Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tam Qui

10 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 10390)
Tam Qui

PHẬT HỌC THƯỜNG THỨC

Tâm Minh Lê Đình Thám

TAM QUI

Một người phát nguyện tín ngưỡng đạo Phật, xin thọ phép Tam quy trước Tam bảo thì được gọi là tín đồ đạo Phật. Tam quyquy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Do Phật, Pháp, Tăng dìu dắt chúng sanh ra khỏi cái khổ luân hồi, nên chúng sanh rất quý trọng và tôn làm Tam bảo.

Pháp giới tánh duyên khởi ra thế giới, chúng sanh từ vô lượng, vô số kiếp về trước. Chúng sanh thì sanh, trụ, dị, diệt, liên tục mãi mãi. Thế giới thì thành, trụ, hoại, không, cũng liên tục mãi mãi, không lúc nào dừng nghỉ, như bánh xe xoay tròn nên gọi là luân hồi.

Chúng sanh mới sanh ra thì gọi là sanh, tiếp tục tồn tại thì gọi là trụ, chuyển biến không ngừng thì gọi là dị và cuối cùng phải chết thì gọi là diệt. Thế giới khi còn ở thể hơi vô hình thì gọi là không, khi bắt đầu đọng lại, cho đến thành một khối đất cứng, có cây, có cỏ, có người, có vật thì gọi là thành, khi tiếp tục tồn tại không có sự thay đổi lớn lắm thì gọi là trụ, khi bắt đầu tan rã không có người, vật và cũng không còn cây cối thì gọi là hoại, và khi trở lại biến ra hơi thì gọi là không. Thời gian của một thế giới thành rồi trụ, trụ rồi hoại, hoại rồi không thì gọi là một kiếp. Mỗi thế giới có một trời riêng của thế giới ấy, phạm vi giáo hóa của một Đức Phật, có hàng ngàn triệu mặt trời, tức là hàng ngàn triệu thế giới, gồm lại thành một Phật sát. Vô lượng, vô biên Phật sát kết hợp với nhau thành một tầng và độ hai mươi tầng như thế, chồng lên nhau thì thành một hoa tạng thế giới và các hoa tạng thế giới cách xa nhau đến mức mà con người không thể nào tưởng tượng nổi.

Trong hàng triệu thế giới của một Phật sát, cái thì đương thành, cái thì đương trụ, cái thì đương hoại, cái thì đã thành không, nên không thể nói vũ trụ bắt đầu từ đâu và lúc nào thì diệt, mặc dầu mỗi thế giới đều có thành, trụ, hoại, không. Từ cõi Tứ thiền trở lên, thì không bị sự thành, trụ, hoại, không của thế giới chi phối, nên chúng sanh ở các cõi đó, có thể sống rất nhiều kiếp.

Chúng sanh luân hồi mãi mãi trong vô lượng kiếp, chịu nhiều đau khổ, nên có người đã giác ngộ, muốn tìm cách ra khỏi sống, chết. Do lòng trông mong ấy của chúng sanh, nhiều ngoại đạo, tà giáo đã xuất hiện, lừa gạt chúng sanh, như cho trẻ con cái bánh vẽ, hoặc bảo rằng, lên thiên đường thì sống mãi không chết, làm cho chúng sanh chìm đắm mãi trong bể khổ. Trong những người tìm đạo giải thoát, có một số người suy xét nơi tâm, nơi cảnh hiện tiền, phát minh ra đạo lý nhân duyên, rồi cố gắng tu tập, đi đến diệt trừ ngã chấp, ra khỏi luân hồi, đó là các vị Độc giác. Vô lượng vô số kiếp về sau, có một vị Độc giác phát lòng từ bi rộng lớn, không nỡ để cho chúngsanh bị mãi cái khổ luân hồi, nên kiên trì hiện ra nhiều thân, trong nhiều loài mà hóa độ chúng sanh. Do tâm từ bi hóa độ ấy, vị Độc giác này, càng ngày càng đi sâu vào bản tánh của mọi sự, mọi vật, đi đến đầy đủ công đức trí tuệ, giác ngộ được Pháp giới tánh, phát hiện rồi nhập một với Pháp giới tánhthành Phật đạo, đó là Đức Phật Uy Âm vương, Đức Phật đàu tiên trong vũ trụ vô cùng tận. Nhờ công đức hóa độ của Đức Phật Uy Âm Vương, vô lượng vô số chúng sanh đã phát Bồ-đề tâm, tu theo Phật pháp, phổ độ chúng sanh và thành vô lượng, vô số Phật. Như thế, tất cả chư Phật đều do tu tập mà thành, mặc dầu pháp giới tánh sẵn có, không hề thêm bớt.

Chư Phật giác ngộgiác ngộ cái mê lầm của chúng sanh, chúng sanh mê lầmmê lầm cái giác ngộ của Phật.

Thật tế, chúng sanh chỉ là những biểu hiện của pháp giới tánh, chỉ do pháp giới tánh trùng trùng duyên khởi mà có. Sẵn có pháp giới tánh, chúng sanh không biết trực nhận, lại lầm nhận cái thân thường thường thay đổi, cái tâm thường thường chuyển biến là mình, lại lầm chấp có cái ta thật, có ngoại vật thật, nên phải chịu sống rồi chết, chết rồi sống, luân hồi mãi mãi trong lục đạo. Cái mê lầm như thế, thì gọi là vô minh, chỉ khi nào không còn ngã chấp, pháp chấp, giác ngộ vô minh, và dứt sạch vô minh, thì mới nhập một được với pháp giới tánh, tức là bản lai tự tánh. Khi nhập một được với pháp giới tánh, thì được gọi là Như Lai, là vì bản tánh chân như, theo duyên phân biệt của chúng sanh, mà lượng ra vô lượng thân thể hóa độ, nên gọi là Như Lai. Các đức Như Lai đều bình đẳng, không có sai khác, nhưng cái duyên của các Ngài đối với chúng sanh, lại theo tâm phân biệt của chúng sanh mà có sai khác. Các đức Như Lai hiện ra vô số thân, làm nhiều việc lợi ích cho chúng sanh để kết duyên. Khi nhân duyên đã thành thục, đối với chúng sanh trong hàng ngàn triệu thế giới của một Phật sát, thì các đức Như Lai lại hiện ra thân Phật trong tất cả các thế giới ấy để hóa độ.

Đức giáo chủ của chúng tađức Phật Thích-ca Mâu-ni. Ngài là một ứng thân trong vô lượng vô biên ứng thân của đức Phật Tỳ-lô-xá-na (Vairo-cana). Ngài hiện ra thân người trong cõi này, vớiđủ các tướng phàm phu, rồi thị hiện xuất gia cầu đạo, thị hiện tự mình tu tập, khi nhận thấy các ngoại đạo không phải là đạo giải thoátcuối cùng, ngồi dưới cây Bồ-đề, tự mình suy xét, dứt sạch vô minhthành Phật đạo. Sau khi thành Phật, đức Phật Thích-ca Mâu-ni chu du nhiền nơi, thuyết pháp độ sanh, đem những phương pháp tu tập để tự giải thoát, để tự giác, giác tha, đi đến giác hạnh viên mãn, mà dạy bảo cho các hàng đệ tử.

Sau khi Phật nhập diệt, các đại đệ tử của Phật kết tập những lời Phật dạy, thành các bộ kinh, các vị còn kết tập riêng những giới luật của Phật đã dạy, thành các bộ luật. Lại trong khi Phật tại thế và nhất là sau khi Phật nhập diệt, nhiều vị đại đệ tử của Phật, đã có những trước tác quan trọng hoặc phân tích, hoặc quy nạp, hoặc hệ thống hóa những lời Phật dạy, để giúp đỡ người đời học hỏi đạo lý của Phật, đó là những bộ luận. Các bộ kinh, bộ luật, bộ luận là ba tạng kinh điển của Phật giáo.

Trong lúc Phật tại thế, các đệ tử Phật, xuất gia cầu đạo, đều kết hợp lại thành những chúng, sống theo phép lục hòa là thân hòa đồn trụ, khẩu hòa vô tránh, ý hòa đồng duyệt, giới hòa đồng tu, kiến hòa đồng giải, và lợi hòa đồng quân. Những chúng lục hòa như thế thì gọi là Tăng.

Theo quan niệm phổ thông thì đức Phật Thích-ca Mâu-niPhật bảo, ba tạng kinh điển là Pháp bảo và các chúng xuất giaTăng bảo. Tăng bảo như thế, thì gọi là trú trì Tam bảo. Những người theo đạo Phật quy y Tam bảo, chủ yếu là quy y với trú trì Tam bảo.

Ngoài quy y với trú trì Tam bảo ra, tín đồ các pháp Đại thừa Phật giáo, còn quy y với thập phương Thường trụ Tam bảo, nghĩa là quy y với tất cả chư Phật trong mười phương, chứ không phải chỉ quy y với đức BổnThích-ca Mâu-ni Phật; Quy y với Đệ nhất nghĩa đế, tức là với đạo lý vi diệu nhất của Phật, chứ không phải chỉ quy y với Tam tạng kinh điển; quy y với vô lượng chúng Bồ-tát trong mười phương, chứ không phải chỉ quy y với trú trụ trì Tăng bảo hiện tiền.

Vẫn biết, chư Phật là đồng thể, quy y với một Đức Phật, tức là quy y với tất cả chư Phật, nhưng nếu chỉ quy y với đức Phật Thích-ca Mâu-ni, là một ứng thân của đức Phật Lô-xá-na, thì khó nhận được Phật là thường trụ, luôn hiện tiền, do đó, cũng không quan niệm đúng đắn được quả vị tối thượng của chư Phật.

Lại Tam tạng kinh điển tuy nhiều, nhưng phương diện của Phật và của chư Tổ, theo duyên cũng có sai khác. Có kinh điển chỉ dạy về Duyên Giác thừa, Thanh Văn thừa, nghĩa lý không rốt ráo và chưa phải là con đường tu hành thành Phật đạo. Về các kinh điển Đại thừa, nếu chấp chữ nghĩa trong kinh, mà không nhận rõ ý tứ, thì cũng chẳng khác gì, nhận ngón tay chỉ làm mặt trăng mà thôi. Vì thế, người tu hành theo phép Đại thừa, cần quy y với đạo lý chân thật, mà Phật và chư Tổ đã chỉ trong các kinh điển, nghĩa là quy y với Đệ nhất nghĩa đế, đưa đến trực nhận pháp giới tánh, tức là tâm tánh, tức là bảo lai tự tánh.

Trong đạo Phật chúng ta hiện nay, chỉ có Thanh Văn tăng, vì theo căn cơ của loài người trong cõi này, chỉ có Thanh Văn tăng mới duy trì Phật pháp được lâu dài, nhưng không phải vì thế, mà không có chư vị Thập phương Bồ-tát, thể theo đại nguyện đại bi, luôn luôn hiện thân trong thế giới chúng ta, để hóa độ quần sanh. Chính các vị đã hiện thân làm các vị Tổ sư, uốn nắn những lệch lạc trong Phật giáo, sáng tác nhiều bộ luận quý báu, chẳng những làm sáng tỏ thêm đạo lý của Phật dạy, mà lắm khi còn phát triển và phát minh những phương pháp tu hành thích hợp với thời cơ làm cho Phật giáo được chấn hưng, san những thời kỳ bị suy sụp. Vì thế, ngoài trụ trì tăng, tín đồ đạo Phật còn quy y với thập phương Bồ-tát tăng là Thường trụ Tăng bảo.

Những tín đồ đạo Phật đã phát Bồ-đề-tâm, nên còn biết trụ trì Tam bảo cũng không ra ngoài pháp giới tánh, tức là bản lai tự tánh của mình, thế có nghĩa là tuy có mình quy y Tam bảo, nhưng sự thật, mình cũng là pháp giới tánh, Tam bảo cũng là pháp giới tánh, không có Tam bảo ra ngoài tâm tánh của mình và cũng không có tâm mình ra ngoài Tam bảo.

Tự tánh bản lai khôngnhiễm ô, không có vô minh, đó là Phật bảo.

Tự tính bình đẳng, không có sai khác, tuy biến hiện ra tất cả các pháp thế gianxuất thế gian, nhưng tất cả các pháp đó, đồng thời đều chỉ là tự tánh, đó là Pháp bảo.

Tự tínhdiệu dụng vô lượng vô biên, có hằng sa tính công đức, hiện ra vô số thân, làm vô số Phật sự, nhưng sự thật không được một cái gì cả, đó là Tăng bảo.

Tam bảo trong tự tánh như thế là Tự tánh Tam bảo.

Người tu hành cần quy y với tự tánh Tam bảo, để khỏi nhận lầm thật có Tam bảo ra ngoài tâm tánh.

Quy y, theo tiếng Phạn là “Na-mô” nghĩa là quay về mà nương dựa. Chúngsanh mê lầm như đứa con dại đi lạc đường. Đứa con ấy, nghe theo tiếng gọi của cha mẹ, thì quay về nương dựa, đi theo cha mẹ để khỏi sự lầm lạc. Chúng sanh trong mê lầm, được nghe tiếng gọi của Tam bảo, biết quay vè nương dựa với Tam bảo, đi theo Tam bảo trên con đường giải thoát, thì mới đi ngược lại được với dòng mê và ra khỏi luân hồi.

Vậy quy y không chỉ là một nghi lễ, mà phải là một dịp pháp nguyện trước Tam bảo, cương quyết cải tà quy chánh, nói theo một cách khác là cương quyết đi theo Tam bảo, chứ không lạc vào con đường khác.

1. Quy y Phật, vĩnh bất quy y thên, thần, quỷ, vật: Nghĩa là quy y với Phật, nguyện vĩnh viễn không quy y với Trời, với Thần, với Quỷ, với Vật. Ngoại đạo thường mê tín theo các ông Trời, ông Thần, loài Ma quỷ và các loài vật thành tinh, như cây, đá, cọp, rắn v.v. Tín đồ đạo Phật biết trời, thần, quỷ, vật, chỉ là những loài chungs anh trong vòng luân hồi, nên cương quyết không theo họ và chỉ quy y theo Phật để được giải thoát.

Có người nói: “Cha cũng kín, mẹ cũng vái” hoặc “Phật thì xa, bản nha thì gần” hoặc “Phật cũng kính, Trời cũng sợ”, nói như thế là lẫn lộn giác ngộ với mê lầm, Phật với chúng sanh, Chánh pháp với ngoại đạo.

Nên nhận rõ rằng những loài trời, thần, quỷ, vật đều mê lầm như chúng ta, đều còn bị ràng buộc trong bản nghiệp, nên không thể hiểu biết chúng ta và thường cũng không có quan hệ gì với chúng ta.

Song tư tưởng của chúng ta có một sức mạnh phi thường, khi tư tưởng nhiều người tập trung tin tưởng, thì lại có thể tạo ra những trời, thần, quyrm vật, có một số tác dụng, nhưng, trời, thần, quỷ, vật đó sự thật chỉ là ảo tưởng mà thôi.

Ngoài ra, khi tu hành đã khá, bắt đàu chuyern nghiệp người sang nghiệp khác, thì chúng ta có thể cảm thông với những loài khác được, nhưng sự cảm thông đó vẫn không có lợi ích gì cả, vì những chúng sanh ấy, tuy khác loài người, vẫn còn là chúng sanh, do đó, trong lúc cảm thông với nhau, họ rất có thể lôi kéo người tu hành theo các ngoại đạo.

2. Quy y Pháp, vĩnh bất quy y ngoại đạo, tà giáo: Nghĩa là quy y với Phật pháp, nguyện vĩnh viễn không quy y với ngoại đạo, tà giáo. Ngoại đạo là những đường lối tu hành như đạo Nho, đạo Lão, v.v. không đưa đến kết quả giải thoát. Tà giáo là những lời dạy bảo sai lầm, trái với nhân quả, tăng trưởng các nghiệp ác.

Tín đồ đạo Phật, chỉ nương theo Phật pháp mà thôi, không nên xem đạo Phật cũng là một đạo như các đạo khác, không nên tìm xem kinh điển của các đạo khác, khi chưa hiểu Phật pháp, chỉ khi nào có đủ trí tuệ, phân biệt chánh tà, thì mới nên xem qua các kinh điển ngoại đạo, để chỉ trích những sai lầmbảo vệ Chánh pháp.

3. Quy y Tăng, vĩnh bất quy y tổn hữu, ác đảng: Nghĩa là quy y với tăng chúng đạo Phật, nguyện vĩnh viễn không đi theo tổn hữu và ác đảng. Tăng chúng đạo Phật sống theo phép lục hòa, là thiện hữu, là thiện tri thức của chúng sanh, còn tổn hữu là một người hoặc những người xui giục làm những điều tổn thương đến đức hạnh, đến thiện niệm và chánh niệm. Ác đảng là những bè phái gây tổn hại cho đa số người, như bè lũ phản quốc, áp bức giết hại nhân dân, phục vụ cho quyền lợi bọn xâm lược nước ngoài. Tín đồ Phật giáo chỉ quy y với Tam bảo, quyết không theo những tổn hữu ác đảng, dù họ có khoác áo người tu hành.

Quy y Tam bảo là ba cái nguyện mà tín đồ đạo Phật cần phải giữ trọn, thì mới xứng đáng là tín đồ đạo Phật, vì thế, không nên truyền thọ Tam quy cho những người chưa hiểu rõ và chưa phát nguyện. Quy y lúc còn nhỏ tuổi, chỉ là kết duyên, không có tác dụng xác thực, khi đã lớn hiểu rõ và biết phát nguyện, thì nên phát nguyện trước Tam bảo, quy y theo đúng Chánh pháp. Tín đồ đạo Phật chúng ta còn tụng Tam tự quy:

- Tự quy y Phật đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.

- Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải.

- Tự quy y Tăng, đương nguyeengj chúng sanh thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại.

Nghĩa là:

- Tự mình quy y Phật, thì nên nguyện cho chúng sanh thấu rõ đạo Phật, phát lòng Bồ-đề vô lượng.

- Tự mình quy y Pháp, thì nên nguyện cho chúng sanh đi sâu vào đạo lý của kinh điển, trí tuệ rộng lớn như biển.

- Tự mình quy y Tăng thì nên nguyện cho chúng sanh có khả năng dìu dắt đại chúng tu tập, tổ chức đại chúng theo phép lục hòa, được vô ngại tự tại.

Ba câu này biểu hiện sự nhận rõ về Tam bảolòng từ bi, mong cho chúng sanh cũng hiểu rõ như thế và thiết thực học tập tu trì để cùng góp sức xây dựng Tam bảo.

Phát nguyện quy y Tam bảolợi ích rất lớn, vì quy y Tam bảo, tức là cải tà quy chánh, bỏ dữ, do đó, quyết định không đọa vào ba đường dữ. Điều cốt yếu là phải phát nguyện thành thực, một lòng tin tưởng Tam bảo, không tin những ngoại đạo tà giáo, những trời, thần, quỷ, vật, cả trong những lúc bị hoạn nạn, bị khó khăn, thì mới được sự lợi ích của việc quy y Tam bảo.

Trong nước ta, thường có phong tục thờ cúng tổ tiên, tín đồ đạo Phật hiểu rằng, ông, bà, cha, mẹ, thân bằng quyến thuộc, khi đã lâm chung, thì trừ khi được về Tịnh độ, tất cả phải luân hồi trong lục đạo, nên không thể có cái hồn về hưởng các lễ tiến cúng, vì thế, tín đồ chỉ xem ngày kỵ lạp là những ngày kỷ niệm, và trong những ngày ấy, thường làm những việc thiệntụng kinh niệm Phật, để hồi hướng cho vong linh sớm giác ngộ tu theo đạo Phậtvãng sinh Tịnh độ.

Xin nguyện cho tất cả chúng sanh phát tâm thiết thực quy y Tam bảo, tinh tấn tu hành, cùng thành Phật đạo.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2251)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 33133)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6560)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 6521)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 3866)
Tạo sao gọi là Phổ Môn? vì tự tính của mình phổ biến khắp hư không pháp giới, nên gọi Phổ Môn.
(Xem: 5126)
“Quán” là xem xét, “Thế Âm” là âm thanh của thế gian. Quán Thế Âmxem xét âm thanh thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ-tát.
(Xem: 11245)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30387)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 7963)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12161)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 3282)
Một bài pháp được ban cho chư Tăng Ni ở International Mahayana Institute tại Boudhanath, Nepal, ngày 2 tháng 2, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính.
(Xem: 34713)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 52235)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 13058)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 21810)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9595)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 3093)
"Niệm Phật" nghĩa là xưng danh hiệu - hay nhớ tưởng đến hình tướng, bản nguyện hay công đức của một đức Phật - như Phật Thích-ca hay Phật A-di-đà.
(Xem: 10371)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12717)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12761)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16209)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 13787)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14304)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9177)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11730)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11250)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 11496)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 12610)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 20673)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 17628)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 31845)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12005)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11794)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 4324)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, Luận Tập Bộ Toàn; Kinh văn số 1678. Pháp Hiền dịch ra chữ Hán. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12740)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10313)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 16397)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 11745)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14773)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12002)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16793)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 12710)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 52054)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 12630)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 9905)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 14470)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20102)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13753)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15376)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17475)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 16782)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 13469)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 12459)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12047)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13269)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12517)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 25539)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 14518)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 28287)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 10285)
"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant