Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

20- Can Đảm

21 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 3215)
20- Can Đảm

TÂM LÝ ĐẠO ĐỨC
Tỳ Kheo Thích Chân Quang
Nhà xuất bản Tôn Giáo Hà Nội - 2004

CAN ĐẢM

1. ĐINH NGHĨA.

Xét trên khía cạnh Đạo đức, can đảm là dám đương đầu với nguy hiểm để làm điều tốt. Trong đạo Phật, đó là Hùng lực hay Dũng trong Bi- Trí -Dũng. 

Can đảm khác với táo tợn, liều lĩnh khi làm điều không chính đáng. Vì vậy, hành động cướp giật của một tên cướp không phải là hành động can đảm mà là táo tợn, liều lĩnh mặc dù phải rất có gan hắn mới làm được điều đó. Ở đây, chữ can đảm bao hàm ý nghĩa Đạo đức.

 Trong đạo Phật, một vị Thánh hay một người đệ tử Phật chỉ xứng đáng được ca ngợi khi phải hội đủ ba đức tính là Bi- Trí - Dũng. Bi là lòng thương yêu chúng sinh. Trí là trí tuệ, hiểu rõ mọi điều. Nhưng Bi, Trí chưa đủ, phải có Dũng-sự gan dạ, can đảm- mới có thể làm được những điều tốt. Vì không phải mọi điều tốt trên đời này đều dễ dàng thực hiện. Có rất nhiều điều tốt nằm trong hoàn cảnh nguy hiểm, khó khăn. Nếu không đủ hùng lực, dũng cảm, chúng ta sẽ không thực hiện được. 

Trong cuộc sống, khi muốn làm việc thiện, chúng ta có thể đối diện với vô vàn những nguy hiểm, khó khăn. Trong đó, nguy hiểm nhất là cái chết. Có khi để làm được một việc thiện, chúng ta phải đánh đổi bằng cả sinh mạng của mình. Nếu dám hy sinh như vậy, chúng ta được coi là người rất dũng cảm. Nguy hiểm đứng thứ hai sau cái chết là sự thương tật. Khi cứu người khác, chúng ta có thể sẽ bị thương tật, phải chịu đựng những đau đớn. Ngoài ra, những nguy hiểm chúng ta có thể gặp là bị tù đày, có khi phải hứng chịu sự căm ghét, sự phỉ báng của người khác… Quả thật, làm việc thiện không phải lúc nào cũng đơn giản. Nhưng bù lại những nguy hiểm, khó khăn ấy, chúng ta có thể làm được vô số những điều tốt. Đó là cứu người khi lâm nguy, dấn thân trên chiến trường để bảo vệ đất nước, lên tiếng bày tỏ sự thật mặc dù sự thật đó làm cho mọi người bất bình, căm ghét hay vạch trần sự bất công, chống lại tội ác - nhất là những tội ác được tổ chức rất chặt chẽ, tinh vi….

 Như vậy, khái niệm Can đảm chỉ được dùng cho những hành động hướng về điều thiện. Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta phải đối diện với những nguy hiểm, và trong những trường hợp đó, can đảmyếu tố cần thiết giúp chúng ta vượt lên hoàn cảnh và sống tốt hơn. Cuộc đời vốn không bình yên, phẳng lặng như mặt hồ thu mà luôn chứa đựng những bất trắc, những nghịch cảnh éo le, những nguy hiểm. Chúng ta, những đệ tử Phật phải xác định được điều đó và sẵn sàng vượt qua bằng lòng can đảm của mình. 

Trong quá trình làm việc Đạo, không phải lúc nào chúng ta cũng gặp thuận lợi, dễ dàng. Ngay cả những việc thiện đơn giản trong đời sống cũng đòi hỏi lòng can đảm. Chẳng hạn, khi có một món tiền lớn, chúng ta có thể sẵn sàng bớt ra giúp đỡ người khác một trăm ngàn mà không cần băn khoăn, tính toán. Vì số tiền nhỏ đó không ảnh hưởng đến cuộc sống của mình. Nhưng nếu chỉ có trong tay năm chục ngàn, người khác lại rơi vào hoàn cảnh cấp bách cần cả số tiền đó, liệu chúng ta dám nhịn ăn để cho họ hay không? Đây chính là lúc đòi hỏi chúng ta phải có đức hy sinh, lòng can đảm. Tất nhiên, điều này cũng không khó bằng việc phải nhảy vào đám lửa để cứu người vì khi nhảy vào đám lửa có thể chúng ta phải đánh đổi cả sinh mạng của mình. Phải có một quyết tâm rất cao, phải có lòng can đảm, chúng ta mới làm được điều đó. 

Chúng ta biết rằng, cái phước có được ở kiếp sau của con người được tính bằng một công thức. Công thức phước ấy được tính bằng tích số giữa việc làm lợi ích cho người khác với sự cố gắng của chính bản thân mình. Ví dụ, khi có trong túi một triệu đồng, chúng ta cho người khác một trăm ngàn thì sự cố gắng không có bao nhiêu. Và phước chúng ta có được sẽ không lớn. Nhưng nếu chỉ có năm chục ngàn đồng, người ta cần, chúng ta cho sẵn sàng tất cả thì lúc này sự cố gắng rất cao. Như vậy, số tiền tuy ít nhưng nhân với hệ số cố gắng lớn, phước của chúng ta sẽ lớn hơn. 

Từ ví dụ đơn giản ấy, chúng ta thấy hành động nhảy vào lửa để cứu người đòi hỏi một sự cố gắng vượt bậc. Vì lúc đó, người nhảy vào lửa biết mình có thể bị phỏng, bị nguy hiểm đến tính mạng mà vẫn cố gắng làm. Vì vậy, cái phước có được sẽ rất lớn. 

Chúng ta nhớ lại câu chuyện kể về tiền thân Đức Phật. Trong một kiếp, Đức Phật là một vị Sa Môn tu hành. Một lần, Ngài thấy một con chim Cắt, loài chim ăn thịt các con vật khác, đang rượt đuổi một con chim Bồ Câu. Chim Bồ Câu sợ quá bay núp vào người Ngài. Chim Cắt nói rằng, đây là bữa ăn của nó. Nếu Ngài cứu con chim Bồ Câu thì nó sẽ đói. Đây là sự công bằng của cuộc sống. Nó đi săn được mồi để sống, Ngài giành con mồi của nó chắc chắn nó không chịu. Nghe vậy, Ngài đành phải cắt một miếng thịt của mình cho chim Cắt ăn, thay cho mạng sống của chim Bồ Câu. Như vậy, Ngài sẵn sàng chịu thương tật đau đớn để cứu mạng chú chim Bồ Câu tội nghiệp. Đó là một thái độ, một hành động rất dũng cảm, người thường không làm được. Câu chuyện thực ra mang tính ngụ ngôn hơn là có thật, nhưng cũng giúp chúng ta hiểu được tấm gương sáng về lòng can đảm, đức hy sinh cứu người của Đức Phật. Sau này, nhiều chùa đã vẽ biểu tượng ấy lên tường với ý nghĩa Đức Phật đã từng cắt thịt cho chim Cắt ăn để cứu mạng chim Bồ Câu.

Trong thực tế, chúng ta cũng gặp không ít những gương hy sinh cứu người rất cảm động. Không chỉ người lớn mà trẻ em cũng làm được điều đó. Báo chí đã từng đưa tin về một bé gái dám hy sinh thân mình để cứu bạn. Khi cùng với bốn người bạn đi chơi ngoài bờ đê, dòng nước chảy xiết đã làm bốn người bạn rơi xuống đê. Trong tình huống nguy cấp đó, đứa bé đã nhảy xuống lần lượt kéo từng bạn vào bờ. Nó vốn bơi giỏi nhưng kéo được người thứ ba thì sức gần như cạn kiệt. Biết còn người bạn nữa đang cần sự giúp đỡ của mình, đứa bé lại nhảy xuống tiếp tục cứu. Khi đưa được người thứ tư vào bờ thì nó kiệt sức và bị dòng nước cuốn đi mất. Như vậy, trong lúc quá mệt nhưng nghĩ đến người bạn đang sắp chết đuối ngoài kia, đứa bé đã hết sức cố gắng. Đó là sự cố gắng vượt bậc. Khi vớt được xác đứa bé, người ta đã an táng đàng hoàng và mọi người đến viếng với lòng quý trọng, tiếc thương vô hạn. Với sự cố gắng đánh đổi cả sinh mạng của mình để cứu người, công đức của cô bé vô cùng lớn và chắc chắn cô sẽ được lên cõi trời sau khi chết.

Hoặc câu chuyện sẵn sàng chịu tù đày thay bạn của một người trong giới xã hội đen cũng khiến chúng ta phải suy nghĩ. Người ta kể rằng, một lần nọ do nóng giận, người này đã đánh người kia đến chết. Khi Công an ập tới bắt thủ phạm đánh chết người, một người khác, bạn của anh ta đứng ra nhận mình là thủ phạm vì vợ của người kia có mang gần đến ngày sinh nở. Người này đã chấp nhận ở tù cực khổ để bạn mình ở lại nuôi vợ con. Thái độ ấy tưởng đơn giản nhưng thực ra rất can đảm. Dù không đồng tình, thậm chí còn lên án những hành động làm ăn phi pháp, giết người tàn bạo của bọn giang hồ trong giới xã hội đen nhưng chúng ta cũng thừa nhận rằng, họ sống rất hào hiệp, rất tình nghĩa, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ nhau. 

Hành động dấn thân ngoài mặt trận, sẵn sàng đối diện với cái chết của những người chiến sĩ cũng là hành động can đảm vì điều tốt. Nếu là một người lính chiến đấu trong cuộc chiến tranh phi nghĩa thì tội sẽ rất nặng vì họ cầm súng giết người, vừa phạm tội sát sanh vừa mang tội cướp nước. Nhưng người lính chiến đấu chống xâm lăng, bảo vệ đất nước thì phước của họ rất lớn. Khi đối diện với cái chết, trong tâm họ vẫn nghĩ đến sự bình yên cho đất nước, nghĩ đến hạnh phúc của nhân dân. Chính vì thế, không ít những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ… đã viết lời ngợi ca họ: “Một ba lô cây súng trên vai. Người chiến sĩ quen với gian lao. Đường dài đêm thâu, bóng tối quân thù trước mặt . Nặng tình quê hương anh dâng trọn tuổi đời thanh xuân. Cho em thơ ngủ ngon, và vui bước sớm hôm đến trường…” 

Những người dám đứng ra bảo vệ sự thật, vạch trần sự bất công, chống lại tội ác đều là những người can đảm. Vì họ dám đương đầu với nguy hiểm để làm điều tốt. Đó có thể là những ký giả ở một số nước tham gia đấu tranh chống tiêu cực. Trong những năm qua, người ta thống kê trên thế giới có khoảng ba đến bốn ngàn ký giả bị bắt, bị giết, bị tù đày vì họ dám nói lên sự thật để chống lại những bất công đang tồn tại trong xã hội. Khi sự thật được phơi bày, điều xấu sẽ bị khống chế. Nếu sợ hãi, không dám lên tiếng bảo vệ sự thật thì cái xấu sẽ tồn tạitiếp tục phát triển. Bởi vậy, nói điều đúng, nói điều có lợi cũng sẽ tạo nên công đức lớn.

2. SỰ TẠO THÀNH

Tâm can đảm được tạo thành bởi hai điều: Một là tinh thần mạnh mẽ, vững vàng. Hai là sự thúc đẩy của Thiện tâm

Tinh thần mạnh mẽ là cái không thể định nghĩa được. Nó cũng giống như tình thương yêu, lòng từ bi vậy. Trong bài Tâm từ, chúng ta đã hiểu tình thương yêu không thể định nghĩa được bằng lời. Chúng ta chỉ nhìn thấy biểu hiện của nó và biết rằng lúc ấy tình thương đang hiện diện. Tinh thần mạnh mẽ cũng vậy. Chúng ta chỉ hiểu, chỉ cảm nhận được tinh thần ấy trong những trường hợp bị thử thách mà vẫn quyết đoán, vẫn bền gan, vững chí. Đó chính là những biểu hiện của tinh thần mạnh mẽ. 

Một chuyện rất đơn giản là đi qua cầu khỉ của người miền Tây cũng đòi hỏi ở chúng ta lòng can đảm. Những người chưa đi quen sẽ rất sợ hãi khi nhìn chiếc cầu bắc qua dòng nước đang cuộn trôi chỉ là một thân cây trơ trọi. Nếu lần đầu tiên về miền Tây và tập đi cầu khỉ, chúng ta phải hết sức can đảm, tinh thần phải vững vàng, không dao động. Lúc bấy giờ , nếu sợ hãi, chúng ta sẽ bị ngã xuống sông. Khi qua rồi, chúng ta sẽ thấy mình làm được điều đó là nhờ có một lòng can đảm, một quyết tâm rất cao. 

Hoặc chuyện kể về những người dẫm chân đi trên than hồng thật khó tin nhưng đó là điều có thật. Lửa than cháy đỏ rừng rực, họ dẫm chân lên, miệng tụng những câu thần chú bí hiểm. Thực ra, đó không phải là điều gì mầu nhiệm. Những câu thần chú ấy sẽ làm cho họ vững tâm hơn, có niềm tin hơn. Khi đã vững tâm, họ bước đi một cách tự nhiênchân không hề bị bỏng. 

Người ta kể rằng, có một ông Thầy dạy đệ tử mình đi trên than hồng. Thầy rải than và bắt đệ tử đi trên đám lửa cháy đỏ rực. Trước khi thực hành, Thầy đi qua một lần cho họ xem nhưng những đệ tử vẫn không dám đi. Lúc ấy, Sư phụ yêu cầu họ lấy mỗi người một tờ giấy và viết lên đó nỗi sợ hãi của mình. Tất cả đều viết: “Bước lên sợ nóng chân, sợ phỏng chân”. Sư phụ cầm những tờ giấy đứng niệm điều gì đó một lát. Niệm xong, ông đốt đi và nói : “Thầy đã đốt hết những sợ hãi. Bây giờ các con không còn sợ hãi nữa, hãy dẫm lên mà đi, chân sẽ không bị cháy”. Nghe lời Thầy, họ vững tin đứng lên than và đi được một cách dễ dàng. 

Hoặc có người biểu diễn cho người khác xem bằng cách cầm cái chai đập vào đầu, nhưng chai vỡ mà đầu không vỡ. Người ta cho rằng đó là kết quả của việc rèn luyện ý chí chứ không có gì đặc biệt. Khi cầm cái chai, họ cứ chí nguyện quyết đập vỡ cái chai mà đầu không vỡ. Khi lòng tin đã vững, họ đập mạnh một cái, chai sẽ vỡ mà đầu không hề gì. 

Tinh thần, ý chí của con ngườisức mạnh ghê gớm như vậy. Sức mạnh đó luôn tiềm ẩn trong tâm mỗi người mà chúng ta chưa phát huy được. Chính tinh thần mạnh mẽ, vững vàng ấy làm cho con người gan dạ, can đảm hơn khi đối diện với nguy hiểm. Trước cái chết, trước những hoạn nạn, khó khăn, họ vẫn vượt qua được.

Can đảm còn được tạo thành bởi sự thúc đẩy của Thiện tâm - tâm thương người, vì người. Chẳng hạn, khi thấy một đứa bé rơi xuống sông đang loi ngoi vật lộn với cái chết trong khi nước sông lại sâu, lòng sông lại rộng, sức mình bơi không nổi nhưng vì tình thương trỗi dậy, chúng ta liều nhảy xuống để cứu nó. Thấy vậy, những người khác tiếp tục quăng phao xuống cứu và cả hai thoát chết. Thực ra, bình thường chúng ta không phải là người can đảm nhưng vì tình thương đối với đứa bé mà mình trở nên can đảm và làm được việc tốt. 

Ngày xưa, vào thời nhà Trần, quân Mông - Nguyên đã ba lần đem quân sang xâm lược nước ta. Chúng đi tới đâu, chém giết tới đó, cỏ cây cũng không mọc nổi dưới vó ngựa của chúng. Triều đình phải tổ chức tiêu thổ kháng chiến. Nghĩa là người dân bồng bế, dắt díu nhau mang theo lương thực vào rừng ẩn náu. Sau đó, quân đội tổ chức chiến đấu. Có những người do căm phẫn tột độ trước sự độc ác của quân thù đã tham gia vào quân đội để chiến đấu. Lòng căm phẫn ấy xuất phát từ tình yêu đối với quê hương, đất nước, đối với nhân dân. Chính tình yêu thương đã tạo cho họ lòng can đảm, thúc đẩy họ làm những điều tốt, sẵn sàng xả thân vì đất nước : “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa”, họ vẫn cam lòng.

Người không có khả năng, trí tuệ, sức khỏe, thế lực… khó có một tinh thần mạnh mẽ. Thậy vậy, khi không đủ trí tuệ để phán đoán, nhận định một sự vật, hiện tượng nào đó, người ta thường cảm thấy bất an khi đối diện với nó. Chẳng hạn, chúng ta hay nghe người đời nhắc đến ma. Khi còn nhỏ, nhiều người rất sợ ma và khi đã trở thành người lớn, không ít người vẫn còn sợ. Ngay trong một ngôi chùa, khi nghe có người kể là đã nhìn thấy ma, ai đi lại ban đêm cũng sợ. Có lần vào lúc nửa đêm, nghe chó sủa quá, một Thầy sợ ăn trộm vào chùa nên thức dậy xem. Khi đi từ nhà tăng qua nhà khách, Thầy thấy một người không rõ nam hay nữ cầm một vật rất sáng, theo sau là một đám trẻ con, nhưng tất cả đều bước đi rất nhẹ, chân không chạm đất. Khi qua chiếc cầu bắc ngang con suối nhỏ, cả đoàn nhảy lên cây sộp và biến mất. Lúc ấy, Thầy vẫn còn nghe léo nhéo tiếng trẻ con nói: “Cho ăn gì, đói quá!”. Có lẽ mấy ngày Tết vì quá mệt, chùa cúng thí thực không đàng hoàng nên thế giới siêu hình ăn không được no. Sau khi nghe kể chuyện, chùa đã bày một mâm cơm ngon lành cúng cho họ. Nhưng cũng từ đó, nhiều người không dám qua cầu ban đêm nữa vì tin ở đó có ma. 

Như vậy, vì sao trong nhiều trường hợp, người ta tin và sợ ma ? Có lẽ người ta sợ ma vì không biết rõ về nó. Vì là “hồn ma bóng quế” nên chúng thoắt ẩn, thoắt hiện, lúc vô hình khiến người ta sợ hãi . Nếu biết rõ ma ở đâu, đi lại ra sao, gương mặt như thế nào, có lẽ con người không còn sợ chúng nữa. Trong cuộc sống cũng vậy, những điều làm chúng ta sợ hãi thường do chúng ta không biết rõ về nó. Hay nói đúng hơn là do chúng ta không có trí tuệ để nhận định

Trường hợp người ta hay đồn về những ông thầy bùa cũng vậy. Ông ta có thể yểm, có thể thư người khác được. Nếu ghét người nào, ông chuốc bùa người đó bệnh rồi chết. Nghe đồn như vậy, đa phần ai cũng sợ thầy bùa. Sở dĩ chúng ta sợ vì chúng ta không biết rõ bùa là gì . Nếu biết rõ về nó, về lực của bùa chú, chúng ta sẽ không sợ. Thực ra, bùa cũng có tác dụng nhất định. Bùa có tác dụng của tâm linh, của niềm tin nhờ sự luyện tập lâu ngày và nhờ định lực của thầy bùa. Nhưng tác dụng bùa chú còn lệ thuộc vào nghiệp. Ví dụ, một cái đánh của người khác tác động lên cơ thể làm chúng ta đau, nhưng nó lệ thuộc vào nghiệp. Nếu không bị cái nghiệp nào đó thì người ta không đánh mình được. Bùa cũng vậy. Nếu không mắc cái nghiệp gì đó thì người ta không đánh bùa mình được. Nó không phải là cái gì quá huyền bí, quá siêu nhiêncon người không thể biết được. Khi hiểu về nó, chúng ta sẽ không còn sợ hãi nữa.

 Nói đến bùa chú, chúng ta không thể không liên hệ đến chuyện ngài A Nan với Ma Đăng Già. Vì ngài A Nan rất đẹp nên cô Ma Đăng Gìa gặp vài lần đã đem lòng thương nhớ rồi lâm bệnh. Người mẹ tìm hiểu và cô đã kể thật mọi điều. Thương con nhưng bà mẹ không biết làm cách nào cho con khỏi bệnh. Nghe lời mách, bà đến nhờ một thầy bùa. Thầy bùa làm phép và cô gái đã tỉnh ra. Đợi ngài A Nan khất thực đi ngang, cô gái bước ra chào để cúng dường. Do sự thúc đẩy vô hình không ngờ được trong tâm mình, ngài A Nan tự nhiên đi theo cô gái vào nhà. Khi Ngài đi vào, cô Ma Đăng Già nói lời yêu thương tha thiết. Tâm đạo Ngài rất vững nhưng bị bùa khống chế nên bị lung lay. Lúc ấy, Phật biết chuyện nên dùng thần thông hóa độ cho Ngài thoát ra. Sau đó, Phật cũng độ cho cô Ma Đăng Già xuất gia luôn. 

Qua câu chuyện, chúng ta thấy tác dụng của bùa chú thật ghê gớm. Ngài A Nan là người đã tu tập đàng hoàng vậy mà vẫn bị năng lực của bùa chú tác động. Sự thật, điều này còn do nghiệp quá khứ. Trong quá khứ, ngài A Nan và Ma Lăng Già đã từng có duyên vợ chồng với nhau, đã từng thương yêu nhau thắm thiết nên bây giờ gặp nhau, duyên xưa trỗi dậy. Cả hai yếu tố hợp lại khiến tâm Ngài bị lung lay chứ không hoàn toàn do bùa chú. 

 Cũng có trường hợp nhiều người đi trên xe bị người ta đánh bùa, lấy sạch đồ đạc. Điều này không chỉ do bùa mà còn do nghiệp của người ấy trong quá khứ. Có thể trước kia, họ cũng đã làm điều gì đó nên bây giờ đến lúc phải trả nghiệp. Khi hiểu được điều này, hiểu nhân quả chi phối, chúng ta sẽ không sợ hãi thế lực siêu nhiên nữa. Nếu ai nói ông thầy bùa này ghê gớm, cao tay ấn, chúng ta cũng không sợ. Chỉ cần giữ được đạo đức, giữ lòng tôn kính Phật và siêng năng làm việc thiện, chúng ta sẽ không sợ bất cứ thế lực nào, kể cả những thế lực siêu nhiên

Như vậy, can đảm cũng do trí tuệ mà có. Nếu đã có Trí, có Bi, chúng ta cũng dễ dàng có được cái Dũng. 

Tinh thần mạnh mẽ khiến chúng ta trở nên gan dạ, có thể đối diện với hiểm nguy còn được tạo nên nhờ sức khỏe. Một người không có sức khỏe, cơ thể yếu đuối, thường có tinh thần bạc nhược. Khi có sức khỏe, chúng ta cảm thấy xốc vác trong công việc, dám làm mọi việc dù rất khó khăn, vất vả. Cũng nhờ có sức khỏetinh thần chúng ta vững vàng hơn và dám làm được những điều mà người khác e ngại. ( Tất nhiên, trừ một số trường hợp ngoại lệ ). Nếu chùa có việc gấp, dù giữa trưa nắng chang chang hay giữa lúc mưa tầm tã, chúng ta cũng sẵn sàng nhận lãnh. 

Chúng ta cũng gặp không ít trường hợp người có thể chất yếu đuối nhưng tinh thần vô cùng mạnh mẽ. Có được điều đó là nhờ họ có phước. Chính phước cũng tạo nên tinh thần mạnh mẽ cho con người

Những người có khả năng, giỏi giang sẽ có sự tự tin, tinh thần cũng vững vàng và làm được nhiều việc. Gặp bất cứ việc gì họ cũng có thể làm được. Ngược lại, những người không có khả năng dễ mất tự tin, tinh thần cũng yếu đuối, không mạnh dạn bắt tay vào việc. Ai nhờ làm việc gì, họ cũng ngại không dám nhận lời. Bởi vậy, sự vụng về, thiếu khả năng cũng làm cho con người ta xuống tinh thần, luôn mang mặc cảm và khó thành công

Người có tiền bạc, có địa vị, có thế lực thường là người có tinh thần mạnh mẽ. Nếu có một cơ sở vật chất vững chắc, khi ngoại giao hay trao đổi làm ăn với ai, chúng ta cảm thấy mình có một tư thế vững vàng. Nếu quá nghèo khó, tiếp xúc với người khác, chúng ta thường rụt rè, không đủ tự tin. Hoặc một người có quyền hành trong tay thường quyết định mọi việc một cách dễ dàng. Những người này tinh thần cũng mạnh mẽ. Trong khi đó, những người không có quyền hành gì, thường là dân đen, chỉ biết nghe theo lời người khác. Tinh thần họ cũng trở nên yếu đuối

Như vậy, người có trí tuệ, có khả năng, có sức khỏe, có tiền bạc, có địa vị… thường là những người có tinh thần mạnh mẽ, vững vàng. Tất cả những điều ấy có được đều do phước. Hay nói cách khác, người có phước sẽ có tinh thần mạnh mẽ. Dựa vào đó, chúng ta có thể đánh giá được những người sống quanh mình. Nhìn người nào có tinh thần mạnh mẽ, chúng ta biết người đó có phước bên trong. Những người tinh thần bạc nhược, yếu đuối, lúc nào cũng rụt rè sợ sệt, muốn nói mà không dám nói, muốn làm cũng không dám làm thường là người thiếu phước.

Trên cơ sở đó, chúng ta cũng có thể đánh giá được cái phước có được nơi bản thân mình. Nếu từ trước đến nay, bản thân là người xốc vác, dám nói, dám làm, chúng ta biết mình là người có phước. Hiểu như vậy, chúng ta cố gắng nuôi dưỡng, giữ gìn. Còn nhận ra bản thân mình lúc nào cũng sợ sệt, rụt rè, chúng ta biết mình thiếu phước, phải cố gắng làm phước nhiều hơn. Mỗi ngày, chúng ta nên giúp đỡ mọi người, làm lợi ích cho Phật pháp. Dần dần, tinh thần chúng ta sẽ trở nên mạnh mẽ. Nếu chịu khó quan sát chúng ta sẽ thấy điều này rất hiệu nghiệm. Nhiều người khi mới vào chùa trông hiền lành, thậm chí còn khờ khạo, ai nói gì cũng nhịn, ai sai gì cũng làm nhưng lại cặm cụi lo công quả, tu tập. Sau này, người đó rất có uy đức, trở thành cột trụ của Phật pháp

Một điều chúng ta cần nhớ là khi đã có phước, tinh thần, cá tính được mạnh mẽ, chúng ta không nên lấn át người khác vì nếu sử dụng không đúng chỗ, phước dần dần sẽ hết. Khi đó, tinh thần của chúng ta lại trở nên yếu đuối. Thói thường, những người được nhiều người khen, được nhiều người cung kính hay xuất hiện tâm tự hào. Một khi tâm tự hào xuất hiện, họ bắt đầu chấp vì danh lợicoi thường người khác. Bởi vậy, khi tu có tiến bộ, có những kết quả, được người khác sùng bái, khen ngợi, chúng ta phải cẩn thận, phải chuẩn bị một đạo lý, một công phu gì đó để làm cho nó trở nên vô hiệu.

Sự tham lam ích kỷ, thù hận có thể thúc đẩy con người dám làm những điều nguy hiểm. Ví dụ, những tên cướp dám hành động giữa ban ngày hoặc những tên trộm, ban đêm dám leo tường vào cạy cửa nhà người ta để trộm tiền bạc, của cải đều là những người có “gan to”. Nhưng cái gan của họ có được không phải do tinh thần mạnh mẽ, do sự thúc đẩy của Thiện tâm hoặc do trí tuệ mà do lòng tham. Chính lòng tham đã thúc đẩy họ dám làm những việc khó khăn, nguy hiểm ấy. 

Ở nông thôn, có nhiều người ăn trộm rất liều. Họ thường lẻn vào nhà người khác lúc xâm xẩm tối, khi chủ nhà chưa đóng cửa và chui xuống gầm giường nằm im ở đó. Khi gia đình người ta đã tắt đèn đi ngủ, người ăn trộm từ từ bò ra lấy đồ đạc và mở cửa tẩu thoát. Họ ăn trộm một cách nhẹ nhàng mà táo bạo như vậy. Tất nhiên, sự gan dạ ấy có được là do họ còn phước. Khi hết phước, họ sẽ rơi vào trạng thái yếu đuối, sợ hãi. Trường hợp “Phước tám ngón” là một ví dụ. Đây là một tên cướp nổi tiếng, từng cướp của, giết người không gớm tay, dám đưa ngón tay mình ra chặt trước mặt mọi người, Công an phải truy nã bao nhiêu năm mới bắt được. Nhưng khi vào tù, phước hết nên tinh thần cũng xuống. Ngày bị đem ra pháp trường xử bắn, anh ta run sợ, chân không bước nổi nữa. Sở dĩ phước của những tên cướp như “Phước tám ngón” không còn khiến tinh thần bị sa sút trầm trọng vì trước kia họ đã gây nên quá nhiều lầm lỗi. 

Ngược lại, những người thật sự có Thiện tâm, tinh thần sẽ mạnh dần đến lúc chết. Lịch sử còn ghi lại những tấm gương sáng về tinh thần chiến đấu, hy sinh vì quê hương đất nước của những chiến sĩ cách mạng. Họ chiến đấu dũng cảm, đến giây phút cuối cùng của cuộc đời mình, tinh thần họ vẫn vững vàng. Liệt sĩ Nguyễn Thái Học, lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng bị bắt trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái, khi bị đưa lên đoạn đầu đài vẫn hiên ngang, không hề run sợ. Trước lúc chết, người chiến sĩ cách mạng ấy vẫn còn hô lớn: “Việt Nam muôn năm !” Sở dĩ tinh thần của những chiến sĩ mạnh mẽ cho đến phút cuối cùng vì họ có phước lớn. Họ đã sống và chiến đấu vì quê hương đất nước, vì tâm thiện. 

Trong cuộc sống, nhìn vào tinh thần của những người già, chúng ta cũng sẽ biết trong suốt cuộc đời, họ có làm nhiều điều thiện hay không. Những người lớn tuổi mà đầu óc vẫn minh mẫn sáng suốt, tinh thần vẫn vững vàng, mạnh mẽ là những người suốt cả một đời chất chứa điều thiện. Ngược lại, những người già có tinh thần yếu đuối, hiu hắt như ngọn đèn trước gió thường là những người không làm được bao nhiêu điều thiện trong cuộc đời mình. 

Nếu nhìn thấy những người thân của mình có một tinh thần yếu đuối, các Phật tử hãy khuyên họ làm phước. Chúng ta biết rằng, người sắp lìa khỏi cuộc đờitinh thần yếu đuối thì khi chết sẽ không được đi về cõi siêu thoát. Ngược lại, những người đến lúc chết vẫn vững vàng sáng suốt, hiền lành, tỉnh táo thì khi chết sẽ được đi về nơi sang quý, về cõi trời. Đặc biệt, những người còn trong độ tuổi thanh xuân thường có sức khỏe tốt nên tinh thần mạnh mẽ. Nếu ở vào tuổi này mà cảm thấy tinh thần yếu đuối, chúng ta phải lo làm phước, sống một đời hy sinh cho người khác.

3. MỘT VÀI TẤM GƯƠNG.

Tìm hiểu một vài tấm gương của người xưa, chúng ta sẽ có thêm những bài học quý trong việc rèn luyện tinh thần, ý chí. Ngày xưa, vào thời Đức Phật, trong những khu rừng Ấn Độ có rất nhiều thú dữ, nhất là cọp, beo, sư tử, mãng xà… sinh sống. Vậy mà, có những lúc Phật chấp nhận sống một mình cô đơn trong rừng sâu để tu tập, nhất là trong 49 ngày Ngài ngồi thiền nhập định, trước khi thành tựu Phật quả. Đó là một thử thách ghê gớm đòi hỏi phải có một lòng can đảm đặc biệt. Khi nhập được định vào khoảng Nhị thiền, những ảo ảnh Ma Vương hiện ra quấy phá Ngài. Trong những cảnh quấy phá ấy có cảnh Ma Vương muốn làm cho Ngài phải khiếp sợ, phải di động cơ thể để mất Thiền định. Muôn ngàn Ma quân cầm gươm dao chém tới tấp vào Ngài. Cảnh hiện ra trông như thật chứ không phải là ảo ảnh. Chỉ cần cơ thể nhúc nhích, tâm dao động là Ngài sẽ mất ngay Thiền định. Nhưng lúc ấy, Ngài vẫn không nhúc nhích. Vì trước khi bắt chân lên ngồi, Ngài đã phát lời đại nguyện : “Nếu không thành tựu vô thượng chánh đẳng chánh giác, ta thà tan xương, nát thịt chớ không rời khỏi tòa này” - một lời thề thật quyết liệt. Vì vậy, khi muôn cảnh hiện ra với những người cầm dao chém tới tấp, Ngài coi như mình đã chết, ngồi yên không cử động. Nhưng tất cả vẫn không chém được Ngài bởi đó chỉ là ảo ảnh. Một lần khác, khi Ma quân cầm cung tên bắn vào người Ngài, Ngài vẫn ngồi đó, chấp nhận chết, quyết không nhúc nhích cơ thể. Nhưng kỳ lạ thay, những mũi tên ấy bay tới biến thành những đóa hoa rơi lả tả quanh Ngài. 

Đây là một câu chuyện đẹp và lãng mạn ca ngợi tinh thần dũng cảm, lòng can đảm, cái đại hùng đại lực của một người trên đường đi tìm sự giác ngộcon đường đi đến giác ngộ không phải là con đường đơn giản

Hoặc chuyện ngài Quy Sơn Linh Hựu đối diện với cọp trên núi cũng là một gương sáng về lòng can đảm. Một thầy Địa lý đã nói cho ngài Bá Trượng, ngài Quy Sơn một thắng cảnh tốt có thể quy tụ cả một ngàn năm trăm người. Ngài Quy Sơn xin đi về vùng núi đó. Khi đến nơi, Ngài chỉ cất một cốc nhỏ, một am tranh để ở và tu. Trên đường đi, có khi Ngài phải lượm trái rừng mà ăn, có khi còn gặp cọp, beo… nhưng Ngài vẫn không sợ. Chúng ta biết, cọp là loài vật hung dữ, có tướng đi vững chắc, oai vệ, đôi mắt sáng rực, tiếng gầm vang cả núi rừng. Người yếu đuối đứng trước mặt một con cọp sẽ bủn rủn tay chân, có khi ngất xỉu vì quá sợ hãi trước thần lực của nó. Muông thú trong rừng đều sợ họ nhà cọp. Nhiều con vật khi đã gặp nó, không đủ sức chạy nữa vì sức thôi miên của nó. Nhưng tinh thần ngài Quy Sơn Linh Hựu vẫn vững vàng. Thấy con cọp chặn đường, Ngài nói : “Nếu ta có duyên với núi này, ngươi tránh qua bên; còn nếu ta không có duyên, ngươi cứ ăn thịt”. Nói rồi, Ngài xăm xăm đi tới. Nhưng con cọp đã tránh qua một bên. Thần lực của Ngài rất vững vàng, tinh thần của Ngài rất mạnh mẽ đến cọp cũng phải nể. 

Chuyện cọp vào quy y với ngài Hư Vân cũng thật kỳ lạ. Hòa thượng Hư Vân là người rất đặc biệt. Khi Ngài giảng Kinh trong chùa, một con cọp trên núi cũng xuống vào chùa xin quy y. Gần đây nhất là câu chuyện ngài Hư Vân dám đi thẳng vào quân trại gặp thống binh Lý Căn Nguyên để ngăn chặn việc phá chùa, bắt Tăng ở Trung Hoa. Khi Cách mạng Tân Hợi thành công (1911) đánh đổ được triều đại nhà Mãn Thanh, chấm dứt triều đại phong kiến tồn tại hàng mấy ngàn năm và thành lập nước Trung Hoa Dân quốc, Tôn Văn ( là Tôn Dật Tiên ) lên làm Tổng thống đầu tiên của Trung Hoa. Ông là người theo Tây học và có theo đạo Thiên Chúa. Vì vậy, chính quyền của ông rất có ác cảm với đạo Phật và ra lệnh đập phá chùa chiền, bắt Tăng sĩ. Trong đó, thống binh Lý Căn Nguyên là người cực đoan, chống lại đạo Phật rất quyết liệt. Ông đem quân tràn xuống miền Vân Nam, nơi ngài Hư Vân đang ở, bắt Tăng sĩ giam vào tù, phá dỡ hết chùa chiền. Nghe nói ngài Hư Vân rất nổi tiếng, là người thuộc hàng lãnh đạo của Phật giáo, ông ta có ý định sẽ đến đó bắt giam luôn Ngài. Ông đưa quân về đó lập doanh trại nên Tăng chúng trong các chùa đều xin đi nơi khác, không ai dám ở lại. Ai cũng lo sợ, khuyên Ngài hãy đi lánh nạn nhưng Ngài nói: “Các vi muốn đi thì cứ đi. Nếu phải trả nghiệp báo thì lẩn trốn có ích chi. Ta sẵn sàng đem thân mạng mình hy sinh cho Phật pháp”. Rồi Ngài đích thân một mình đi đến doanh trại xin gặp ông thống binh. Khi tới cổng trại, những người lính biết Ngài là bậc chân tu đã khuyên Ngài nên trốn đi, nếu không tai họa sẽ ập đến. Nhưng Ngài nói : “Không, cho tôi vào gặp thống binh” và đi thẳng vào doanh trại. Vốn không có cảm tình gì lại thấy Ngài dám vào nói chuyện với mình, thống binh Lý Căn Nguyên sắc mặt nóng giận hỏi Hòa thượng:

- Phật giáo dùng để làm gì, có ích lợi chi ?

Hòa thượng Hư Vân đáp:

- Ân đức giáo hóa của Thánh nhân thật vô lượng.… Phật giáo dùng để cứu đời, làm lợi ích cho nhân dân. Từ lời dạy đơn sơ đến lý lẽ thâm sâu đều vì tạo việc lành, dẹp trừ điều ác… Phật giáo dạy người trị bịnh trong tâm. Tâm là gốc của muôn ngàn sự vật. Nếu gốc chân chính thì muôn việc đều bình an, trời đất luôn thái bình

Nghe Hòa thượng trả lời như vậy, ông ta hỏi tiếp:

- Vậy chứ còn tượng đồng, tượng gỗ để làm gì vậy, chỉ tốn hao tiền của dân chúng thôi chứ ích lợi gì ?

……

- Nếu thế, tại sao các tăng sĩ không làm những việc tốt mà lại đi làm các việc kỳ quái, như những kẻ phế thải trong xã hội ?

…….

Khi nói chuyện, ông ta công kích đạo Phật rất dữ dội. Tất nhiên, trước sự công kích của người khác, chúng ta phải suy nghĩ lại. Chúng ta phải nghĩ xem trong thời đó, quý Thầy đã làm gì để người ta kết luận sự hiện diện của đạo Phật không đem lại ích lợi cho cuộc đời này mà đem lại sự tốn kém; còn các Tăng sĩ như những kẻ phế thải trong xã hội ? Suy nghĩ về lời phê phán nặng nề của người khác một cách sâu sắc, chúng ta sẽ thấy được lỗi của mình. Trong trường hợp này, ngài Hư Vân đã bình tĩnh trả lời từng câu hỏi của ông thống binh bằng đạo lựcuy đức của mình. Nhờ vậy, từ một con người công kích đạo Phật rất nặng, bắt hết Tăng sĩ, dọa bắt luôn ngài Hư Vân, vị thống đốc kia trở nên có cảm tình với Ngài và cảm tình với đạo Phật. Ông ta đã nhận ra Phật pháp thật cao siêu . Sau này, vị tướng họ Lý vào chùa xin quy y, nguyện xin làm đệ tử của Hòa thượng và thỉnh Ngài làm tổng trụ trì toàn núi Kê Túc.

Câu chuyện cho thấy tấm gương can đảm của ngài Hư Vân. Nếu không do đức tu hành khổ hạnhlòng can đảm, làm sao Hòa thượng có thể chuyển tâm được viên tướng Lý Căn Nguyên trong một khoảng thời gian ngắn ngủi như thế? Chuyện ngợi ca những gương can đảm trong đạo Phật như vậy rất nhiều. Chúng ta chỉ nêu một vài chuyện tiêu biểu để làm gương.

Trong chiến tranh, có biết bao tướng sĩ dũng cảm xông pha vào chỗ chết để chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước. Chúng ta từng nghe sử sách kể về tấm gương can đảm của ông Trần Bình Trọng. Vào thời nhà Trần, quân Mông Cổ đem quân xâm lược nước ta. Bọn chúng là những kẻ hiếu sát và khát máu. Gặp quân ta, chúng giết ngay chứ không cần bắt làm tù binh. Nhưng khi bắt được Trần Bình Trọng, bọn chúng không giết mà yêu cầu ông hợp tác và hứa nếu ông đồng ý, chúng sẽ phong Vương cho ông. Trần Bình Trọng trả lời một cách khảng khái : “ Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Câu trả lời nổi tiếng của ông đã đi vào sử sách và tên tuổi của ông đã được lưu danh muôn thuở

Tuy sự nghiệp của Trần Bình Trọng không được sử sách viết nhiều nhưng là người tu học, chúng ta phải suy luận xem ông có uy đức gì khiến những tên lính khát máu đó phải nể phục ? Có thể nói, Trần Bình Trọng có một thần thái phi thường, phát ra bên ngoài ở sự cương nghị, ở phong thái đĩnh đạc và tư thế hiên ngang, bất khuất. Nếu không bị bắt, không bị giết chết, có lẽ ông sẽ có nhiều cống hiến lớn lao hơn cho đất nước. Con người ấy rất phi thườngchúng ta không thể nào khai thác hết được. 

Hoặc chuyện kể về Nguyễn Biểu cũng được lịch sử ghi lại như một tấm gương sáng về lòng can đảm. Khi quân Minh sang xâm lược nước ta, ông đại diện cho Lê Lợi đến thương lượng với giặc. Một mình ông dám đi vào doanh trại của giặc trong khi bọn chúng đang tìm cách tiêu diệt lực lượng kháng chiến của nghĩa quân Lam Sơn. Khi tiếp kiến, bọn giặc đã chặt đầu một tù binh đem hấp, mắt còn mở trừng trừng và đặt lên bàn để đãi ông. Nhưng ông vẫn bình tĩnh lấy đũa gắp hai con mắt bỏ vào miệng nhai nuốt trước sự ngạc nhiên của bọn giặc. Con người ấy quả thật có một lòng can đảm, một tinh thần mạnh mẽ, vững vàng

Lật lại từng trang lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc từ xưa đến nay, chúng ta còn thấy lấp lánh biết bao tấm gương khác về lòng can đảm, về tinh thần dũng cảm, không khuất phục trước kẻ thù. Chúng ta rất tự hào khi tổ tiên mình có những con người phi thường như thế… 

Hiện nay, trên thế giới vẫn đang tồn tại những tổ chức tội ác rất tinh vi như: Mafia ở Âu Châu hay Hội Tam Hoàng ở Hồng Kông… Bọn Mafia hoạt động có tổ chức rất chặt chẽ và có một quy định gần như thành luật, luật bất thành văn gọi là luật im lặng. Nghĩa là thấy chúng giết người hay làm bất cứ việc gì ở đâu, mọi người đều phải im lặng. Nếu không, chúng sẽ trừng trị thẳng tay, không tha thứ. Vì vậy, suốt một thời gian dài, không ai dám tố cáo bọn tội phạm đó. Chúng vẫn lộng hành nhưng cảnh sát không thể nào điều tra được. Cuối cùng, không chịu đựng nổi, toàn dân Ý đã đứng lên chống lại. Họ chấp nhận chết, quyết không chịu im lặng. Nhờ phá vỡ luật im lặng ấy mà tổ chức tội phạm Mafia dần dần bị tiêu diệt. Trong cuộc chiến đấu chống lại bọn tội phạm ấy, có những vị quan tòa đã phải trả giá bằng cả sinh mạng của mình. Tiêu biểu cho những con người kiên quyết chống lại bọn Mafia ấy là Falcon. Ông chiến đấu chống bọn tội phạm rất có hiệu quả. Nhưng cuối cùng, bọn chúng điều tra và nắm được lộ trình của ông. Một lần trên đường đi về từ sân bay, xe ông bị chúng đặt bom làm nổ tan tành. Ông đã phải trả giá bằng cả sinh mạng của mình. Những người sau vẫn kế tục sự nghiệp chống bọn tội phạm của ông một cách gan dạï, kiên trì, không mệt mỏi

Trong cuộc đời, nếu nhiều người dám chống lại tội ác, không hề sợ hãi, tội ác sẽ dần dần bị đẩy lùi. Nếu chúng ta lúc nào cũng dè dặt, sợ hãi, tội ác sẽ lan tràn mãi, lan tràn mãi như cỏ dại gặp mùa xuân.

4. CÔNG ĐỨC.

Chúng ta biết rằng, tạo phước trong điều kiện dễ dàng, phước sẽ không nhiều. Chính sự cố gắng quá độ mới đem lại cho chúng ta phước lớn. Nếu tạo phước trong điều kiện nguy hiểm thì công đức vô cùng lớn. Đây là điều chúng ta cần khẳng định lại. 

Trong hoàn cảnh thế giới hiện nay, Phật pháp còn gặp rất nhiều khó khăn. Nếu nghĩ rằng Phật pháp hiện nay đang phát triển trong hoàn cảnh thuận tiện, chúng ta sẽ mất đi ý thức phấn đấu để giáo hóa chúng sinh, để xây dựng Phật pháp. Sở dĩ đạo Phật gặp nhiều khó khăn là do những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trước hết, bên cạnh những cán bộ có thiện cảm, giúp đỡ cho đạo Phật phát triển, vẫn có nhiều viên chức Nhà nước còn ác cảm với đạo Phật, luôn gây khó khăn, cản trở những người làm Phật sự. Đây là một sự thật. Vì vậy, hoạt động Phật pháp trong hoàn cảnh có nơi chính quyền có thiện cảm với đạo Phật, có nơi không có thiện cảm, chúng ta sẽ rất vất vả. Nhiều cán bộ còn ảnh hưởng tư tưởng cho rằng đạo Phật, tôn giáo là thuốc phiện của quần chúng theo tín ngưỡng cũng đồng nghĩa với mê tín. Vì thế, họ luôn luôn gây khó khăn cho chúng ta. Nhiều khi họ còn nghi kỵ những người về vùng hẻo lánh mang Phật pháp, đạo đức đến cho con người. Họ cho rằng những người ấy có liên quan đến chính trị và luôn theo dõi, rình rập. Những lúc như vậy, nếu sợ hãi, không dám đương đầu với nguy hiểm, chúng ta sẽ không làm được việc cho Phật pháp. Mỗi người phải can đảm, cứ tiếp tục làm việc Phật pháp để giáo hóa chúng sanh. Chính những việc làm tốt của chúng ta, chính nhân cách đạo đức của chúng ta sẽ giúp họ hiểu ra sự thật

Bên cạnh đó, còn có không ít những quần chúng còn chỉ trích tu sĩ. Đó là những người không có tín ngưỡng, không có niềm tin vào Phật pháp. Nhiều khi nhìn thấy người tu, họ còn xem thường, thậm chí công kích. Tất nhiên, người xuất gia chúng ta cũng cần xem lại nhân cách, tư cách đạo đức của mình. Có thể có trường hợp “một con sâu làm rầu nồi canh”, khiến họ “vơ đũa cả nắm” và có ác cảm với người tu. Bổn phận của chúng ta là phải cố gắng, phấn đấu rèn luyện tư cách đạo đức của mình để làm gương cho những người đi sau. Chúng ta làm sao cho tất cả những người tu đều có đạo đức tốt, đều có lòng thương yêu chúng sanh, có lý tưởng thiết tha hướng về sự giác ngộ giải thoát. Có như vậy, cuộc đời này sẽ bớt đi người xấu và quần chúng bên ngoài bớt đi sự công kích. Đó cũng là cách để chúng ta đền ơn Phật. Chúng ta quyết không để vì một người xấu mà ảnh hưởng đến uy tín của đạo Phật

Ngoài những nguyên nhân trên, các cuộc cạnh tranh tôn giáo cũng gây khó khăn cho sự phát triển của đạo Phật. Đạo Phật vốn rất hiền lành, thậm chí nhu nhược trong khi các tôn giáo khác luôn âm thầm có những kế hoạch lôi kéo tín đồ. Chẳng hạn, một người trong đạo lấy chồng hay lấy vợ đều phải chọn người theo đạo hoặc buộc người khác phải theo đạo của họ. Hoặc con cái sinh ra phải theo đạo của cha mẹ. Trong khi đó, đạo Phật không quan tâm đến điều này. Nhiều người theo đạo Phật nhưng khi lấy chồng, lấy vợ lại bỏ đạo để theo đạo của chồng hoặc vợ mình. Có khi, cha mẹ theo đạo Phật nhưng lại không hướng cho con cái theo đạo Phật, cứ quan niệm khi lớn lên, tùy con cái lựa chọn tín ngưỡng cho mình… Đó là thái độtrách nhiệm của Phật tử hiện nay mà người tu chúng ta cần phải lưu ý.

Không chỉ đơn giản là giành tín đồ, một số tôn giáo còn có những kế hoạch phá đạo Phật rất thâm hiểm. Chúng ta biết rất rõ điều đó. Mặc dù lòng vẫn từ bi, không thù ghét nhưng chúng ta cũng phải hiểu đây là một sự đe dọa lớn đến việc phát triển đạo Phật

Đối với đạo Thiên Chúa, việc truyền bá đạo cũng nằm trong khuôn khổ luật pháp nên không gây nhiều khó khăn cho các tôn giáo khác. Nhưng Hồi giáo là một trong những đạo tranh giành tín đồ, tranh giành đất đai bằng súng đạn. Tại những vùng đạo Hồi phát triển, thân phận người theo đạo Phật rất nguy hiểm. Có những vùng trước kia là đạo Phật, bây giờ trở thành đạo Hồi cũng bằng con đường bạo lực, bằng sự mạnh mẽ, cuồng tín của họ. I-ran, Ba Tư ngày xưa được coi là những nước có đạo Phật phát triển mạnh, bây giờ trở thành một nước chỉ có đạo Hồi ngự trị. Hay một đất nước Ấn Độ rộng mênh mông, trước kia đạo Phật chiếm lĩnh, bây giờ thành đất nước của Hồi giáo, của Ấn Độ giáo. Những vùng như Indonesia, Mã Lai cũng là nơi đạo Phật phát triển bây giờ đã thành vùng đất của Hồi giáo. Hay ở Thái Lan, Phật giáo vốn là Quốc giáo, bây giờ miền Nam Thái Lan đang dần dần trở thành đất của Hồi giáo…. 

Hiện nay, tại Việt Nam, một số đền thờ Hồi giáo đã xuất hiện. Họ cũng đang ngấm ngầm nhận được sự tài trợ để truyền bá đạo của mình. Nếu chúng ta cứ thờ ơ, không nhìn xa, nhìn rộng, không thấy được trách nhiệm của mình đối với đạo Phật thì tiền đồ của Phật pháp sẽ không thể nào tươi sáng. Ngay từ đầu, chúng ta đã xác định là không có hành động tranh giành tín đồ nhưng mỗi người phải có trách nhiệm đem Phật pháp giáo hóa rộng rãi khắp nơi để mọi người biết được luật Nhân Quả. Không biết luật Nhân Quả là một thiệt thòi lớn cho chúng sinh. Vì vậy, chúng ta phải truyền bá Phật pháp để truyền được luật Nhân Quả, đem ánh sáng trí tuệ đến cho con người. Nếu chúng sinh tin được luật Nhân Quả, họ sẽ có chánh kiến vững chắc để đi trong luân hồi bớt đau khổ. Đồng thời, họ được soi mình trong ánh sáng của Phật pháp

Trong đạo Phật còn có lý tưởng, có con đường đưa đến sự giải thoát giác ngộ. Đó là nơi hạnh phúc, an vui thật sự tuyệt đối mà các đạo khác không có. Chính vì vậy, chúng ta luôn luôn cố gắng đem Phật pháp truyền bá cho mọi người. Tuy nhiên, lý tưởng thật cao đẹp nhưng do tinh thần yếu đuối, nhu nhược nên cuối cùng chúng ta đã để biết bao nhiêu chúng sinh rơi vào tà kiến của các tôn giáo khác. Đó là một nhược điểm mà chúng ta phải khắc phục. 

Hiện nay, ngay trong nội bộ đạo Phật cũng chưa có sự đoàn kết, vẫn còn những phần tử kết bè phái để mưu hại người tốt. Đây là điều đau lòng nhất trong Phật pháp. Không ít người tuy mang hình thức Tăng sĩ nhưng sự thật là người không tốt. Có những người do quen biết, có thế đứng trong Giáo hội, nắm được thế lực nhưng lại dùng thế lực ấy để hà hiếp người khác, vơ vét quyền lợi cho mình, không lo lắng gì cho Phật pháp. Sống trong những môi trường như vậy, chúng ta cũng phải can đảm, không ngần ngại khi nói ra sự thật này. Có những lúc không đấu tranh được, chúng ta phải biết chịu đựng nhưng cũng chịu đựng với một thái độ gan dạ. 

Một điều nữa chúng ta cũng cần phải quan tâm. Đó là những cách thức có tính hủ bại trong sinh hoạt của Tăng sĩ. Ở đây chúng ta không tiện phân tích kỹ nhưng sự thật có nhiều chuyện rất đau lòng, cần phải được chấn chỉnh. Nói ra điều này, chấn chỉnh điều này chắc chắn chúng ta sẽ gặp những phản ứng gay gắt, thậm chí còn bị nhiều người thù ghét, công kíchtìm cách mưu hại. Trong hoàn cảnh hiện nay, sự căm ghét, mưu hại cũng là một trong những mối nguy hiểm mà chúng ta phải đối phó trong quá trình sinh hoạt Phật giáo. Khi bước ra làm việc đạo, chúng ta phải xác định rằng mình phải đi trong chông gai, trong sóng gió, biết bao hiểm nguy đang rình rập. Bởi vậy, ngay từ bây giờ, chúng ta phải trang bị cho mình lòng can đảm cao độ để có thể vượt qua những khó khăn, nguy hiểm để có thể làm được nhiều điều lợi ích cho chúng sinh, góp phần xây dựng Phật pháp. Và quan trọng hơn nữa là để chúng ta đền ơn chư Phật, chư Thánh, đền ơn những vị Tôn túc đã đi trước dẫn dắt chúng ta. Được sống trong môi trường yên ả, thanh bình để tu học, chúng ta hoàn toàn nhờ vào công lao của những bậc Tôn túc đi trước, gần nhất là quý Thầy trong Ban Giám hiệu, xa hơn nữa là bao nhiêu vị Hòa thượng chân tu đã tiếp nối giáo hóa Phật pháp. Chính các vị đã giáo hóa rất nhiều Phật tử cho những thế hệ đi sau mình. Chúng ta phải hiểu rằng, việc hộ đạo luôn luôn là việc của cư sĩ. Không có họ, chúng ta khó có thể duy trì được Phật pháp. Nghĩ đến điều đó, chúng ta phải tiếp tục giáo hóa để Phật tử về sau lại tiếp tục hộ đạo, duy trì Phật pháp, nuôi dưỡng chư Tăngthế hệ sau. Đó cũng là trách nhiệm vô cùng thiêng liêng của mỗi chúng ta

 5. NHỮNG PHẢN ỨNG PHỤ.

Tâm can đảm cũng có những phản ứng phụ. Trước hết, sự can đảm dễ trở thành sự kiêu mạn; người can đảm cũng dễ là một người kiêu mạn. Vì qua một lần sử dụng sức mạnh của tinh thần, tự nhiên bản ngã được kích động và lớn dần lên.

 Ví dụ, một lần nọ, mấy tay du côn ở đâu kéo đến chùa, tấn công mọi người. Trong chùa, có một Thầy biết võ, gan dạ đứng ra đánh lại bọn chúng bảo vệ chùa, bảo vệ Tăng đoàn, Tăng chúng. Sự can đảm, chiến thắng những kẻ du côn hung bạo đó đã làm cho người ấy kiêu mạn, tự hào. Đó là tâm lý rấât dễ xuất hiện trong mỗi người. Bởi vậy, chúng ta phải xác định, đi tìm sự giải thoát phải vừa can đảm, vừa khiêm hạ. Dũng là một đức tính rất cần thiết của người tu nhưng trong gian nguy, làm được điều gì cho Phật pháp, chúng ta cũng phải thấy mình chỉ là cỏ rác, cát bụi mà thôi. Có như vậy, tâm kiêu mạn mới không có dịp khởi lên. 

Sự can đảm cũng dễ tạo thành tính nóng nảy. Thông thường, những người có tinh thần mạnh mẽ, xốc vác, dám xông pha vào những nơi khó khăn cũng là người dễ nổi sân. Vì kiêu mạn nổi lên thì sân sẽ đi theo. Do đó, chúng ta phải lưu ý điều này. Chúng ta rất gan dạ, rất can đảm nhưng cũng rất hiền lành, điềm đạm. Đó là tính cách đặc biệt của người theo đạo Phật

Đọc những câu chuyện viết về cuộc đời ngài Hư Vân, chúng ta thấy con người này có phong thái ung dung, tính tình vô cùng hiền lành nhưng khi gặp nguy hiểm lại can đảm đối diện, không hề sợ hãi. Chúng ta phải học theo tinh thần ấy của Ngài. Nếu gặp khó khăn nguy hiểm, chúng ta sẵn sàng gánh vác cho mọi người nhưng lúc nào cũng giữ thái độ khiêm tốn, phong thái hiền lành, nhẹ nhàng. 

Một điều chúng ta cũng thường thấy là sau một khó khăn, nguy hiểm để hoàn thành công việc tốt, người ta dễ sinh tâm niệm cậy công. Đó là sự kể công, là nhớ công lao của mình. Ví dụ, một người rất can đảm, từng xông xáo trong đám lửa cháy rừng rực để cứu của, cứu người thoát nạn nhưng sau đó cứ nhớ mãi việc làm của mình. Thỉnh thoảng, người ấy nhắc lại với một niềm tự hào, một chút cậy công theo kiểu: “Nếu không nhờ tôi, tất cả bây giờ đã trở thành tro bụi …”. 

 Tâm niệm cậy công cũng là một điều làm chướng đạo. Chúng ta phải tránh tâm niệm ấy. Trong hiểm nguy, gian khó, nếu đã quyết tâm làm được điều gì tốt thì chúng ta phải để công lao đó bay theo mây, theo gió, đừng bao giờ nhớ đến nữa, cũng đừng mong ai phải nhớ điều đó nữa. Thử liên hệ đến truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc, chúng ta sẽ thấy không phải ngẫu nhiên mà cha ông ta ngày xưa đã để cho câu chuyện “Thánh Dóng” kết thúc một cách hoang đường kỳ lạ như vậy. Người anh hùng làng Dóng sau khi đánh đuổi giặc Ân ra khỏi bờ cõi nước nhà đã phi ngựa lên núi Sóc Sơn, cởi nón sắt, giáp sắt bỏ lại, một mình một ngựa bay thẳng lên trời biến mất. Đó cũng là biểu hiện của tấm lòng vì nước, vì dân, sẵn sàng chiến đấu nhưng không cần người đời ghi nhớ và biết ơn

Tâm can đảm còn có một phản ứng phụ khác. Đó là sau khi đối diện với hiểm nguy, chết chóc trở về, con người dễ trở thành những người tàn nhẫn. Thực tế đã chứng minh điều đó. Nhiều người lính từng có những năm tháng gian khổ, cận kề với cái chết từ chiến trường trở về đã có những biểu hiện rất tàn nhẫn. Họ ra đi chiến đấu vì chính nghĩa là điều hoàn toàn đúng. Nhưng khi đối diện với nguy hiểm, lòng can đảm, sự gan dạ sẽ tăng lên. Rồi bản ngã, sự tàn nhẫn vì thế cũng tăng lên theo. Khi trở về hậu phương, nếu không biết tu sửa, kiềm chế, họ dễ có những hành động thô bạo. Nhiều khi chỉ cần người khác nói điều gì không vừa ý, họ có thể đánh đập môït cách tàn nhẫn. 

Hiểu được những phản ứng phụ đi theo tâm can đảm như vậy, chúng ta phải rất cẩn thận. Một mặt, chúng ta phải can đảm gan dạ, đối diện với nguy hiểm nhưng mặt khác lại hết sức từ bi, thương yêu con người. Đó là lý do vì sao Phật đưa yếu tố Bi lên trước Trí và Dũng. 

đệ tử Phật, chúng ta phải tu tập tâm từ thuần thục, ngày đêm quán từ bi cho thật kỹ để làm nền tảng cho tính can đảm ( Hùng lực). Quán từ bi là việc rất quan trọng nên chúng ta phải huân tập lâu dài. Khi quán được tâm từ bi, chúng ta sẽ thấy mọi việc trong cuộc sống dần dần thay đổi và thái độ của chúng ta đối với con người cũng thay đổi. Được như vậy, sau này chúng ta sẽ làm được nhiều việc tốt cho Phật pháp nhưng vẫn giữ được đức khiêm tốn, vẫn thương yêu con người, vẫn không xem mình là quan trọng. 

Khi còn là Tăng sinh, dù được quý Thầy che chở , được sống trong môi trường bình yên, nhưng biết can đảm, dũng lực, là một đức tính quan trọng của người tu Phật, chúng ta phải tập dấn thân vào nguy hiểm, khó khăn để rèn luyện đức tính ấy. Khi có việc khó khăn, cực nhọc hoặc nguy hiểm, chúng ta không ngần ngại giành lấy về mình, không được tránh né hay tỏ ra sợ hãi. Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải tích lũy phước từng chút để tinh thần được mạnh mẽ. Chính tinh thần mạnh mẽ là yếu tố cơ bản để tạo nên tính can đảm về sau. Nếu tinh thần yếu đuối, khi gặp chuyện nguy hiểm, chúng ta sẽ không dám đương đầu.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12091)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16512)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12120)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14148)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 24415)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10588)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12394)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10247)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12229)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11526)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 11926)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12896)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11340)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 17274)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21195)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10585)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19074)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12301)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25827)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14266)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 13625)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16707)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17398)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13012)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12426)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11518)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11468)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 20258)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18809)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19414)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18490)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14884)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 14950)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13859)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15413)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 14469)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 15711)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12787)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18257)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15663)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 10973)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53435)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12870)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16389)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15257)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19812)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15418)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15237)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15057)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 10281)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20180)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 15348)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 12946)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 19843)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13167)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 28926)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11601)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant