Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần V : Kết LuậnTài Liệu Tham Chiếu

21 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 4172)
Phần V : Kết Luận Và Tài Liệu Tham Chiếu

TÂM LÝ HỌC PHẬT GIÁO
Thích Tâm Thiện
Xuất bản: Ban Văn hóa Trung ương GHPGVN

Phần V : Kết LuậnTài liệu Tham chiếu

Qua phần trình bày về Tâm lý học và tâm lý giáo dục Phật giáo trên cơ sở của hệ thống tám thức được thuyết minh bởi 30 bài tụng Duy thức của Vasubandhu, các phân tích về tâm thức của Bách pháp minh môn luận, (bởi Vasudbandhu) và Nhiếp luận của Asanga, cũng như một số tư tưởng trong kinh tạng và luận thư của Đại thừa, chúng ta có thể đi đến một số kết luận sau : 

1- Duy thức họctâm lý học Phật giáo, vì nội dung của nó tập trung khảo sát, nghiên cứu và phân tích từ các hiện tượng tâm lý cho đến cái bản chất của các hiện tượng tâm lý đó. Mặt khác, Duy thức học cũng đề cập đến con đường cụ thể để phát triển tâm thức và làm cho tâm thức con người đi ra mọi rối loạn, bất an, đau khổ để đạt đến một sự toàn tri cao nhất - tức là chứng đắc giác ngộ - Niết bàn như được trình bày cụ thể trong năm địa vị của Duy thức

2- Lý do phân tích cụ thể các đặc tính, hiện tượng, bản chất, trạng thái và các mối liên hệ v.v..., của tâm thức trong triết học Duy thức là để giúp con người nhận thức rõ ràng các yếu tố của tâm thức như phiền não, căn bản của phiền não, tâm thiện, tâm bất thiện, tâm sở tác v.v... Qua đó, mỗi người tự nhận thức rõ ràng cái căn để của khổ đau và hạnh phúc, của thực tại ảo và thực tại như thực... Và cũng từ đó, mỗi người tự kiến tạo cho mình một sinh mệnh (chánh báo) và cuộc đời (y báo) an lạc, hạnh phúc thật sự. 

3- Điểm độc đáo nổi bật nhất của Duy thức học cũng như điểm khác biệt cơ bản giữa Duy thức học và các hệ thống tâm lý học Tây phươngTàng thức

Tàng thức, như đã trình bày, là một tổng thể vừa là nền tảng, vừa là đỉnh cao của toàn bộ triết học Duy thức, cũng như con đường khởi đầu và kết thúc của một tiến trình tâm lý từ cuồng si, ngu muội đến thánh trí-tuệ giác vô thượng ; ở đây được trình bày cụ thể qua hai góc độ : nhận thức và hành động. Trước hết, mỗi người cần phải được giáo dục, được đánh thức để nhận diện rõ rằng tất cả hiện hữu trên cuộc đời này từ các hiện tượng tâm lý thô kệch, như buồn, giận, yêu, thương đến các hiện hữu của thế giới siêu thức, như vô tưởng định, diệt tận định ; và thậm chí ngay cả thế giới thực tại khách quan với muôn ngàn dị biệt đa thù v.v... tất cả đều là biểu hiện của Tàng thức. Cho đến cái gọi là nhân tính, ngã tính, cái tập khí năng huân và sở huân... thực chất cũng chỉ là những tác năng và biểu hiện của Tàng thức. Tàng thức là một dòng sông đang trôi chảy, do đó mọi tác năng và biểu hiện của nó dù được biểu thị dưới bất kỳ hình thức nào cũng không thể gọi là có "một ngã tính vĩnh hằng-bất tử". 

Trong khi đó, các hệ thống tâm lý học phương Tây hoặc là chỉ dừng lại ở ý thức tự ngã, hoặc là đi xa hơn - ở một vùng vô thức như những khái niệm của Freud và Jung. Nhưng khi đối diện với các vấn đề thống thiết, bức bách của con người như : khát vọng của tình dục, khát vọng của con tim, khát vọng của ý thức v.v... thì các hệ thống tâm lý ấy đề ra những "tiếng gọi" từ bản năng (Id), từ tự ngã, từ siêu ngã... Và, hướng giải quyết các vấn đề thống thiết ấy không còn cách nào khác hơn là đi vào một giải pháp "bão hòa", hoặc "đáp ứng nhu cầu" - tức chiều theo "tiếng gọi" của ý thức - tự ngã. 

Sau cùng và ngược lại, con đường đi về phía trước của Phật giáocon đường của trí tuệ - nghĩa là sau khi nhận thức rõ về chân lý, con người hoặc là theo chân lý để đi đến một thực tại-toàn tri (giác ngộ), hoặc là sẽ mãi mãi đắm chìm trong cơn khát vọng trần thế đang thiêu đốt. Đây là sự thách đố vĩ đại nhất của nhân loại trước viễn cảnh của Chân nhưtục lụy. Tuy nhiên, nên nhớ rằng : "Niết bàn sinh tử thị không hoa". 

4- Điểm cơ bản của sự giống nhau và khác nhau trong tâm lý học Phật giáotâm lý học hiện đại là ở chỗ : về mặt giống nhau, cả hai hệ thống tâm lý học đều tập trung nghiên cứu, khảo sát các vấn đề tâm lý, các hiện tượngdiễn tiến của tâm lý - nghĩa là cùng hướng về sự nhận thức của con người, tức là ý thức. Tuy nhiên, trong khi Phật giáo qua triết lý của mình đã soi sáng cái tự tính vô tính (Nihsvabhava) của con ngườithế giới - có nghĩa là "Tất cả đều vô ngã - Anatta". Ngược lại, tâm lý học hiện đại nỗ lực xây dựng học thuyết của mình theo tiếng gọi của bản năng dục vọng, của ý thức tự ngã ... và do đó phải liên tục đối diện các vấn đề nóng bỏng của các mâu thuẫn nội tại giữa khát vọng của tự ngã và ý thức xã hội, ý thức đạo lý - nghĩa là "con tim" và "khối óc" liên tục đánh nhau. Và cũng từ đó, con người với ý thức tự ngã cho rằng đây là Tôi (I), đây là cái của Tôi (mine), đây là cái tự ngã của Tôi (myself) và chấp thủ, bám víu vào cái tôi, cái của tôi, và cái tự ngã của tôi, nghĩ rằng đó là thường tại vĩnh hằng. Vì thế, do chấp thủ vào tự ngã, đắm say vào tự ngã mà con người thường xuyên rơi vào từ khủng hoảng này đến khủng hoảng khác, đó là các khủng hoảng của con tim và lý trí... 

5- Quan niệm về con người : Dưới lăng kính của Duy thức học, con người không phải là một sinh thể độc lập, một con người cá thể, hay một sinh vật xã hội như quan điểm của triết học Tây phương ; cũng không phải là một phần của bản thể Đại ngã (Brahman), như triết học Ấn Độ cổ đại ; cũng không phải là hiện hữu từ vô vi, hay nguyên lý vận hành của âm dương như triết học Trung Hoa. Con người theo Phật giáo, trước hết là một biểu hiện từ Tàng thức, bao gồm đầy đủ các nhân duyên (địa, thủy, hỏa, phong, không, thời, phương, thức) và xuất hiện như một tổng thể bất khả phân ly của năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) ; và bản chất của con người không gì khác hơn là một tích hợp của nhân duyên cộng với dòng nghiệp thức. Nếu có mặt đầy đủ các nhân duyên mà thiếu vắng dòng nghiệp thức (hay Kiết sinh thức) thì con người không thể hình thành như một sinh vật biết tư duy, có tri giác, biết sáng tạo và có con tim yêu thương...; mà trái lại, con người thiếu vắng dòng nghiệp thức đó sẽ là tượng đá vô tri, không thể giáo dục, uốn nắn, đào luyện được. Nhưng Nghiệp ở đây là gì ? Như đã trình bày, đó là các hạt giống, các tập khí, các tạo tác trong chiều sâu của tâm thức. Nói khác đi, nghiệp chính là tư duy và hành động của chính mỗi con người, đó là các nghiệp thiện, ác (và vô ký). Con người, trên đời trần thế, đã tạo nghiệp (nhân) gì thì phải gánh chịu nghiệp (quả) đó. Hành động, tư duy và tạo tác của ta như một thứ trái khoán được vay mượn, và một ngày nào đó nó phải được trả lại cho trái chủ - tức là con người chính nó. Như thế, sự hiểu biết, nhận thức đúng đắn về Nghiệp (Karma) sẽ giúp bạn thoát khỏi lưới mê hoặc của các "đấng" tạo hóa, quyền năng, ngự trị, chi phối sinh mệnh của chính bạn. Và từ đó, bạn hãy tự chọn cho mình một hướng đi. 

6- Con đường tu tập của Duy thức : Mục đích của Duy thức được lập ra là để giúp con người tiến đến một sự chuyển y - một thay đổi trọn vẹn toàn bộ cơ cấu tâm thức của con người. Đó là cái cơ cấu được thiết lập bởi dục vọng, chấp thủ, tham ái, bởi các xung năng tình dục, hiện hữu và không hiện hữu v.v... Và con đường chuyển y đó được Nhiếp Luận của Asanga định rõ qua sáu bước : (1) Thứ nhất là do công năng hiện quán thiền định, do các lực Thắng giải (sự hiểu biết - trí tuệ) trong giao tiếp (đa văn) huân tập, và do có sự hổ thẹn nên các phiền não được suy giảm và một phần băng tiêu. Đây là sự chuyển y bằng cách qui giảm sức mạnh và tăng thêm khả năng. (2) Thứ hai là sự chuyển y bằng thông đạt. Riêng đối với các vị Bồ Tát đã vào Đại địa (từ sơ địa đến lục địa), sức mạnh của sự chuyển y chính là "đôi mắt" nhìn cuộc đời hiện hữu. Ở đó, cái chân thật được hiển thị, còn cái phi chân thật thì không hiển thị. (3) Thứ ba là chuyển y bằng sự tu tập (từ thất địa đến thập địa). Ở địa vị này chỉ có chân lý hiển thị còn các ảnh tượng của chân lý thì không. Nghĩa là Bồ Tát có khả năng thấu thị (hay nhìn xuyên suốt) toàn chân pháp giới. (4) Thứ tư là chuyển y bằng thể tính thanh tịnh viên mãn. Ở đây, Bồ Tát đã tung tăng giữa dòng đời sinh tử phiêu bạt này mà không còn bất kỳ một chướng ngại nào ; đây là sự đạt đến chân lý tối hậu - cứu cánh, tức giác ngộ giải thoát toàn diện. (5) Thứ năm là sự chuyển y của hàng Thanh Văn - Đó là sự chỉ đạt đến nhân không - Vô ngã. Và (6) thứ sáu là sự chuyển y của Bồ Tát - Sự thông đạt cả Nhân không - Vô ngãPháp không - Vô ngã. Hai sự chuyển y thứ năm và thứ sáu chỉ là cách phân loại theo quan niệm về Mahayana (Đại thừa) và Hinayana (Tiểu thừa). Như thế cách trình bày về sáu bước chuyển y của Asanga đã được Vasubhandhu hệ thống hóa lại thành năm địa vị Duy thức, đó là : tư lương, gia hạnh, thông đạt, tu tậpcứu cánh

7- Thế giới quan của Duy thức được nhìn bằng đôi mắt "nhân duyên". Từ con người đến thế giới sự vật hiện tượng tất cả đều là hiện hữu của nhân duyên ; và khái niệm Duy thức tức là khái niệm "Nhân duyên". Theo Asanga, tất cả hiện hữu luôn luôn có đủ bốn nhân duyên : (1) Nhân duyên, (2) Sở duyên, (3) Tăng thượng duyên và (4) Đẳng vô gián duyên. Ở đây Duy thức chính là Nhân duyên. Như thế, trong tất cả các lĩnh vực từ tâm lý đến vật chất, một sự thể nếu muốn định hình phải đầy đủ bốn nhân duyên. Đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, bốn nhân duyên này chính là nguyên tắc cơ bản của sự thiết lập một đường hướng giáo dục tốt nhất đối với con người. Từ bốn nhân duyên này, thế giớicon người được xem như là một tổng thể của các mối quan hệ và hàng loạt các giá trị tương quan lẫn nhau, tất cả đều điều kiện hóa lẫn nhau, như muôn loài vạn vật không thể sống và sinh trưởng mà thiếu năng lượng trong từng tia nắng của mặt trời

Phần chú thích 

(1) Khái niệm công nghệ hiện nay bao gồm 4 yếu tố cơ bản: 

a) Technoware (kỹ nghệ máy móc) -> Technology 

b) Humanware (kỹ nghệ con người) -> Human being 

c) Inforware (kỹ nghệ thông tin) -> Information 

d) Organware (kỹ nghệ tổ chức) -> Organization. 

Và, sự vận hành của công nghệ bắt buộc phải diễn ra theo hai qui luật : 

1- Trade-off (đánh đổi) và 2- Opportunity cost (chi phí cơ hội). 

(2) Theo kinh tế gia Jeremy Rifkin, Chủ tịch Hội đồng Kinh tế Washington thì thời đại hiện tạithời đại của robot và computer. Từ năm 1960, lực lượng lao động cổ xanh (blue collar) là 33%, nhưng hiện nay chỉ còn 17%, và tính đến năm 2025 sẽ còn lại 2%. Đến lúc đó, các quản trị gia bậc trung (white collar), thư ký (secretary), tiếp tân (receptionist), tiếp thị (marketing)... đều bị loại, (tư liệu của Newsweek 1995). 

(3) Xem Kinh tế chính trị học (tập I) 

Nguyễn Văn Luân, Trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, 1992. 

(4) Quan niệm của các nhà tâm lý học như Freud, Malinowski, Maslow, Erich Fromn... xem *"Escape From Freedom", Erich Fromn, Reinhart and company, Inc., 1941. *"Mother - Right and The Sexual Ignorance of Savages", Ernest Jones, 1925. *"Methods in Social Science", Stuart, edited by A. Rice, University of Chicago Press, Chicago, 1931 (phần A - Hypothesis Rooted in the Preconceptions of a Single Civilization - Tested by Bronislaw Malinowski của Harold D. Lasswell. 

(5) Kinh Dhammapada, các hành (formations), các pháp (existences) đều là cấu trúc của tư duy hữu ngã, và được dựng lên bởi tri giác sai lầm (vọng tưởng). Những hiện hữu (pháp) trong tâm lý và cấu trúc của tâm lývô thường, vô ngã; hay nói cụ thể hơn là sắc (rùpa) và tâm (citta) là vô thường, vô ngã (xem nội dung phần sau). 

(6) Xem "The Concept of Personality Revealed through The Pancanikaya, tr 006, (bản photo), 1996. 

(7) Jean Paul Sartre (1905-?) một nhà tư tưởng hiện sinh được xem là có tư tưởng gần gũi nhất với Phật giáo. Những kiểm thảo tâm lý học của ông như "être-pour-soi" (hiện hữu cho nó) và "être-en-soi" (hiện hữu chính nó), hay "hiện hữu có trước ngã thể" (existence preceedes essence) v.v... là căn bản của triết học hiện sinh. Và điều đó cũng cho thấy sự khác biệt căn bản của hiện sinh thuyết và Phật giáo (chủ trương Vô ngã- Anatta, và Trung đạo- Majjhimà-patipadà). Tuy nhiên, điểm tương đồng của Sartre với Phật giáo là "Con người phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về tư duy và hành động của chính mình". (xem 100 Great Thinkers, J.E. Greene, Washington Square Press, New York, 1967). 

(8) Đối tượng của tâm lý học (Psychology) là nghiên cứu các sự kiện tâm lý, còn đạo đức học (Ethics) nhằm đến xác định các bổn phận, trách nhiệm, và các vấn đề thiện, ác. 

Về quan điểm nghiên cứu, tâm lý học là khoa học mô tả, kiểm thảo đời sống tâm lý, còn đạo đức học thì hướng đến việc tác thành các qui phạm, qui tắc để qua đó, nếu con người tuân thủ thì sẽ đạt đến những điều thiện. 

(9) "Owner of their Karma are the beings, heirs of their karma, the karma is their womb from which they are born, their karma is their friend, their refuge. Whatever karma they perform, good or bad, there of they will be the heirs" (Majjhima Nikaya - 135). 

(10) Theo tổ chức NCEA, năm 1996 đã xếp loại và đánh giá các nước có môi trường bị suy giảm như sau : 

1- Pháp : 41,2% 2 - Canada : 38,1% 

3- Mỹ : 22,1% 4 - Nhật Bản : 19,1% 

5- Tây Đức : 16,5% 6 - Thụy Điển : 15,5% 

7- Anh : 14,3% 8 - Hà Lan : 11,4% 

9- Đan Mạch : 10,6%. Và Mỹ là nước xả rác nhiều nhất trên thế giới : 180 triệu tấn /năm. Ông Alparvovtz, Chủ tịch NCEA tuyên bố rằng : "Do mức phát triển thấp của nền kinh tế nên hậu quả là như vậy, nếu phát triển hơn nữa thì mức độ nguy hiểm càng tăng". (NCEA's report, 1996 tại Hội nghị môi trường - America). 

(11) Thông qua hiệu ứng nhà kính (do Dioxide de carbone), bà Algela Merket, Bộ trưởng Môi trường Đức cho rằng, nếu không giảm 60% khí đốt, dầu lửa, than đá..., thì đến năm 2100, mực nước biển sẽ tăng lên 1m, làm mất diện tích sinh sống của 94 triệu người. Về vấn đề này, bà tuyên bố : "Chúng ta đang cùng đi trên một chuyến tàu". 

(12) Trung Bộ kinh I. 87, trong "Some Teachings of Lord Buddha on Peace and Human Dignity", Thích Minh Châu, VNCPHVN, TP. Hồ Chí Minh, 1995, tr. 40. 

(13) "He who builds up such imaginations, he is equal, he is superior, he is inferior to me. Such imaginations will lead to quarrels ! He who is unshaken by there three fancies, to him, there will be no equality, no superiority". (Samyutta Nikàya. i. 12) 

(14) "Victory engenders hatred ! Defeat brings up suffering ! He who gives up victory and defeat, with serenity, he enjoys happiness". (Samyutta Nikàya. I. 102) 

* Trích dẫn của Thích Minh Châu, trong "Some Teachings of Lord Buddha on Peace and Human Dignity", VNCPHVN, TP. Hồ Chí Minh, 1995, tr. 40-51. 

(15) Xem biểu đồ của 3 hệ thống trên ở phần sau (phần biểu đồ). 

(16) Asanga, Luận sư là vị Tổ thứ 20 dòng Thiền Ấn Độ. Vasubandhu, Luận sư là vị Tổ thứ 21 dòng Thiền Ấn Độ

(17) Trước Aristote khoảng 200 năm, Đức Phật (563-483 B.C.) đã trình bày mối liên hệ của 5 uẩn (Skandhas) và 12 nhân duyên hay Duyên khởi (paticcasamupàda), tức là mối tương duyên không thể tách rời giữa con ngườithế giới rất cụ thể trong Nikàya. (xem : 100 Great Thinkers, J.E. Greene, Washington Square Press, Newyork, 1967). 

(18) Xem "Từ điển Triết học", nhà xb Đại học & Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1987 

- "Culture and Personality", J.J. Honigman, Harper & Bros, NY, 1952. 

- "Handbook of Social Psychology", Gardner Lindzey (chủ biên), 2 vols, Addision-Wesley, Cambridge, 1954. 

- "Social Psychology", Robert E.L. Faris, Ronald Press, Newyork, 1952. 

(19) Xem "Tâm lý học kinh doanh và quản trị", Nguyễn Văn Lê, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 1994. 

- "An Outline of Psychoanalysis", Sigmund Freud, Norton, Newyork, 1949. 

- "Sociology", Leonard Broom, and Philip Selzick, Peterson and Company, Evanston, Illinois, USA, 1958. 

(20) "Personality can be described as the psychological characteristics that both determine and reflect how a person will respond to his or her environment". Trích dẫn của Nguyễn Văn Lê trong "Psychology of Business and Administration", Nxb Trẻ, 1994, tr. 58. 

(21) Xem "Lô-gích học và phương pháp nghiên cứu khoa học", Lê Tử Thành Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 1993. 

- Tập san Triết họctư tưởng, số 1-2, San Jose, 1996. 

(21) "Mind Self and Society", George H. Mead, University of Chicago Press, Chicago, 1943. 

(22) "Sociology", Leonard Broom & Philip Selznick, Peterson and Company, Evanston, Illinois, USA, 1958. 

(23) Bản dịch : Xã hội học, Trung tâm nghiên cứu VN, Ban tu thư Diên Hồng, Sài Gòn, 1962. 

(24) Mind Self and Society,..., tr. 140. 

(25) Xã hội học ....., tr. 118 

(26) Ibid..., tr. 119-120. 

(27) Xem "An Outline of Psychoanalysis", Sigmund Freud, Norton, Newyork, 1949. 

(28) Từ điển triết học giản yếu, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp , Hà Nội, 1987, tr.267. 

(29) Sociology ..., tr. 111 

(30) Ibid, tr. 113 

(31) Xung năng (pulsion), là những xung lực mang tính năng động luôn luôn thôi thúc ý thức tìm kiếm sự thỏa mãn cho các nhu cầu sinh lý cơ bản như : ăn uống, sinh dục... Sinh dục hay nhục dục (khoái lạc xác thịt) nếu không được thỏa mãn, thì có thể dùng năng lượng đó đầu tư cho các hoạt động văn hóa, sự kiện này được gọi là thăng hoa (Sublimation). Ngược lại, nhục dục nếu không giải quyết được sẽ tạo thành các bệnh lý như : dồn nén (repression) mặc cảm (oedipe), dữ tợn (truculent), qui kỷ (eyocentric), thầm lặng (inhibited), đa cảm (hyperémotivité) v.v.. 

(32) Theories of Personality, Calvin. H. Hall and Gardner Lindzey, Wiley Eastern Ltd, New Delhi, 1991. 

- Handbook of Social Psychology, 2 vols, Gardner Lindzey, Cambridge, Addision - Wesley, 1954. 

(33) Đọc thêm "Tâm lý bệnh nhân", A.V. Kvaxenco, Ju. G. Dubarep, Nxb Mir, Maxcơva, Hà Nội, 1986. 

(34) Escape from Freedom, Erich Fromn, Reinhart and Company, Inc, 1941. 

(35) Tâm lý học quản trị, kinh doanh, Nguyễn Văn Lê, Nxb Trẻ, 1994, tr. 72-73. 

(36) "The Role of Dominance in the Social and Sexual Behavior of Infrahuman Primates : III. A. Theory of Sexual Behavior of Infrahuman Primates", A.H. Maslow, Jouraual of Genetic Psychology, 48 (1936), 310-38. 

(37) Sociology,..., tr 103 

(38) Tâm lý học kinh doanh và quản trị,..., tr. 73. 

(39) Xem chú thích số (7). 

(40) Xem "Tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo". Thích Tâm Thiện, THPG TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, 1995. 

- Lược sử Phật giáo Ấn Độ, Thích Thanh Kiểm, THPG TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, 1989. 

(41) Tiểu thừa Phật giáo tư tưởng luận, Kimura Taiken, Thích Quảng Độ dịch, Tu thư Đại học Vạn Hạnh, Sàigòn, 1959, tr. 37, (bộ mới in). 

(42) Ibid, tr. 36-45 (bộ mới) 

(43) Ibid, tr. 42-43. 

(44) Ngài Ca Đa Diễn Ni Tử, một người tinh thông Tam tạng ra đời sau Phật khoảng 300 năm, người được xem là thủy tổ của Thượng Tọa bộ qua tác phẩm Phát trí luận. (Xem Lược sử Phật giáo Ấn Độ, Thích Thanh Kiểm, THPG TP. Hồ Chí Minh, TP.HCM, 1989, tr. 90. 

(45) Đây là hai bộ luận trung tâm của Hữu bộ lúc bấy giờ. 

(46) Về niên đại ra đời của các vị Luận sư này vào khoảng từ đầu thế kỷ II đến cuối thế kỷ thứ IV. 

(Xem : Lược sử Phật giáo Ấn Độ, Thích Thanh Kiểm..., tr. 135-136) 

(47) Xem thêm : Lược sử Phật giáo Ấn Độ - Sđd, tr. 116. 

(48) Ibid, tr. 165-166. 

(49) Tương truyền Bồ Tát Di Lạc (Maitreya) ở tại cung trời Tusita ngự xuống giảng đường Ayodhya, Trung Ấn, nước Magadha để giảng về Duy thức cho ngài Asanga suốt 4 tháng - Sđd, tr. 176. 

(50) Trong các luận thư trên, Câu xá luận thuộc về giáo nghĩa của Hinayana, Duy thức tam thập tụng và nhị thập tụng thuộc về Mahayana. 

(51) Không phải là ngài A Nậu Đa La thời Đức Phật

(52) Thắng pháp tập yếu luận, Thích Minh Châu dịch, 2 quyển, Tu thư viện Đại học Vạn Hạnh, Sàigòn, 1971 (tái bản). 

(53) Xem Trường Bộ kinh, bản dịch của Thích Minh Châu, VNCPHVN, TP. Hồ Chí Minh, 1993. 

(54) Xem Đại cương Câu xá luận, Thích Thiện Siêu, VNCPHVN, TP. Hồ Chí Minh, 1992. 

(55) Đọc thêm : "Tiểu thừa & Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận", Kimura Taiken, Thích Quảng Độ dịch, Tu thư Đại học Vạn Hạnh, SàiGòn, 1959. 

- "Đại cương Câu xá luận", Thích Thiện Siêu, VNCPHVN, TP. Hồ Chí Minh, 1992. 

(55) Xem "Giảng luận Duy Biểu Học" (Tâm lý học Phật giáo), Nhất Hạnh, Lá Bối, TP. Hồ Chí Minh, 1996, tr.13. 

(56) Xem "Lý thuyết khoa giáo về con người qua tư tưởng Gandavyùaha (Hoa Nghiêm), Thích Tâm Thiện, TP.Hồ Chí Minh, 1996. 

(57) Treatise in Thirty Verses on Mere-Conciousness; Swati Ganguly, Motilal Banarsifdass Publishers, Private limited, Delhi, First Edition1992. 

(58) Xem "Vấn đề cơ bản của triết học Phật giáo", Thích Tâm Thiện, BVHTW.GHPGVN, TP. Hồ Chí Minh, 1997. 

(59) Bách Pháp Minh Môn luận của Vasubandhu, bản dịch của Ngài Huyền Trang

(60) Xem Vấn đề Cơ bản của Triết học Phật giáo Thích Tâm Thiện, BVHTW.GHPGVN, TP. Hồ Chí Minh, 1997 

(61) "Einstein The Life and Time, Ronald W.Clark, Avon Books, World Publishing Company, Newyork, 1993. 

(62 The Buddhist Teaching of Totality - (The Philosophy of Hwa Yen Buddhism) Garma C.C.Chang, The Pennsylvania State University, USA, 1989. 

(63) Hua Yen Buddhism, The Jewel Net of Indra, Francis H.Cook, Sri Satguru Publications, New Delhi, 1994. 

(64) Xem The Oxford Companion to Philosophy, edited by Ted Honderich, Oxford University Press Inc., Newyork 1995. 

(65) Trong Phật giáo thường đề cập đến các địa (bhumi) và giới (dhatu) như : tam giới (ba cõi), bao gồm

1- Dục giới : cũng gọi là Ngũ thú tạp cư (trời, người, địa ngục, ngạ quỉsúc sanh) ; hay thế giới của sự ham muốn, dục vọng - gọi là Karmadhatu (The realm of desire). 

2- Sắc giới : Có 4 cõi - sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, và tứ thiền - gọi là Rupàdhatu (The realm of existence). 

3- Vô sắc giới : Có 4 cõi : Không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứphi tưởng phi phi tưởng xứ - gọi là Arùpadhatu (The realm of non-existence). Cộng các cõi của tam giới lại gọi là Cửu hữu - 9 cảnh giới (worlds). 

(66) Xem The Oxford Companion to Philosophy, edited by Ted Honderich, Oxford University Press Inc., Newyork, 1995, tr. 300-301. 

(67) "Small is Beautiful", E.F. Schumacher, Harper & Row USA, 1989, tr. 84. 

(68) Ibid, tr. 93. 

(69) Ten New Direction for The 1990's Megatrends 2.000, John Naisbitt & Patricia Aburdene, William Morrow and Company, Inc., Newyork, 1990. 

(70) "Small is Beautiful"...., tr. 100. 

(71) "The Great Philosophers", Karl Jaspers, Harcourt, Brace & World, Newyork, 1962 (4 tập). 

(72) 100 Great Thinkers, Dr J.E. Greene, Washington Square Press, Inc., Newyork, 1967, tr. XI. 

(73) Vấn đề này được trình bày cụ thể trong các luận thư và kinh tạng Đại thừa. Xem kinh Niết Bàn, Trung Quán LuậnBát Nhã Tâm Kinh

(74) Xem "Vấn đề cơ bản của triết học Phật giáo", Thích Tâm Thiện, BVHTƯ.GHPGVN, TP. Hồ Chí Minh, 1997. 

(75) Sư phạm lý thuyết, Trần Văn Quế, Trung tâm Học liệu, SàiGòn, 1963, tr. 104. 

(76) Ibid, tr. 104. 

(77) Ibid, tr. 105 

(78) 1- Nguyên tắc đồng phát sinh : Là sự khích lệ tác động - khơi dòng cho tâm thức chảy ra chứ không phải là nhồi nhét, áp đặt như rót nước vào thùng. 

2- Nguyên tắc sư phạm cơ năng : Là sự xúc tiến, thúc đẩy cái tiềm lực của tâm lý phát triển theo nhu cầu của cuộc sống. 

3- Nguyên tắc ý thức xã hội : Là hệ quả của nguyên tắc sư phạm cơ năng

ThưMục Sách Tham Khảo 

* Tài liệu Anh ngữ 

1- Treatise in Thirty Verses on Mere- Consciousness, tr. by Swati Ganguly, Motilal Banarsidass Publishers, Private Limited, Delhi, 1992. 

2- The Human Body, by The Reader's Digest Association Limited, London and Cape Town 1964 

3- Buddhist Logic, by F. Th. Stcherbatsky, Dover Publications, Inc. Newyork, 1962. 

4- Buddhist Thought in India, E. Conze, George Allen & Unwin Ltd, London, 1962. 

5- The Central Philosophy of Buddhism, T.R.V. Murti, George Allen and Unwin Ltd, London 1960. 

6- Buddhism and its relation to religion and science, R.G de S. Wettimung, M.D. Gunasena & Co., Ltd, Colombo, 1961. 

7- Contemporary Indian Philosophy, edited by Radhakrishnan and J.H. Muirhead, George Allen and Unwin Ltd, Humanities Press Inc, Newyork, 1966. 

8- The Concept of Personality Revealed Through The Pancanikaya (Thesis of Doctor of Philosophy) by Bhikshu Nguyen Hoi (Thích Chơn Thiện) Department of Buddhist Studies, University of Delhi, Delhi, 1995. 

9- Sociology, by Leonard Broom and Philip Seiznick, Peterson and Company Evanston, Illnois, USA. 1962. 

10- 100 Great Thinkers, Dr. J.E.Greene Washington Square Press, Inc, Newyork, 1967. 

11- Process Metaphysic and Hua-yen Buddhism, Steve Odin, Sri Satguru Publications, Delhi, 1995. 

12- The Jewel Net of Indra, Francis Hi Cook, Sri Satguru Publications, India, 1994. 

13- The Buddhist Teaching of Totality, Garma - C.C. Chang, The Pennsylvania State, University Press, London, 1989. 

14- The Book of the Gradual Saying (Anguttara-Nikàya) Mrs. Rhys Davids, Pali Test Society, London, 1960. 

15- The Literature of the Personalists of early Buddhism, Thich Thien Chau, Vietnam Buddhist Research Institude, HCM.C, 1997. 

16- Indian Philosophy, Radhakrishnan, Unwin Brothers Ltd, London, 1962. 

17- The Perennial, Dictionary of World Religions, Keith Crim, General editor, Harper & Row, San Francisco, 1989. 

18. Buddhist Dictionary (Manual of Buddhist Terms and Doctrines) Nyanatiloka, Frewin & Co., Ltd, Colombo, Ceylon, 1972. 

19- The History of Buddhist Thought, E.J. Thomas, Routledge & Kegan Paul Ltd, London, 1971. 

20- The Samyutta Nikàya, ed.M.L. Feer, Pali Test Society, London, reprinted 1969. 

21- The Majjhima Nikàya, ed.V. Trenekner & R. Chelmers, Pts, London, 1960. 

22- The Digha Nikàya, ed. T.W. Rhys Davids & J.E. Carpenter, Pts, London, 1960. 

* Tài liệu Việt ngữ 

- Tài liệu gốc : 

1- Duy thức tam thập tụng, Thích Thiện Hoa dịch (trong Duy thức học), THPGTP Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, 1992. 

2- Nhiếp Luận, Trí Quang dịch, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, 1995. 

3- Đại thừa khởi tín luận, Trí Quang dịch, NXB TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, 1994. 

4- Kinh Giải Thâm Mật, Trí Quang dịch, NXB TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, 1994. 

5- Thành Duy thức luận, Thích Thiện Siêu dịch, VNCPHVN, TP. Hồ Chí Minh, 1996. 

6- Câu Xá luận, Thích Thiện Siêu dịch, VNCPHVN, TP. Hồ Chí Minh, 1995. 

7- Bách pháp minh môn luận, Thích Thiện Hoa dịch (trong duy thức học), THPGTP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, 1992. 

8- Thắng pháp tập yếu luận (Abhidhammatthasangaha), Thích Minh Châu, Viện Đại học Vạn Hạnh, Sàigòn, 1971. 

9- Đại trí độ luận, các bản dịch (không đầy đủ) của Trí Hải, Diệu Không ... tài liệu ronéo. 

* Tài liệu thứ yếu 

1- Giảng luận Duy biểu học, Nhất Hạnh, Lá Bối, 1996. 

2- Nghiên cứu kinh Lăng Già, D.T. Suzuki, Thích Chơn Thiện và Trần Tuấn Mẫn dịch, GHPGVN, Ban GDTN, TP. Hồ Chí Minh, 1992. 

3- Tâm lý học, Trần Bích Lan, Ngôn Ngữ XB, Sàigòn, 1969. 

4- Tâm lý học (Kinh doanh và Quản trị), GS. Nguyễn Văn Lê, NXB Trẻ, 1994. 

5- Tâm lý học, Thái Trí Dũng & Trần Văn Thiện, Trường ĐH Kinh tế, TP. Hồ Chí Minh, 1994. 

6- Sư phạm lý thuyết, Trần Văn Quế, Trung tâm Học liệu xb, Sàigòn, 1968. 

7- Triết tâm lý đại cương, Đào Phú Thọ, Nguyễn Quang Tuyến, Việt Anh, ĐàLạt. 

8- Từ điển triết học, Đại học và Trung học chuyên nghiệp xb, Hà Nội, 1987.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6777)
Hai chữ quy y có nghĩa là : quay về hay hồi chuyển. Y là nương tựa hoặc dựa vào, những hành vi hồi chuyển nương tựa hoặc quay đầu dựa dẩm tin tưởng.
(Xem: 6199)
Niềm tin sâu xa nhất trong giáo lý nhà Phật là tất cả mọi người đều có thể tự cải biến mình trong từng giây phút một. Chẳng có gì gọi là định mệnh cả.
(Xem: 6530)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn.
(Xem: 7783)
Nhẫn nhục là chịu nhịn những điều sỉ nhục xấu hổ, nhục nhã, chịu đựng tổn thương trước những cảnh, sự việc không vừa lòng, nghịch ý, trái tai gai mắt;
(Xem: 6286)
Nền giáo dục hòa bình của Đạo Phật là một con đường đạo đức nhân bảnthiết thực, là căn cứ trên chân lý từ bi, công bằng và...
(Xem: 6606)
Chúng ta chỉ có thể nhìn thấy mọi sự vật, hiện tượng trong phạm vi giới hạn của đôi mắt mình, nhưng...
(Xem: 5730)
Tôi đến với Phật pháp vì … quá khổ.
(Xem: 5626)
Phải luôn luôn có tâm tùy hỷ đến tất cả mọi người, nếu chưa được giải thoát thì sau khi chết, năng lực tùy hỷ sẽ đẩy mình đến những cảnh giới tốt.
(Xem: 5680)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 6792)
Chúng ta biết tu là chúng ta biết sống. Một thứ tài sản không bao giờ bị mất. Ai muốn giàu, muốn sung túc thì hãy ráng nhớ giữ gìn tài sản này.
(Xem: 6073)
Thuyết bốn Đế, tức bốn Chân lýcăn bản, là cốt lõi tinh túy của đạo Phật, là nội dung bài thuyết pháp đầu tiên của Phật ở Vườn Nai (Bénarès).
(Xem: 7087)
Đạo Phật thường quán niệmsuy tưởng về khổ đau vì đó là kinh nghiệm chung của toàn thể nhân loại.
(Xem: 6197)
Chúng ta chẳng cần tìm Phật ở đâu xa, ngài luôn luôn ở ngay trong cuộc đời, nhưng chúng ta không thấy, vì ...
(Xem: 6164)
Chúng ta có thể tìm ra chánh pháp của Phật, nghĩa là chân lý, ở khắp mọi nơi, chứ không bắt buộc chỉ tìm trong kinh điển.
(Xem: 6594)
Chúng ta đã tìm Phật và tìm Pháp, nay phải đi tìm Tăng cho đủ Tam Bảo, nói cho đủ là Tăng già, phiên âm chữ Phạn Sangha.
(Xem: 5894)
Dù là xuất gia hay tại gia, thường niệm pháp Quy Y trong đời sống, lấy Tam Bảo làm mục đích làm lợi ích cho Dân Tộc và cho cả chúng sinh.
(Xem: 6050)
Kinh sách và Đạo Pháp của Phật không phải giúp để góp nhặt sự hiểu biết mà phải dùng để tự biến cải lấy chính ta.
(Xem: 6444)
Tâm chúng sinh và Phật vốn không khác. Tất cả đều do tâm tạo. Mười cõi cũng do tâm tạo.
(Xem: 5686)
" Nầy các Tỳ kheo Như Lai nói tác ý tức là nghiệp vì có ý muốn làm mới có hành động thân khẩu ý ". Như vậy mười nghiệp lành là 10 điều giúp cho con người thực hiện trong sạch hoá thân khẩu và ý .
(Xem: 6807)
Khái niệm về sự tái sinh không phải là một khái niệm đặc thù của Phật Giáo mà đấy chỉ là một học thuyết chủ trương sự « đầu thai »
(Xem: 5993)
Có những niềm tin gây mê lầm, tội lỗi, gieo tai họa cho chính những người mang niềm tin đó mà họ không hay không biết, hoặc gieo tai họa lên nhiều người...
(Xem: 5863)
Theo kinh Lăng-già, Bồ-tát vì muốn độ tất cả chúng sanh đạt đến Niết-bàn nên phát nguyện ở lại thế giới nhiều khổ đau này để làm lợi ích cho chúng sanh.
(Xem: 6566)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ,
(Xem: 5474)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ,
(Xem: 5551)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(Xem: 8047)
Mười nghiệp lành không những ngăn giữ chúng sanh khỏi bị đọa lạc vào bốn con đường đau khổ, mà còn mở cánh cửa thênh thang hạnh phúc an vui của phước báu nhân thiên sang cả.
(Xem: 6126)
Theo tâm lýkinh nghiệm, việc chọn lựa một tông phái để theo, phần lớn tùy thuộc vào sở thích và môi trường sinh sống của từng người.
(Xem: 5692)
Tất cả các hệ thống giáo lý phong phú của đạo Phật chỉ có một mục đích duy nhất là trình bày phương pháp và đường lối giải thoát,
(Xem: 8839)
Một người đã tin ở luật nhân quả trong đời hiện tại thì cũng phải tin ở luật nhân quả các đời quá khứ, và vị lai.
(Xem: 6517)
Thực tế cho chúng ta thấy, người học đạo thì nhiều, nhưng để sửa tâm tánh thì không bao nhiêu, đó là kết quả do việc không chịu lắng nghe.
(Xem: 5876)
"Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra; nghiệp là quyền thuộc, là nơi nương tựa" .
(Xem: 5781)
Ngày nay phong trào nghiên cứu Phật học không còn bị thu hẹp trong giới Phật giáo mà đã phổ biến vào mọi tầng lớp của xã hội, không phần biệt Tôn giáo.
(Xem: 5284)
Học Phật là học con đường trở về với chân tâm, với Phật tánh—vốn hàm tàng nơi chính mình và tất cả chúng sinh.
(Xem: 6708)
Phật giáo nguyên thủy, xuất phát từ miền nam Ấn Độ, rồi được truyền sang Tích Lan, từ Tích Lan truyền qua Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào...
(Xem: 6938)
Sám hối không có nghĩa là hết tội nhưng nó có mãnh lực làm cho tâm mình thanh thản, nhẹ nhàng vì vậy nó giúp ngăn hay chận bớt những ác nghiệp mà mình đã tạo ra.
(Xem: 11058)
Tứ đếgiáo nghĩa cơ bản dùng để giải thích mọi hiện tượng nhân sinh vũ trụ được quy nạp từ thập nhị nhân duyên, là con đường trung đạo duy nhất giải thoát sinh tử luân hồi.
(Xem: 8023)
“Những Điều Phật Đã Dạy” là một trong những quyển sách nói về Phật học bán chạy nhất ở các nước phương Tây, được dịch ra nhiều thứ tiếng...
(Xem: 6050)
Tham sống sợ chết, đó là sự thật của người đời. Thế nhưng tại sao lại giết hại, cắt đứt sự sống của chúng sanh khác?
(Xem: 5396)
Theo nguyên tắc chung, tôi nghĩ rằng tôn giáo của cha mẹ mình là tôn giáo thích nghi nhất cho mỗi người.
(Xem: 7059)
Quan niệm về cái gọi là "đời cha ăn mặn đời con khát nước" cho rằng có một cái gì vô hình lưu truyền cái nhân xấu do đời cha tạo ra và chuyển giao cái quả xấu do nhân xấu mang lại cho con cái.
(Xem: 5994)
Học Phật không phải chỉ biết được lời Phật dạy, biết qua kiến thức suông để đàm luận, lý luận, mà cần phải thực tập, áp dụng vào cuộc sống của mỗi người trong sự nghe thấy, tư duy và hành động.
(Xem: 6428)
Trong Phật Pháp, đức Phật đã chỉ sẵn một phương pháp, một nghệ thuật hay còn gọi là một bí quyết để có một đời sống hạnh phúc, đó là gìn giữ năm giới.
(Xem: 21070)
Vô thườngtính chất căn bản của đời sống; tất cả mọi sự vật sinh ra có điều kiện đều có tính chất của bốn giai đoạn “thành, trụ, hoại, diệt”
(Xem: 5816)
Mỉm một nụ cười, trở về với một hơi thở, bước một bước chân thảnh thơi... cũng có thể là những phép lạ giữa một cuộc sống căng thẳng và quá bận rộn.
(Xem: 7176)
Về phương diện đạo lý, Phật giáo cao hơn các hệ thống đạo đức khác, nhưng đạo đức chỉ là bước đầu chứ không phải cứu cánh của Phật giáo.
(Xem: 8598)
Bát Chánh Đạogiáo lý căn bản của Đạo đế (trong Tứ Đế) gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đây là những phương tiện hành trì phổ biến sâu rộng chung cho Ngũ thừa Phật giáo.
(Xem: 6885)
Chữ Không của Bát Nhã đứng vững là dựa trên lý nhân duyên, nếu lý nhân duyênchân lý thì chữ Không cũng sẽ là chân lý.
(Xem: 7746)
Đây là 4 pháp, 4 nguyên tắc sống mà tiền thân chư Phật, tức chư Bồ-tát thường áp dụng để nhiếp hóa, cảm hóa chúng sanh...
(Xem: 5387)
Có những người sinh trưởng ở những nơi mà niềm tin về tái sinh là một thành phần trong nền văn hóa của họ.
(Xem: 18633)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14431)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13590)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13556)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11822)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13263)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13666)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13941)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13252)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15026)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16166)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant