâm.

Người thực hành trong một thời tọa thiền dài đến cả ngày, ngắn chỉ một giờ, đương lúc nhiếp niệm quán tưởng, cần phải khéo biết những tướng điều hòa hoặc không điều hòa của Thân, Tức và Tâm. Nếu trước kia tuy đã điều hòa thân thể xong, nhưng thân hoặc lơi, hoặc gấp, hoặc xiên, hoặc cong, hoặc cúi hoặc ngửa, không được đoan chính, thì khi biết nên sửa lại cho đúng đắn. Trong lúc tọa thiền tuy thân được điều hòa, nhưng hơi thở lại không điều hòa, như có tướng gió, tướng suyển, tướng khí. thì nên dùng phương pháp trước kia để điều hòa hơi thở luôn luôn giữ được tướng tức, nhẹ nhàng, lâng lâng, như có như không. Trong lúc tọa thiền thân thểhơi thở tuy đã được điều hòa, mà tâm niệm thì lại có những tướng chìm, nổi, lơi, gấp, khi phát hiện được phải theo những phép ở trên kia mà điều hòa cho thích hợp.

Nói tóm lại, trong một thời tọa thiền, Thân, Tức và Tâm luôn luôn phải được điều hòa, xem xét đúng đắn và điều hòa thích đáng thì tọa thiền mới được an lành, trừ được trở ngại và dễ dàng nhập định.

Trong lúc xuất định:

Cũng phải điều hòa Thân, Tức và Tâm.

Người thực hành tọa thiền xorg, muốn xuất định thì trước hết buông tâm ra, duyên với việc khác, đoạn mở miệng phóng hơi ra và quán tưởng hơi thở từ trong toàn thân theo ý mình mà tản đi. Sau đó, lay động thân nhẹ nhàng, rồi động đến vai, cánh tay, đầu cổ, tiếp đến hai chân, khiến toàn thân mềm mại. Thứ nữa, lấy tay xoa khắp các lỗ chân lông, rồi xoa tay cho ấm, háp vào hai mắt, sau đó mở mắt ra.

Người thực hành đợi lúc thân thể bớt nóng, mới tùy ý ra vào thiền định. Nếu không làm như vậy, khi ngồi, tâm có thể được an trụ, đến khi xuất định mà quá gấp rút thì có thể làm cho nhức đầu, đau xương, đau mình, như mắc bệnh phong. Do đó sau này tọa thiền không được yên ổn. Vì thế, cần phải điều hòa thân thể; hơi thởtâm niệm trong lúc xuất định, phải xuất dần dần, từ tế nhị đến thô phù mà không quá gấp rút.

B. CÁC PHÁP MÔN PHƯƠNG TIỆN:

Phàm thực hành Chỉ Quán, cần phải có đầy đủ Năm pháp môn phương tiện sau đây:

1. muốn:

Phật dạy: "Tất cả thiện pháp lấy ý muốn làm cội nguồn". Người tu hành phải muốn xa rời tất cả vọng tưởng, điên đảo thế gian, muốn được tất cả thiền định, trí tuệ, đó cũng gọi là chí, cũng gọi là nguyện, cũng gọi là ưa, cũng gọi là thích, người có chí nguyện ưa thích tất cả những pháp môn tu hành nên gọi là muốn.

2.Tinh tiến:

Tinh tiến là siêng năng tu hành, giữ vững cấm giới, trừ bỏ ngũ cái, đầu hôm và gần sáng chuyên tu không rời, cũng như người dùi lửa, (người xưa lấy lửa bằng cách dùng hai vật cọ xát vào nhau, sự ma sát tạo sức nóng cao độ thì có lửa), chưa nóng thì quyết định không dừng nghĩ.

3. Niệm:

Niệm là nghĩ đến thế gian giả dối không đáng kể, nghĩ đến thiền định rất đáng quý trọng. Nếu được thiền định thì đầy đủ tất cả, phát sanh vô lậu trí, có thần thông đạo lực, thành bậc vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, độ khắp chúng sinh nên rât đáng quý.

4. Trí tuệ thiện xảo:

Người tu hành trí tuê? thiện xảoso sánh cái vui thế gian với cái vui thiền định trí tuệ, hai bên được gì, mất gì, bên nào khinh, bên nào trọng. So sánh như thế, người tu hành sẽ thấy cái vui thế gian là vui ít khổ nhiều, giả dối, không thật, dầu có mất đi cũng chẳng mất mát bao nhiêu. Còn cái vui thiền định trí tuệvô lậu, vô vi, vắng lặng, rộng lớn, xa rời sinh tử, dứt hẳn khổ não. Được cái vui như thế thì trọng đại biết dường nào, do đó càng vững tâm tu thiền định.

5. Nhất tâm:

Đã biết niềm vui thế gian có nhiều tác hại, có nhiều khổ não, đã biết công đức thiền định trí tuệ rất đáng tôn quý, thì nên nhất tâm quyết định thực hành Chỉ Quán. Tâm ấy như kim cương, dẫu cho thiên ma ngoại đạo ngăn cản phá hoại, dẫu cho đường tu chưa đạt được gì cũng quyết khơngthay đổi. Hành giả cần phải đầy đủ những phương tiệïn như thế thì tâm mới quyết định, cũng như người đi đường cần biết đường đi khó hay dễ thế nào thì mới quyết tâm đi tới.Vì thế, trong Kinh đức Phật có dạy: "Không có Trí thì không có Thiền, không có Thiền thì không có Trí".

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2224)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 32575)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6471)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 3821)
Tạo sao gọi là Phổ Môn? vì tự tính của mình phổ biến khắp hư không pháp giới, nên gọi Phổ Môn.
(Xem: 5075)
“Quán” là xem xét, “Thế Âm” là âm thanh của thế gian. Quán Thế Âmxem xét âm thanh thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ-tát.
(Xem: 11091)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30224)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12031)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 3252)
Một bài pháp được ban cho chư Tăng Ni ở International Mahayana Institute tại Boudhanath, Nepal, ngày 2 tháng 2, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính.
(Xem: 34443)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 52110)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 21643)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9517)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 3067)
"Niệm Phật" nghĩa là xưng danh hiệu - hay nhớ tưởng đến hình tướng, bản nguyện hay công đức của một đức Phật - như Phật Thích-ca hay Phật A-di-đà.
(Xem: 10296)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12519)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12648)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16112)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 13693)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14227)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9116)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11186)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 11403)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 12511)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 20561)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 17462)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11694)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 4297)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, Luận Tập Bộ Toàn; Kinh văn số 1678. Pháp Hiền dịch ra chữ Hán. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12638)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10179)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 16278)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 11636)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14645)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11905)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16688)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 12624)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 51764)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 12520)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 9847)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 14354)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 19980)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13621)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15289)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17362)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 16679)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 13379)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 12363)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 11958)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13175)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12414)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 25376)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 14419)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 28169)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 10198)
"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant