Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Iii. Diệt Thánh Đế, Tức Niết Bàn

24 Tháng Năm 201100:00(Xem: 3959)
Iii. Diệt Thánh Đế, Tức Niết Bàn

III. Diệt Thánh Đế, tức Niết Bàn :

Diệt thánh đế, từ Sanskrit là Dukkhamrodha ariyasacca, nghĩa là cảnh giới đã diệt trừ mọi khổ não. Một tên gọi khác là Niết Bàn. Từ Sanskrit là Nirvana. Từ Pàli là Nibbana, với các nghĩa dập tắt, thổi tắt. (Thổi tắt, dập tắt ngọn lửa phiền não). 

Kinh Tăng Nhứt A Hàm viết: “nếu có vị đệ tử được chơn chánh giải thoát, tâm vị ấy vắng lặng (không thể xao động), việc làm, đã làm, không còn việc gì để làm nữa; nhiệm vụ cần làm đã làm, không còn nhiệm vụ gì phải làm nữa. Giống như tảng đá lớn gió thổi không động, sắc, thanh, hương, vị mọi cảm xúc đẹp đẽ cho đến mọi chuyện thích thú hay không thích thú đều không làm cho dao động. Vị ấy, có nội tâm kiên cố, thường trụ, giải thoát”. (Tăng nhất A Hàm 3-378-9) 

Niết Bànmục tiêu tối hậu của đạo Phật. Nhưng Niết Bàn là gì? Không thể lấy tư duyngôn ngữ bình thường để mô tả trực tiếp được. Do đó mà sách Phật thường dùng các từ ngữ phủ định hay phản diện để nói về Niết Bàn như: Diệt tham, vô vị tịch diệt, vô tử... Niết Bàn đã là cảnh giới siêu thời giankhông gian, còn chúng ta thì dùng tư duyngôn ngữ thế gian, tất nhiên không thể nào dùng tư duyngôn ngữ đó để trực tiếp miêu tả Niết Bàn được. 

Sau đây, trích một đoạn văn trong “Tương Ưng bộ Kinh” ghi lại lời Phật trả lời du sĩ Vaccha1 .
Vaccha hỏi Phật : 
“Hi hữu Tôn giả, Đức Thích Ca vĩ đại. Biển sanh tử kia, mênh mang không bờ, muốn vượt khỏi biển đó, phải dựa vào pháp môn của Phật.” 
Con nay mong cầu, Bậc Nhất Thiết Trí, chỉ bày cho con, con đường giải thoát, để con hành trìy chỉ, cầu vượt biển sanh tử

Phật trả lời : “Luôn luôn giữ chánh niệm, quan sát rõ ràng, (thấy) bất cứ lúc nào, các pháp đều là không, nếu có quyết tâm, dựa vào (quan điểm) các pháp đều là không, thì có thể vượt qua biển lớn sanh tử
Đoạn trừ mọi dục lạc, không nói như câm, ngày đêm sáu thời, yên lặng nội quán, phát tâm dũng mãnh, đoạn trừ tham dục, công phu như vậy, tất yếu sẽ thoát khỏi sanh tử.” 

Vaccha hỏi : 
Nếu có bậc Thánh, đã đoạn trừ dục vọng, không thích dục lạc, tâm không còn ỷ lại, đã xả bỏ hết, đối với trần và cảnh, đã dược giải thoát, làm bậc tôn quý trong thế gian; bậc Thánh như vậy, còn thoái chuyển nữa hay không? Bậc ấy thường trú ở cảnh giới Thánh, còn có thể mất cảnh giới Thánh đó hay không ? ... 
Bậc Thánh như vậy, trú ở cảnh giới Thánh, mắt mẻ giải thoát trải qua nhiều năm tháng, không có thối thất. Bậc Thánh như vậy, có thần thức hay không? (chúng con) biết cảnh giới đó được hay không? 

Phật trả lời
“Như ngọn lửa kia, được gió thổi tắt, không còn thấy đâu nữa, bậc Thánh đắc đạo, thân tâm giải thoát, lặng lẽ vô vi, cũng không thể thấy được”. 

Vaccha hỏi : 
“Bậc Thánh đắc đạo, tịnh lặng vô vi, là không ư? là diệt ư? Hay là thường trú, không khổ, không tịch?” 
Hy hữu Tôn giả, hãy chỉ bày cho con, cởi mở sự bế tắc, đoạn trừ mê lầm cho con. Pháp đó phải chăngcảnh giới của chư Phật tự thân chứng nghiệm... 

Phật trả lời
“Các bậc Thánh ngộ đạo, vô vi tịch chỉ, khó mà nghĩ bàn, đó là cảnh siêu việt ý thức. Không có pháp nào thuộc về danh từ ngôn thuyết. Sau khi đã xả bỏ tất cả các pháp, thì cũng đoạn trừ ngôn ngữ, và mọi hành tướng của tâm, xa lìa mọi cảnh giới hý luận và phân biệt” 
 

Trong đoạn văn trên, có thể nói, cái gì có thể nói được về Niết Bàn thì Phật đã nói đầy đủ rồi. Dưới dây, chỉ nêu lên vài điểm chủ yếu: 

1/ Niết Bàn không phải là hư vô, mà là một sụ tồn tại tích cục, siêu việt mọi nghĩ bàn: Về sự tồn tại của Niết Bàn, Phật đã nhiều lần khẳng dịnh Phật nói: “Này các Tỷ Kheo, có pháp vô vi, bất sanh bất biến; nếu như khôngpháp vô vi bất sanh bất biến này, thời các pháp có sanh có biến đổinhơn duyên sanh không thể nào giải thoát được”. 

Đó là những lời khẳng định tích cực và chánh diện đối với Niết Bàn. Trong các kinh điển Phật giáo khác, Niết Bàn thường được gọi là bất tử (amrta). Bất tử không phải là một khái niệm trừu tượng, mà là một sự thực sống động. Cũng không phải là một ý niệm chủ quan mà là một sự thực tồn tại khách quan. Trong kinh Phật, Ma Vương (Mara - Ba tuần) biểu trưng cho sự chết. Còn Niết Bàn là không chết, là bất tử, là sự chiến thắng và chinh phục cái chết. Trong các sách sanskrit, amrta còn có nghĩa là thuốc tiên, với nghĩa Niết Bànthuốc tiên, đem lại sự bất tử cho người nào có được thuốc tiên ấy. Niết Bàn là sự tồn tại vĩnh hằng. Người tu đạo, sau khi chứng ngộ Niết Bàn, trong sanh lý eủa họ, cũng có một sự thay đổi nhứt định. Trong kinh Phật bổn dưyên (Mahavastu), ghi lại sự kiện tôn giả Xá Lợi Phất, sau khi ngộ đạo, gặp tôn giả Mụe Kiền Liên trên đưòng đi. Tôn giả Mục Kiền Liên thấy ngài Xá Lợi Phất dung mạo khác thường, bèn hỏi : 
“Này tôn giả Xá Lợi Phất ! Người bạn của tôi ! Dung mạo ông thanh tịnh, thần thái ông trang nghiêm, an ổn, khiến mọi người đều tôn kính. Này tôn giả Xá Lợi Phất! Phải chăng tôn giả đã uống được nước cam lồ bất tử (amrta), đã tìm được con đường lớn dẫn tới sự bất tử? Dung mạo tôn giả giống như là bậc đắc dạo, nó trong sáng như hoa sen nở, thần thái của tôn giả an tường và trang trọng. Tôn giả tìm dược ở đâu đạo bất tử khiến cho thần thái của tôn giả trong sáng như thế này?” 
Ngài Xá Lợi Phất trả lời : “Này tôn giả Mục Kiền Liên, đúng vậy, tôi đã có được nước cam lồ bất tử, đã tìm ra đường lớn dẫn tới bất tử. (Mahavastu, 3,68 “Buddhist thought in India” ) 

2/ Bất tử : Vì là một thuộc tính quan trọng của Niết bàn, cho nên có đến 15 hình dung từ, có ý nghĩa tương tợ, cũng dùng cho Niết Bàn như : 
(1) Vĩnh hằng. 
(2) Kiên cố
(3) Bất biến
(4) Vô hoại (A-cyuta) 
(5) Không biên giới (vô tế-an-anta) 
(6) Vô chỉ (aty-antam) 
(7) Vô sanh
(8) Vô diệt . 
(9) Vô khởi.
(10) Bát dị hoại diệt, không dễ bị hoại diệt
(11) Phi sanh pháp, Apalokina-a-bhutam- không phải là pháp có sanh. 
(12) Vô hành - không có tác nghiệp
(13) Vô bịnh - không bịnh, 
(14) Vô lão - không già. 
(15) Vô tử (a-maranam) không chết. 
 

3/ Niết Bànan toàn và không có điều ác 
Niết Bàncảnh giới an toàn và không có điều ác. Có thể kể những hình dung từ có ý tứ an toàn như : 
(1) An toàn (A secure) 
(2) Nơi trở về để tránh khổ (A refugee) - quy cứu.
(3) Nơi ẩn náu (A shelter) tị sở.
(4) Nơi tránh nạn (A. asylum) tỵ nạn xứ, 
(5) Hòn đảo (A. island) 
Các hình dung từ khác có ý từ bỏ điều ác gồm có
(1) Đoạn diệt khổ (khổ chi chỉ diệt), 
(2) Dập tắt khổ (khổ chi chỉ tức), 
(3) Không thể gây thương hại,
(4) Không có tai họa (an-itikam) 
(5) An thích, an toàn thích thú (sukha) 
(6) Cát tường - tốt lành (sivan) 
(7) Vô ưu 
(8) Tịch an (santi), yên lặng, vắng lặng
(9) Thanh tịnh, trong sạch
(10) Vô nhiễm (asankihttha) không bị nhơ bẩn, 
(11) Vô nhiễu - không có phiền.nhiễu

4/ Niết Bàncảnh giới siêu việt
Sau đây là một số từ ngữ, nói lên tính siêu việt của Niết Bàn, phủ định mọi thuộc tính thế gian này của Niết Bàn, đồng thời khẳng định Niết Bàn là chơn lý tối hậu, là mục đích tối cao
(1) Giải thoát
(2) Xuất ly
(3) Vứt bỏ (khí xả) 
(4) Không chấp thủ (vô thủ) 
(5) Không rơi vào ba hữu 
(6) Siêu thế
(7) Siêu tuyệt, 
(8) An tức (an nghỉ) 
(9) Duy nhứt
(10) Thế gian tận, 
(11) Tham diệt. 
(12) Phiền não diệt, 
(13) Vô lậu
(14) Vô vi
(15) Phi sở tác, không phải do làm ra, 
(16) Không thể thấy - bất khả kiến, 
(17) Kinh lạ (ascaryam) 
(18) Kỳ diệu (adbhutam) 
(19) Vi tế, nhỏ nhiệm, 
(20) Bất khả thuyết
(21) Bất khả lường, 
(22) Không có gì sánh bằng (vô khả luân tỉ) 
(23) Chân đế
(24) Chân như Bhutta-tathata. 
(25) Thắng nghĩa Paramarttha. 
(26) Tối thượng
(27) Chí thiện (seyyo) 
(28) Vô thưọng (an-uttaram) 
(29) Duy nhứt viên mãn ekamttha (cái hoàn thiện duy nhứt). 
(30) Giải thoát tối hậu (apa-vagga). 

5/ 66 từ ngữ định nghĩa Niết Bàn theo cuốn “Bàn về Bốn Đế”
Sau đây chúng tôi liệt kê có 66 tên gọi khác của Niết Bàn kèm theo giải thích gọn : 
(1) Vô vi: Vì Niết Bàn là không sanh, không diệt, không phải là nhơn duyên sanh. Mọi pháp “bị làm ra”, không thể so với Niết Bàn được. 
Nguyên văn : Niết Bànvô sanh, không lớn lên, không diệt, không do nhơn duyên làm ra, trái ngược với hữu vi, cho nên gọi là vô vi

(2) Vô hạ: 
Niết Bàn siêu việt ba giới, không có gì so sánh với Niết Bàn được, cho nên gọi là Vô hạ. 
Nguyên văn : Cao vượt ba giới? xa lìa mọi thấp hèn, không có gì so sánh được cho nên gọi là vô hạ. 

(3) Vô lưu: 
Niết Bàn vĩnh viễn xa lìa mọi dòng sanh tử, không còn thuộc phạm vi sanh tử luân hồi, nên gọi là Vô lưu.
Nguyên văn: Vĩnh viễn xa lìa mọi dòng chảy, các dòng (sanh tử) không còn sinh ra nữa, không phải là nơi có vết tích dòng chảy, cho nên gọi là Vô lưu 

(4) Chân đế
Niết Bàn không phải là hư vọng, không phải là điên đảo, sai lầm, cũng không trái ngược chơn lý, cho nên gọi là Chơn đế.
Nguyên văn : Không hư vọng, không điên dảo, không tương vi, cho nên gọi là chân đế

(5) Bỉ ngạn: Bờ bên kia
Niết Bàncảnh giới không còn nghi hoặcsợ hãi nữa, siêu việt 3 hữu 2, xa lìa mọi công dụng, vượt qua biển lớn sanh tử, vì vậy gọi là bỉ ngạn
Nguyên văn : Không bị rắn độc của ba giới làm cho sợ hãi, vượt qua ba hữu, bỏ mọi công dụng, vượt biển sanh tử, cho nên gọi là bỉ ngạn

(6) Thính tế : (nghe được cái nhỏ nhiệm) 
Niết Bàncảnh giới chỉ có thể đạt tới với trí tuệ cao nhứt, vì vậy mà gọi là thính tế, tức là nắm bắt được cảnh giới của diệu lý, cực kỳ thâm sâu
Nguyên văn: là chỗ hiểu biết của trí tuệ cao tột, cho nên gọi là thính tế. 

(7) Khó thấy: (Nan kiến)
Niết Bàn không khác gì hoa ưu đàm, rất khó gặp. 
Nguyên văn : Như hoa Ưu đàm, thế gian khó gặp vì vậy gọi Nan kiến. 

(8) Vô hoại : 
Nguyên văn: không già, không bị phá hoại do đó gọi là vô hoại. 

(9) Hàng tại vô tranh
Không tranh giành (với ai) thường hằng như vậy:
Nguyên văn : Vốn là không giao động, cho nên gọi là hằng tại vô tranh

(10) Vô thất: không mất. 
Niết Bàn không phải vì đối trị và đoạn trừ các phiền não, mà bản thân bị suy giảm, cho nên gọi là vô thất. 
Nguyên văn : Đối trị, đoạn trừ các pháp, mà thể không bị suy giảm, cho nên gọi là vô thất. 

(11) Vô thí (dụ) 
Niết Bàn vượt tất cả những gì chúng ta thấy được trên thế gian này, không có cái gì ngang bằng với nó được, không thể dùng ví dụ dể hình dung ra Niết Bàn, cho nên gọi là vô thí (dụ). 
Nguyên văn : Niết Bàn vượt quá cảnh giới của mắt thấy, không có cái gì ngang bằng được, cho nên gọi là vô thí (dụ). 

(12) Không có hý luận
Niết Bàn không có các kiến giải sai lầm, nảy sinh từ tham ái, cũng không có kiêu mạnchấp thủ, vì vậy gọi là không hý luận
Nguyên văn: không có các kiến giải nảy sinh từ tham ái, không có kiêu mạnchấp thủ, cho nên gọi là không có hý luận

(13) Tịch tịnh : vắng lặng
Nguyên văn : lửa si hoặc bị dập tắt, cho nên gọi là tịch tịnh vắng lặng

(14) Cam lộ : 
Niết Bàncảnh giới bất tửchư thiên không thể chi phối được, cho nên gọi là cam lộ
Nguyên văn: Vượt qua cõi chết và thiên giới, cho nên gọi là cam lộ

(15) Cực diệu
Nguyên văn : rất là đẹp đẽ vắng lặng, đáng thích thú, cho nên gọi cực diệu

(16) Chỉ : là ngưng chỉ. 
Nguyên văn : vắng lặng, không khổ cho nên gọi là ngưng chỉ. 

(17) An: 
Nguyên văn: Pháp thiện chân thực cho nên gọi là An. 

(18) Ái tận: hết ái dục
Không còn bị sự thèm khát thiêu cháy, cho nên gọỉ là ái tận. 

(19) Hy hữu: Niết Bàn khiến cho nhiều người phải kinh ngạc ngợi 
khen, cho nên gọi là hy hữu
Nguyên văn : Làm cho người khác kinh lạ, cho nên gọi là hy hữu

(20) Chưa từng được như vậy: Vị tằng đắc. 
Trên con đường sanh tử, không thể đạt tới Niết Bàn, vì vậy nói chưa từng được như vậy. 
Nguyên văn : trong sanh tử, chưa từng được công đức ấy, cho nên gọi là vị tằng đắc. 

(21) Vô uổng : 
Người (được Niết Bàn), không còn bị hại, cho nên gọi là vô uổng. 

(22) Vô tai : 
Không còn tai nạn, trong thì không thiếu gì, ngoài thì không bị ác chướng, cho nên gọi là vô tai. 

(23) Niết Bàn
Sau khi chứng Niết Bàn, từ nay về sau không còn bị nỗi thống khổ của sanh tử nữa, được sự an lạc cứu kính, đó là ý nghĩa chơn chính của Niết Bàn
Nguyên văn : không còn phải tái sinh và chịu khổ nữa, được an lạc cứu kính, cho nên gọi là Niết Bàn

(24) Nan tư : 
nghĩa là khó suy nghĩ tới. Niết Bàn không thể nói là có, không thể nói là không, khó suy nghĩ tới được, cho nên gọi là nan tư
Nguyên văn : khác với tướng có, không cho nên gọi là nan tư

(25) Bất sanh
Đã có sanh thì có tử, già, lo buồn... Niết Bàn siêu việt mọi khuyết điểm liên quan đến sinh tử, và đem lại niềm vui kỳ diệu của giải thoát, cho nên gọi là bất sanh
Nguyên văn : lìa khuyết điểm của tái sinh và hưởng niềm vui tương ứng cho nên gọi là bất sinh

(26) Không dấu tích
Các loại ma như phiền não ma, tử ma, ngũ ấm ma, tự tại thiên ma, bốn loại ma này đều không quấy nhiễu được cảnh giới Niết Bàn, cho nên gọi là Vô tích, Niết Bàn không có dấu vết để cho các loại ma có thể theo dõi được. 
Nguyên văn: Tứ ma bất chí, cố thuyết vô tích. 
Nghĩa : bốn loại ma không đến được cho nên gọi là vô tích. 

(27) Phi tác: 
Bản thân Niết Bàn không thể do nhơn duyên nào làm ra được cho nên gọi là phi tác. 
Nguyên văn : không do nhơn nào tạo ra, cho nên gọi là phi tác. 

(28) Vô ưu
Không còn lo phiền, người chứng được Niết Bàn, không còn bị lo phiền, cho nên gọi là Vô ưu

Nguyên văn: Không còn bị khổ, nên gọi là Vô ưu

(29) Trú : 
Người chứng Niết Bàn an trúcảnh giới Niết Bàn không còn thoái chuyển
Nguyên văn : Người chứng Niết Bàn, vĩnh viễn không còn thối lui, cảnh giới chứng ngộkiên cố, vững chắc

(30) Vô đẳng:
Không có pháp nào có thể so sánh được với Niết Bàn
Nguyên văn : vô pháp năng tợ, cố thuyết vô đẳng (không có pháp nào có thể giống như Niết Bàn). 

(31) Vô cầu : 
Người chứng Niết Bàn không còn ham muốn cầu mong gì nữa. Nguyên văn : Vĩnh ly thủ dục, cố thuyết vô cầu. 
Nghĩa là : Vĩnh viễn xa lìa mọi ham muốn về chấp thủ, cho nên gọi là vô cầu. 

(32) Vô biên
Cảnh giới Niết Bàn siêu việt thời gian, không biến động, không còn có trước và sau. 
Nguyên văn: Vô tiền hậu tế, cố thuyết vô biên
Nghĩa là : Không còn có trước và sau, cho nên gọi là vô biên

(33) Vi tế
Không thể dùng tri thức thế tục để tìm hiểu Niết Bàn
Nguyên văn: Nan khả thông đạt cố thuyết vi tế
Nghĩa là: khó chứng đạt tới cho nên gọi là vi tế

(34) Vô tổn:
Không tổn hại
Nguyên văn : Vô hữu bức cố thuyết vô tổn. 
Nghĩa là : không còn bị bức bách cho nên gọi là vô tổn. 

(35) Ly dục
xa lìa dục vọng
Nguyên văn : Không còn bị ô nhiễm bởi mê hoặc, cho nên gọi ly dục

(36) Tịnh: trong sạch
Nguyên văn : Vô chư quá thất, cố thuyết danh tịnh. 
Nghĩa là: không còn có lỗi lầm khuyết điểm, cho nên gọi là tịnh. 

(37) Giải thoát
Nguyên văn : kết phước giai đoạn, cố danh giải thoát
Nghĩa là : mọi ràng buộc đều đoạn trừ, cho nên gọi là giải thoát

(38) Phi trú : 
cảnh giới Niết Bàn không còn nương tựa vào một pháp nào hết. 
Nguyên văn: Ly y chỉ cố thuyết phi trú. 

(39) Phi đối : 
Niết Bàncảnh giới chơn thực duy nhứt, thoát khỏi vòng đối đãi. Nguyên văn: Vô hữu nhị pháp, cố thuyết phi đối. 

(40) Đẳng :
Niết Bàn ngang bằng với cái tuyệt đối vô thượng
Nguyên văn : Vô đẳng đẳng cố thuyết vi đẳng. 
Nghĩa là: vì là ngang bằng với cái vô đẳng cho nên gọi là đẳng. 

(41) Vô hại
Niết Bàn siêu việt mọi cảm quantri giác
Nguyên văn : Chư nhập một xứ, cố thuyết vô hại
Nghĩa là : vì các cảm quan (chư nhập) không còn nữa cho nên gọi là vô hại

(42) Thậm thâm : rất sâu sắc. 
Nguyên văn: Ngoại nhân bất đắc, cố danh thậm thâm, người ở bên ngoài không thể có được, cho nên gọi rất sâu sẩc. 

(43) Nan giải: khó lý giải. 
Nguyên văn: tách khỏi chánh giáo của Phật thì khó hiểu biết được cho nên gọi là nan giải. 

(44) Năng độ : 
Nguyên văn: nhờ quán công đức (của Niết Bàn) mà khiến cho có thể vượt qua sanh tử, cho nên gọi là năng độ. 

(45) Vô thượng
Nguyên văn : là vô thưọng pháp không có gì ở trên nữa cho nên gọi là vô thượng
Nghĩa câu này không được rõ. Có thể có nghĩa: Niết Bàn đứng đầu hết thảy các pháp thù thắng, cho nên gọi là vô thượng

(46) Thắng : 
Nguyên văn: tìm trong biển pháp, nắm bắt được cái chân thực nhứt, là sở đắc của thưọng nhân cho nên gọi là vô thắng

(47) Thánh quả
Nguyên văn : nhờ tu vạn hạnh mới có được, là cái tối thượng vô giá cho nên gọi là thánh quả

(48) Vô úy : không sợ hãi
Nguyên văn : lìa các nhân làm cho sợ hãi cho nên gọi là vô úy

(49) Bất xá : 
Nguyên văn : sự yêu chuộng đối với quả thánh kiên cố, cho nên gọi là bất xả. 

(50) Biến mãn : khắp cả. 
Nguyên văn : Phàm Thánh đều vốn có (khả năng đạt Niết Bàn) như nhau. 

(51) Vô lượng
Nguyên văn . Công đức của Niết Bàn không thể tán thán hết được. 

(52) Vô số :
Nguyên văn : không thuộc về sáu cõi, cho nên gọi là vô số

(53) Bất phá: 
Nguyên văn : Thể của Niết Bàn hết sức kiên cố cho nên gọi là bất phá. 

(54) Tôn : 
Nguyên văn: không có pháp nào tôn quý hơn. 

(55) Ứng thán : 
Xứng đáng được tán thán
Nguyên văn : Trong sạch hết sức, xứng đáng nhứt được ca ngợi

(55) Xá : nơi ở. 
Nguyên văn : là nơi ở của các bậc Thánh. 

(56) Quy y
Nguvên văn : có thể cứu mọi khổ nạn, cho nên gọi là quy y

(57) Vô tranh
Nguyên văn : gọi là vô tranh vì mọi đấu tranh mâu thuẫn đều ngưng chỉ. 

(58) Vô cấu : không cấu bẩn. 
Nguyên văn : xa lìa tham, sân, si cho nên gọi là vô cấu

(59) Vô giả : 
Nguyên văn : vốn có, không bị làm ra cho nên gọi là vô giả. 

(60) Đăng : đèn. 
Nguyên văn : trừ bóng tối vô minh, cho nên gọi là đèn. 

(62) Lạc : Các cảm thọ đều vắng lặng, cho nên gọi là lạc 

(63) Vô đọa : không đọa. 
Nguyên văn : không đọa vào các cảnh sắc... 

(64) Châu : hòn đảo. 
Nguyên văn : bốn dòng chảy (sinh, lão, bịnh, tử) không nhận chìm được. 

(65) Bất động : Không thể chứng đạt Niết Bàn với tâm tán loạn được. 
Nguyên văn : tán tâm bất chứng, cố thuyết bất động

(66) Vô sở hữu : không có gì riêng tây. 
 

Qua 66 tên gọi khác nhau của Niết Bàn, chúng ta thấy rõ, ngay trong kinh sách Phật giáo Nguyên thủy, Niết Bàn không phải là cảnh giới hư vô, mà là một cảnh giới thực tại, bao hàm vô lượng công đức. Đến kinh sách Phật giáo Đại thừa, tính tích cực của Niết Bàn càng được bộc lộ rõ hơn nữa. (66 thuộc tính Niết Bàn rút trong Đại Chính 1647- P. 390, 391 “Tứ Đế Luận”). 
 

6/ Niết Bàn của Đại Thừa:
Đối với Đại thừa, Niết Bàn chính là Chân Như, là Thực tướng, là Pháp thân. Luận khởi tín viết : “Thể bổn giác của Chân Như toàn hiện tức là Niết Bàn. Thể bổn giác đó chính là trí tuệ sáng suốt. Theo Đại Thừa, thể bổn giác đó chính là trí tuệ Bát nhã, hay trí tuệ Ba La Mật. Thể bổn giác đó có hai tướng : 
1. là trí tịnh tướng, là tướng trí tuệ thanh tịnh
2. Là bất tư nghì nghiệp tướng, tức là thể bổn giác đó hàm chứa vô vàn công đức không thể bàn xiết, phục vụ cho sự nghiệp độ sanh của chư Phật Bồ Tát

Kinh Luận Đại Thừa thường nói tới bốn loại Niết Bàn là : (trích dịch Thành Duy Thức Luận): 

1. Bổn lai tự tánh thanh tịnh Niết Bàn
Tức lý chơn như của tất cả mọi pháp tướng, tuy về khách quan có bị nhiễm ô, nhưng tự tánh của nó vẫn thanh tịnh, có đầy đủ vô lượng công đức, vi diệu, không sanh không diệt, trong suốt như hư không, là sỡ hữu bình đẳng và vốn có của tất cả mọi loài hữu tình, cùng với tất cả các pháp không phải một, không phải khác, xa lìa mọi tướng, mọi phân biệt, mọi tư duy, mọi ngôn ngữ, chỉ có bậc Thánh chơn chính mới chứng được từ nội tâm, tự tánh nó vốn vắng lặng cho nên gọi là Niết Bàn

2. Hữu dư y Niết Bàn
Chân Như đã thoát lìa phiền não, nhưng sở y còn có đôi chút khổ vi tế, tuy là mọi chuớng ngại đã đoạn tận cho nên gọi là Niết Bàn.

3. Vô dư y Niết Bàn
Tức là Chân Như đã thoát lìa mọi nỗi khổ sanh tử, không còn phiền não nữa, mọi dư y cũng không còn, mọi khổ đau đều chấm dứt, cho nên gọi là Niết Bàn

4. Vô trụ xứ Niết Bàn
Tức là Chân Như đã thoát khỏi sở tri chướng, có đầy đủ lòng đại bitrí tuệ lớn, phát huy tác dụng hóa độ chúng sanh với số lượng không kể xiết tuy phát huy tác dụng như vậy nhưng vẫn vắng lặng, cho nên gọi là Niết Bàn
 

Trong bốn loại Niết Bàn nói trên, thì Phật giáo Nguyên thủyPhật giáo bộ phái đã từng nói đến Hữu dư y Niết BànVô dư y Niết Bàn rồi. Nhưng tự tính Niết BànVô trụ xứ Niết Bàn thì chưa nói tới. 

Một trong những điểm mới của các bộ kinh Bát Nhã, xuất hiện trong thời kỳ hưng khởi của Phật giáo Đại Thừa là tất cả mọi chúng sinh đều có Phật tính, là cái mầm giác ngộ sẵn có trong tất cả mọi chúng sanh, là cái khả năng thành Phật của tất cả mọi loài hữu tình. Phật tính đó chính là Bổn lai tự tính Niết Bàn được nói tới trong Thành Duy Thức Luận, cũng chính là trí tuệ Bát Nhã vậy. 

Nhân vật tiêu biểu của Đại Thùa giáo là Bồ tát mà nhân cách phi thường được thể hiện trong lời nguyện của Bồ tát Địa Tạng “Địa ngục bất không, thệ bất thành Phật...”. Ý nói, nếu trong địa ngục còn có chúng sanh, thì thề không thành Phật. Hạnh Bồ tát là hạnh lợi tha triệt để. Vị Bồ tát cho rằng, còn một chúng sanh chưa được giải thoát thì bản thân mình cũng chưa được thực sự giải thoát, còn một chúng sanh còn đau khổ, chưa được an lạc thì bản thân mình cũng đau khổ chưa được thực sự an lạc. Vì có trí tuệ Bát Nhã cho nên vị Bồ Tát không trụ ở sinh tử, vì có lòng đại bi cho nên vị Bồ tát cũng không trụ ở Niết Bàn, vì vậy mà gọi là Vô trụ xứ Niết Bàn
 

Chú thích:
1. Samyutta Nikàya - 1069 - 76, chuyển dịch từ Conze - Buddhist Thought in India. p.77 - 79.
2. Tam hữu : có hai nghĩa
A. Dục giới, sắc giớivô sắc giới
B. Sanh hữu, tử hữu, trung hữu, sanh hữu là sự tồn tại của sự sống, tử hữu là sự tồn tại của sự chết, trung hữu là sự tồn tại giữa thời điểm chết và thời điểm tái sinh
 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10988)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16321)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11777)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12000)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12692)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12603)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10125)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13817)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10137)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13597)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16164)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11873)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12875)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11558)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12579)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10699)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10891)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10860)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11805)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12659)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 10982)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12521)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11232)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12423)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 13976)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10741)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10408)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11075)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11870)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13045)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12272)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15250)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14213)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12003)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15189)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11885)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11098)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10510)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13046)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12563)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16418)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13408)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11868)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11523)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12664)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12783)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 17883)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12093)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12940)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant