Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần Mười : Chứng Quả

07 Tháng Mười 201000:00(Xem: 3817)
Phần Mười : Chứng Quả

PHẦN MƯỜI
CHỨNG QUẢ

Hành giả khi thực tập Chỉ Quán như vậy, thì có thể rõ biết tất cả các pháp đều do tâm sinh, nhân duyên hư giả không thật, nên bản tánh là rỗng không. Biết được tánh rỗng không của các pháp thì không thấy có tướng sanh tự các pháp. Như thế là được thế-chân-chỉ. Lúc bấy giờ, trên, không thấy quả vị Phật có thể cầu, dưới không thấy chúng sanh có thể độ. Đó gọi là: tùng-giả-nhập-không-quán, cũng gọi nhị-đế-quán, cũng gọi là tuệ nhãn, cũng gọi là nhất-thiết-trí. Nếu mãi trú ở nơi quán này thì sa vào hàng Thanh văn, Duyên giác, tâm không ưa muốn giáo hóa chúng sanh, chưa làm cho cõi Phật thanh tịnh. Vì thế, những người chỉ thấy tất cả các pháp đê?u rỗng không, vắng lặng, đều vô sanh, vô diệt, vô vi, thì rốt cuộc không phát được Bồ-?ề tâm. Đó là vì định nhiều tuệ ít, nên không thấy Phật tánh.Những vị Bồ Tát, vì tất cả chúng sanhthành tựu tất cả Phật Pháp, thì không nên chấp trước vô vi, an trụ trong tịch diệtcần tu pháp Tùng-Không-Nhập-Giả_Quán. Thực hành quán này là quán tưởng rằng tuy tâm tánh là rỗng không, nhưng trong lúc duyên khởi đối đải cũng sanh ra tất cả các pháp, nó như huyễn như hóa và cũng có những điều thấy, nghe hay biết sai khác không đồng. Hành giả khi thực hành phép quán này thì có thể trú trong không tịch, tu đủ các hạnh, phân biệt được căn cơ chúng sanhthuyết pháp vô lượng. Đến khi thành tựu được vô ngại biê?n tài, có khả năng làm lợi ích cho Lục đạo chúng sanh thì được phương tiện tùy duyên chỉ. Tùng Giả Nhập Không Quán cũng gọi là Bình đẳng Quán, cũng gọi là

Pháp nhãn, cũng gọi là Đạo chủng trí. Bồ Tát trú trong quán này, sức tu tuệ thêm nhiều, nhưng tuy thấy Phật tánh mà chưa được rõ ràng, vì hai pháp Tùng-Giả-Nhập-Không Quán và Tùng-Không-Nhập-Giả Quán còn là pháp quán phương tiện, chứ chưa phải là chánh quán vậy. Gọi là phép quán phương tiện, vì do hai phép quán này có thể vào Trung đạo đệ nhất nghĩa quán.

Nếu Bồ Tát muốn đầy đủ tất cả Phật Pháp trong một niệm thì cần áp dụng pháp Tức nhị biện phân biệt chỉ, thực hành Trung đạo chánh quán. Tu phép chánh quán này thì có thể biết tâm tánh không phải chân, không phải giả, làm cho cái tâm duyên chân giả dừng nghỉ, thế cũng gọi là Chánh đế quán. Tâm tánh không phải không, không phải giả, mà không phá hoại các pháp không, giả. Nhận rõ như thế thì thông suốt được trung đạo, soi khắp được chân đếtục đế nơi tự tâm, thấy được hai đế trung đạo nơi tất cả các pháp, lại cũng không chấp trước hai đế trung đạo, vì không có tánh gì là tánh quyết định vậy. Đó gọi là Trung đạo chánh quán.

Trung Luận có câu kệ:

Các pháp nhân duyên sanh,
Tôi bảo là rỗng không
Cũng gọi là giả danh
Cũng là nghĩa trung đạo."

Đi sâu vào ý nghĩa câu kệ đó, thì chẳng những nhận rõ đầy đủ các tướng của trung đạo chánh quán mà cũng rõ thêm ý thú của hai phép phương tiện quán. Nên biết Trung đạo chánh quán tức là Phật nhãn, là Nhất thiết chủng trí. Nếu an trụ nơi quán này, thì Định và Tuệ cân bằng, thấy rõ được Phật tánh, an trụ nơi Đại thừa, đường tu bằng phẳng, đi mau như gió, tự nhiên lần về bể Chánh đạo của Như Lai, làm việc Như Lai, tự trang nghiêm bằng sự trang nghiêm của Như Lai, được lục căn thanh tịnh, vào cảnh giới của Phật. Đối với tất cả các pháp không còn nhiễm trước, tất cả các pháp chư Phật, đều được hiện tiền, an trụ nơi Định Thủ Lăng Nghiêm, thành tựu vô lượng Tam-muội, vào khắp cõi Phật mười phương, giáo hóa chúng sanh góp phần làm cho cõi Phật đều trang nghiêm thanh tịnh, cúng dường Thập phương chư Phật, thọ trì tất cả Phật Pháp, đầy đủ tất cả các hạnh, các Ba-la-mật, chứng địa vị Đại Bồ-?ề ngang hàng với các đức Văn Thù, Phổ Hiền, và trong thân, pháp tánh thường trụ, được chư Phật khen ngợi, thọ ký, đi đến thị hiện tám tướng thành Phật.

Về những tướng chứng quả trong Kim Cang tâm không thể nghĩ bàn được, nhưng xét theo giáo lý vẫn không rời hai phép Chỉ - Quán.Điều cốt yếu nhất là hành giả cần phát thệ nguyện trừ cho được Ba chướng và Năm cái, vì nếu không trừ được thì dầu siêng năng tu hành đến đâu cũng không ích gì.

[1] Pháp Hoa Tam Muội là pháp Đại định trong kinh Pháp Hoa. Đức Phật Ngài thuyết rất nhiều phápTam Muội trong kinh Pháp Hoa. Người nào tu hành những phương pháp ấy mà đắc thần thông, được thấy Phật hoặc các vị Bồ Tát tức là ngộ được pháp Pháp Hoa Tam Muội.

[2] Nhà Trần ở vào thời đại Nam Bắc Triều (420-588) của Trung Hoa, tức là các nước Tống-Tề-Lương và Trần của Nam Triều.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2224)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 32590)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6472)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 6435)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 3830)
Tạo sao gọi là Phổ Môn? vì tự tính của mình phổ biến khắp hư không pháp giới, nên gọi Phổ Môn.
(Xem: 5075)
“Quán” là xem xét, “Thế Âm” là âm thanh của thế gian. Quán Thế Âmxem xét âm thanh thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ-tát.
(Xem: 11092)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30226)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12035)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 3252)
Một bài pháp được ban cho chư Tăng Ni ở International Mahayana Institute tại Boudhanath, Nepal, ngày 2 tháng 2, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính.
(Xem: 34447)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 52113)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 21644)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9517)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 3067)
"Niệm Phật" nghĩa là xưng danh hiệu - hay nhớ tưởng đến hình tướng, bản nguyện hay công đức của một đức Phật - như Phật Thích-ca hay Phật A-di-đà.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12525)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12650)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16114)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 13696)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14228)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9120)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11187)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 11405)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 12512)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 17464)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 31739)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11694)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 4297)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, Luận Tập Bộ Toàn; Kinh văn số 1678. Pháp Hiền dịch ra chữ Hán. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12642)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10183)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 16280)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 11644)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14647)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11908)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16688)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 12626)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 51768)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 12520)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 9848)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 14356)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 19982)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13621)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15290)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17364)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 16683)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 13379)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 12366)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 11962)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13177)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12414)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 25379)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 14419)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 28176)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 10198)
"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant