Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

02. Chủ Đề Nghiệp Báo

09 Tháng Mười 201000:00(Xem: 4098)
02. Chủ Đề Nghiệp Báo

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC NGƯỜI CƯ SĨ
Pháp sư Thông Kham
Mahà Medhivongse
Nhà xuất bản Tôn Giáo 2000

Chủ đề NGHIỆP BÁO

-oOo-

HỎI: Thưa ông, tôi làm mất thì giờ của ông nhiều, nhưng tôi thấy rằng, tôi chưa thông suốt, xin ông cho phép tôi hỏi thêm. Thưa ông, người đã phạm vào một điều răn nào và bị tù đày rồi, theo tôi nghĩ người ấy đã trả xong tội. Không biết đối với đạo còn có tội nữa không? Nghĩa là phải sanh vào một ác đạo nào để chịu tội nữa không?

ĐÁP: Nói về Nghiệp thì không ai có quyền, hay có thể định đoạt được số mạng của người khác được. Như nói: Nghiệp ấy trả quả chừng ấy cũng đủ rồi, hoặc chưa đủ phải trả thêm nữa. Chỉ có đức Thế tôn mới thấy rõ nghiệp ấy còn trả quả nữa hay không. Ngài thấy bằng tuệ giác của ngài. Tôi xin nhắc ông một lần nữa: Ngài thấy bằng tuệ giác chớ không phải Ngài có quyền cho tội phước cho một chúng sinh nào hết, và Ngài cũng không thể ngăn đón nghiệp giùm cho một chúng sinh nào cả.

Ngài chỉ dạy chúng sinh lánh điều dữ làm việc thiện mà thôi. Khi người làm điều ác thì phải bị thọ khổ, nếu hành theo Thiện nghiệp thì sẽ được hưởng an vui.

Tóm lại, nghiệp ấy còn trả quả hay không đều do nơi hành động của người trong cuộc. Vì vậy nên nói về nghiệp không có ai có thể nhất định như thế này thế nọ, vì nó thuộc về hậu quả sự tạo tác của con người. Tôi muốn nói là do nơi tác ý khi tạo nghiệp.

 

HỎI: Thưa ông, xin cho tôi biết dứt khoát rằng: "Nghiệp ấy còn trả quả nữa không? "

ĐÁP: Như tôi đã nói: Không ai có thể giải quyết dứt khoát được rằng: Anh A hay anh B bị ở tù là trả xong tội ấy rồi, nghiệp ấy không còn hay trả quả nữa. Tại sao? Vì nghiệp có nhiều thứ khác nhau và sự trả quả không giống nhau. Có nghiệp khi đã trả quả kiếp này xong, còn theo đến nhiều kiếp sau. Có nghiệp chỉ trả quả trong một kiếp này rồi thôi không theo trả nữa.

 

HỎI: Thưa ông, vậy trong 12 cái nghiệp có cái gọi là Quá nghiệp vậy nghĩa là gì?

ĐÁP: Quá nghiệp Phạn ngữ gọi là Ahosikamma có nghĩa là Nghiệp trả quả xong rồi không theo trả quả nữa. Ví như người chủ nợ lấy đủ vốn lời rồi không theo đòi thêm nữa.

Sở dĩ nghiệp ấy không theo đòi nữa vì có nhiều nguyên nhân:

1. Vì nghiệp ấy không phải là Garuhamma, nghĩa là đại nghiệp có nơi cũng gọi là Trọng nghiệp; nên chi không đủ sức theo dính bên người để trả quả thêm. Hơn nữa khi người phạm tội biết ăn năn cải tạo đời mình, nghĩa là biết tu hành tinh tấn nên nhờ Thiện nghiệp ấy chạy mau nên nghiệp kia không thể chạy theo kịp trả quả. Đây không có nghĩa là mất luôn, nghiệp ấy vẫn cố gắng chạy theo nhưng không có cơ hội thuận tiện nên không trả được. Nghĩa là khi nào đến Niết bàn mới có thể nói Quá nghiệp.

2. Hoặc nghiệp ấy là đại nghiệp, nhưng kịp thời ăn năn lo tu hành tinh tấn đắc A La Hán quả và đã nhập Niết bàn, nghiệp ấy không còn cơ hội trả quả. Như tích Ngài vô não. Khi còn là tướng cướp, Ngài giết hằng muôn người.

Sau khi xuất gia đầu Phật, Ngài ráng tu hành tinh tấn đắc A La Hán, nhập Niết bàn, thì những nghiệp Ngài đã tạo chỉ trả quả cho Ngài rất nhẹ khi Ngài chưa đắc A la hán quả thôi. Nghiệp ấy trả quả như thế này, khi Ngài xuất gia đi khất thực bị người dùng đá ném Ngài lỗ đầu chảy maùu, y rách, bát bể. Tôi không ngụ ý nói khi đắc A La Hán quả không bị trả quả, nhưng nhờ sự tu hành của Ngài nên Nghiệp ác theo chưa kịp thôi.

Xin ông nên nhớ rằng: Quá nghiệp không có nghĩa là không trả quả, nhưng có nghĩa là: Sở dĩ nghiệp ấy chưa trả quả hay không trả vì theo không kịp thôi.

 

HỎI: Thưa ông, người điên làm quấy có tội hay không? Theo ý kiến cá nhân tôi hành động của người điên làm không có tội vì người ấy không có trí nhớ, không phân biệt được phải quấy, hay nói theo giáo lý nhà Phật gọi là có Tác ý chắc là khỏi tội.

ĐÁP: Theo lời Phật dạy nên tin ở Nghiệp, vì có câu Phật ngôn Cetanàham bhikkhave kammam vadàmi, nghĩa là: Này các thầy Tỳ Khưu, Như Lai dạy rằng Tác Ý là Nghiệp. Cũng nên hiểu rõ câu Phật ngôn rằng: Con người làm việc gì cũng do nơi tác ý làm chủ động. Người thiếu trí nhớbiết mình thì làm việc gì mặc dầutác ý cũng khó mà có kết quả mỹ mãn được.

Theo Phật giáo Nghiệp chia ra làm 12 điều khác nhau. Một trong 12 điều ấy có Nghiệp, Phạn ngữ gọi là Kattatàkamma ta cắt nghĩa là Hoặc Nghiệp là hành động thiếu chú tâm. Những hành động như thế đem lại kết quả rất ít. Nếu đem việc này so sánh với việc làm của người điên vẫn còn hơn.

 

HỎI: Thưa ông, tôi vẫn còn nghi ngờ từ Cetanà dịch là Tác ý. Thưa ông, không biết từ gọi là Tác ý aáy có ý nghĩa thế nào, có thể nói là Cố tâm, Quan tâm hay Chú tâm được không?

ĐÁP: Được, có thể có ý nghĩa như vậy.

 

HỎI: Nếu vậy thì tôi tin rằng: Người điên cũng có chú tâm, Cố tâm. Như khi người điên giận hay oán ghét ai, họ đánh chửi, hoặc giết hại người ấy chớ không làm hại người khác. Vì vậy tôi tin rằng: Người điên cũng có tác ý, nhưng thiếu trí nhớbiết mình như người thường. Vậy người điên làm như thế có tội hoàn toàn như người thường không?

ĐÁP: Sự thật không như lời ông buộc tội, mặc dầu người điên ấy cố ý thật, nhưng họ vẫn thiếu trí nhớbiết mình, và chính người ấy cũng không hề biết mình làm như thế là sai, là có tội. Vì lẽ thiếu hai pháp trên nên người điên không bị hậu quả nặng bằng người không điên. Ta có thể nói nghiệp mà người điên đã tạo vẫn có hậu quả ít hơn nghiệp mà người thường tạo gọi là Hoặc Nghiệp.

Nếu nói về điên, theo Phật dạy trong tạng luật, thầy Tỳ khưu điên không phạm giới. Đức Thế Tôn dạy: Khi mà người điên không còn phân biệt được phân với vật thực mới gọi là điên và không bị phạm luật.

 

HỎI: Xin trở lại vấn đề Nghiệp. Khi nghiệp điên mà có dư sót thì kiếp sau vẫn còn sanh làm người điên. Nhưng hiện nay, khoa hoïc thịnh hành phần đông người ta ít tin nếu không muốn nói là ít người nhìn nhận có nghiệp quá khứ. Vậy xin ông vui lòng giảng giải cho thaáy rõ Nghiệp, và nếu có thể xin đem Nghiệp của Phật giáo ra so sánh với khoa học để cho dễ lãnh hội?

ĐÁP: Trước hết ta hãy thấy rằng luật nhân quảnghiệp báo trong Phật giáo rất hợp lý và dễ chứng minh. Người Phật tử không bao giờ tin nơi một vị chúa tể hay vị thần thánh nào có oai lực ban phước hay đem tội đến cho chúng sinh. Ngoài cái định luật tự nhiên của Nghiệp báo không còn có một lý do nào chính đáng khác đáng tin hơn. Đức Thế Tôn có dạy sự an vui hay đau khổchúng ta đang thọ đây là do nơi nghiệp hay có thể nói do hành động của ta trong quá khứ. Như năm rồi làm ruộng nên năm nay mới có gạo ăn. Nhưng có nhiều người còn thắc mắc khi thấy lắm kẻ làm ác mà vẫn giàu sang hạnh phúc, còn người tu hành hay lương thiện trái lại bị hoạn nạn nghèo khổ. Điểm này là nguyên nhân chính làm cho người đời hoài nghi về luật nghiệp báo như trường hợp vừa nêu. Vậy ông nghĩ sao?

 

HỎI: Lời tôi hỏi ông trên đây là do sự nghi ngờ của phần đông bạn tôi. Riêng tôi thì tôi nghi ngờ rằng: Nghiệp quá khứ trả quả, nhưng không thấy đưa ra bằng chứng cụ thể nào cho thấy rõ: đây là do nghiệp quá khứ, hay nghiệp hiện tại. Ví dụ như người kia đang làm ăn chân chính thì bị bắt về tội do người khác phao vu. Vậy xin hỏi tội của người ấy là do nghiệp quá khứ hay do nghiệp hiện tại?

ĐÁP: Người bỗng dưng bị phao vu, hay bị tai nạn như chết bất đắc kỳ tử đều do nơi nghiệp quá khứ. Còn nghiệp hiện tại là khi người ấy làm chuyện bất chính thật sự nên bị chính quyền xử lý.

 

HỎI: Thưa ông, còn biết bao nhiêu người làm chuyện phi pháp hay tội lỗi mà họ vẫn an vui phú quý như thường thì sao?

ĐÁP: đó là nghiệp chưa trả quả nên người ấy chưa thọ khổ, ví như người mới vừa trồng caây có chất độc, nhưng chưa tới thời kỳ trổ bông sinh trái. Hơn nữa, người ấy tạo nghiệp xấu, nhưng không phải là Garukamma nghĩa là Trọng nghiệp hay có chỗ cũng gọi là Đại nghiệp như giết cha, giết mẹ, làm cho Phật chảy máu, chia rẽ tăng và dâm hãm Tỳ khưu ni. Chỉ có ngũ nghịch đại tội này mới bị trả quả ngay tức khắc trong kiếp hiện tại này.

 

HỎI: Thưa ông, phóng sanh chim cá có phước thật hay không? Theo ngụ ý của tôi, có phước. Vì mình thấy thương hại nó, cứu chuùng nó ra khỏi cảnh giam cầm hay sắp bị giết. Nhưng tôi có một người bạn, khi thấy phóng sanh chim ông ta phản đối, vì ông ta cho rằng: Phóng sanh như thế thật không có phước; mà mình vô tình bị những người buôn bán chim cá lợi dụng, vì họ biết người tu Phật thường hay phóng sanh, hoï càng bắt nhiều thêm để bán thủ lợi. Như ta thấy, mấy ngày rằm lớn chim bán rất chạy và rất đắt. Như vậy, có phải là vô tình ta làm khổ thêm cho loài thú chăng?

ĐÁP: Theo câu hỏi của người bạn ông, ta cần biết tác ý của người mua. Nếu vì lòng Từ, thương hại loài vật nên mua để thả, để giải phóng chúng nó, như vậy là có tác ý lành rồi thì tự nhiên được phước chẳng sai. Thật ra người mua không bao giờ có ý giúp cho người bán thú làm giàu, mà cũng không cố ý xúi bảo bắt thêm để bán mà buộc người ấy vào tội vô tình bị lợi dụng hoặc làm khổ cho nhân loại.

 

HỎI: Thưa ông, cũng người bạn này nói với tôi rằng, họ không tin nghiệp. Vì khi anh ta còn nhỏ, rượu chè be beùt, là đứa con xấu nhất trong gia đình. Anh ấy xấu đến độ dám lấy trộm đồ của cha mẹ ông bà đem cầm bán mà không bị ai nghi ngờ chi hết. Tới nay anh ấy cũng chẳng thấy có tội gì, vẫn bình an như thường. Vì lẽ ấy, anh thường bảo tôi rằng: Không có tội phước gì hết, chẳng qua là chuyện "nhát ông Kẹ" cho trẻ nít sợ mà thôi, hoặc tội phước là chuyện may rủi ở đời.

Xin ông vui lòng chỉ bảo tôi, phải trả lời thế nào cho bạn tôi biết rõ đâu là tội, đâu là phước. Anh ta thật tốt, nhưng chỉ không tin gì hết mà thôi.

ĐÁP: Theo Đức Phật dạy, khi người đã làm một điều gì, tức là đã tạo nghiệp, mà khi đã tạo nghiệp thì không bao giờ mất, nó vẫn theo bên ta như hình với bóng. Nghiệp dầu Thiện hay Ác đều vẫn theo dính bên ta để chờ cơ hội thuận tiện xen vào trả quả. Đức Thế Tôn có dạy nghiệp thiện ác ví như một chuồng bò nhỏ mà nhốt nhiều con bị bỏ đói khát mấy ngày, khi mở chuồng chúng chen nhau mà ra. Nghiệp cũng vậy chúng giành nhau chen nhau để trả quả. Nghiệp nào mạnh thì chen vào trước quả trả trước, yếu theo sau. Sở dĩ mà nghiệp của người bạn ông chưa trả quả vì nó không phải là trọng nghiệp, nó chưa đủ sức mạnh trả quả sớm đó thôi. Bao giờ nghiệp lành của ông ấy yếu đi, nghiệp xấu sẽ trả quả, chừng đó ông ấy sẽ than van rên xiết.

Phần nhiều người chỉ nhìn vào hiện tại, không nghĩ đến vị laiquá khứ nên khó phân biệt được nhân quả.

Về thời gian trả quả ta có thể chia nghiệp ra làm 4 loại khác nhau:

1)- Dittavedaniyakamma nghĩa là Hiện nghiệp, ý nói Hiện nghiệp là nghiệp làm trong kiếp này trả quả liền trong kiếp hiện tại. Mau là trong thời gian bảy ngày. Nếu có trễ lắm, cũng không qua khỏi kiếp này. Như ông Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) làm hại Phật, hay nàng Chinh-cha (Cincà) phao vu Đức Phật ở với bà đến mang thai. Hai người này bị đất sụp rút đi.

Hiện nghiệp trả quả sớm hay muộn còn do nơi nhiều nguyên nhân khác. Người làm phước hay tội có kết quả lành hay dữ đều do nơi những nguyên nhân sau đây:

- Gatisampatti nghĩa là Hợp cảnh. Có ý nói chúng sinh tạo nghiệp này phải có thân ngũ uẩn như Người, Trời hay súc sinh.

- Kàlasampatti: Hợp thời. Nghĩa là người tạo nghiệp nhằm thời cơ thuận tiện đưa đến. Như sinh lại nhằm lúc Đức Phật còn tại thế, còn có Thánh tăng. Và gặp nhằm lúc có Phật Bích chi, và được cúng dường đến các vị ấy mà nhằm lúc quí Ngài vừa xả Diệt thọ vô tưởng định. Nơi đây tôi xin nhắc sơ lược tích của một cô bé giữ vườn bắp (ngô).

Khi Đức Thế Tôn còn tại thế, có một cô làm rẫy bắp, cô ta thật nghèo, phần lớn đời sống của cô ăn ngô khoai ít khi được ăn cơm. Ngày kia cô đi thăm rẫy, cô mang theo bắp rang để ăn trừ cơm. Khi ấy, Đại đức Ca Diếp, sau khi nhập định được bảy ngày, liền xả định. Ngài thường dùng trí tuệ xem coi chúng sinh nào có duyên và trong sạch cúng dường cho Ngài, nhất là người ấy phải là người thật nghèo. Vì Ngài có hạnh nguyệnđộ người nghèo.

Thấy cô làm rẫy bắp có duyên với Ngài, khi gặp Ngài thì cô sẽ phát tâm trong sạch cúng dường vật thực cho Ngài, nên Ngài liền đi ngay đến nơi rẫy bắp.

Khi cô gái làm rẫy bắp trông thấy ngài Đại đức thì phát tâm trong sạch, nghĩ rằng: "Lắm khi ta không có vật gì để dâng cúng đến Đại đức thì ta lại gặp Ngài, còn khi ta có vật thực lại không gặp được Ngài. Hôm nay thật là ngày hạnh phúc cho đời ta, là đã sẵn có vật cúng dường mà lại gặp được Đại đức. Vậy ta phải làm việc lành này."

Nghĩ xong cô liền đến đảnh lễ Đại đức dâng bắp rang và nói: Xin Ngài mở lòng từ bi tế độ kẻ nghèo khó.

Ngài Đại đức ngừng lại nhận gói bắp rang của cô. Ngài cầu cho cô được như ý nguyện. Sau khi được Ngài Đại đức thọ lãnh vật cúng dường, cô lấy làm mừng rỡ. Cô đi ngay đến chòi giữ bắp, trên đường đi cô lấy làm mừng vui vì cô thấy đã làm được việc lành. Khi đang vui vẻ như vậy cô bị một con rắn độc cắn chết tại bờ rẫy bắp. Do nhờ phước báo rất sạch dâng cúng đúng vào vị thánh tăng vừa xuất đại định, nên cô được sinh về cõi Trời Đao lợi ở trong một tòa lầu đẹp lộng lẫy, trước hai bên cửa nhà có cây to bông trắng và rụng xuống những hoa toàn bằng ngọc đẹp. Cô được sinh vào cõi Đao lợi như người nằm mơ. Cô nghĩ lại vì lẽ nào cô được sinh vào cõi này, cô biết rằng do nhờ sự cúng dường đúng nơi của cô.

Tích này trong Kinh Pháp Cú còn dài, nhưng tôi chỉ tóm lại một đoạn ngắn. Nhắc lại đây để ông thấy rằng: Làm phước phải hội đủ nguyên nhân mới có kết quả mỹ mãn trong kiếp hiện tại. Như cô làm rẫy bắp có vật thực cúng dường, có tâm trong sạch muốn cúng dường, và gặp đúng người đáng thọ lãnh của cúng dường, nên khi cô làm phước được kết quả liền.

- Paohgasampatti - Phải có sự cố gắng làm việc lành mà mình đã nhất định làm không hề thoái chuyển.

Khi người làm việc thiện hay ác mà có đầy đủ ba nguyên nhân kể trên, nghiệp ấy sẽ trả quả kiếp hiện tại này.

2)- Uppajjavedaniyakamma nghĩa là hậu nghiệp. Đây là nghiệp chờ trả quả kiếp sau nếu chưa hội đủ nguyên nhân để trả quả thì nó đợi trả quả kiếp thứ hai kế kiếp sau ấy.

3)- Aparàparavedanìyakamma nghĩa là tùy nghiệp. Đây là nghiệp traû quả kế kiếp thứ ba, thứ tư, thứ năm, nghĩa là nghiệp này theo mãi đến bao giờ nhập Niết Bàn.

4)- Ahosikamma nghĩa là quá nghiệp. Nghiệp này tôi đã giải rồi, nhưng nơi đây xin nói sơ lược để ông nhớ, nghiệp này có thể trả quả hay không là do sự tu hành tinh tấn của người, nghiệp ấy không đủ sức theo kịp để trả quả.

 

HỎI: Thưa ông, trong giáo pháp của nhà Phật có dạy cách nào làm cho nghiệp ấy không thể trả quả được, khi mà người đã lỡ tạo rồi hay không?

ĐÁP: trong Phật pháp cũng có phương pháp chỉ cho những người biết hối hóa ăn năn hồi đầu hướng thiện, ráng lo tinh tấn tu hành thì cũng chưa gọi là quá trễ. Nếu người biết lỗi, ráng tu theo đúng lời Phật dạy, khi người ấy còn trong thời kỳ hưởng quả của thiện nghiệp, thì nên cố gắng hàng ngày bồi đắp công đứcthiện nghiệp cũng như người nhìn thấy thủy triều dâng lên rất mạnh, nếu không đắp đê ngăn thì mình không thể sống được. Người nhờ phước báo ngăn đón nên khỏi bị tai nạn, hay bị quả báo, cũng như người đắp đê ngăn nước lũ vậy. Nói đây, tôi xin nhắc lại ông rằng: Tôi không phủ nhận nghiệp ác mất, hay có luật bù trừ, mà tôi chỉ nói ngăn ngừa, hay chạy trốn ác nghiệp mà mình đã lỡ tạo thôi, ý tôi nói sở dĩ người chưa bị ác nghiệp trả quả nhờ sự tu hành của mình, nghiệp ác không đủ sức theo kịp như chó săn rượt chưa theo kịp mồi thôi.

Điều này cũng có thể, ví như người cùng đi chung với bọn hung ác mà không hay biết chi hết, khi biết rồi lật đật lên ngựa chạy thật mau để tránh xa bọn ác. Bọn ác dù có cố gắng để rượt theo bắt lại, nhưng người kia nhờ có ngựa hay nên chạy thoát khỏi bọn hung ác ấy. Khi chạy đến chân thành người ấy vào thành, bọn ác kia không dám vào, vì trong thành có quan quân canh phòng cẩn mật, luật lệ nghiêm minh, kẻ ác bị khai trừ nên không dám đến gần.

Bọn hung ác ấy ví như tội ác, con ngựa của người ấy cưỡi là thiện pháp. Người kia chính là tâm kinh sợ tội lỗi, còn thành kia tôi xin ví như Niết bàn. Vì Niết bàn là nơi đi ra ngoài tam giới, nơi hoàn toàn trong sạch, tội lỗi không thể nào lẫn lộn được.

 

HỎI: Thưa ông, thí dụ của ông làm cho tôi hiểu rõ. Nhưng tôi còn thắc mắc con ngựa ấy do những gì cấu tạo thành, tôi ráng mua một con để cưỡi chạy thoát khỏi nơi này.

ĐÁP: Tôi sẽ biếu ông một con, nếu ông bằng lòng nuôi dưỡng nó. Ngựa này là ngựa vô giá, không có nơi nào bán. Nhưng Phật giáo chỉ biếu không cho người cần giải thoát.

Ngựa quý ấy là:

1/- Pubbekatapunnatà - tư cách của người đã làm việc lành để dành từ khi trươùc. Đây cũng có nghĩa là người nên cố làm điều lành từ bây giờ để dùng ngày vị lai. Những việc lành mà người cần phải làm ấy là: Bố thí, trì giới, tham thiền, nhẫn nại, từ bi. Những pháp này hợp lại ví như mình ngựa, chắc chắn mạnh, người có thể ngồi rất êm chạy xa không mỏi.

2/- Patirupadesavàso - Nên ở trong xứ nên ở, nghĩa là ở trong xứ có Phật pháp, có các bậc thiện trí thức dạy người làm lành lánh dữ.

3/- Saddhammasavana - Nghe lời chỉ bảo của các vị trí thức ấy và ráng vâng giữ hành theo.

4/- Sappurisapassayà - nên xa kẻ ác và phải thân cận với các bậc tri thức.

5/- Attasammàpanidhi - Cư xử theo lẽ chính, có nghĩa là hành theo chính đạo mà các bậc thiện trí thức, nhất là Phật, đã dạy.

Bốn pháp sau này ví như bốn chân của ngựa quý.

(Năm pháp vừa kể trên có giải rõ trong quyển "30 Pháp Hạnh Phúc" cùng một tác giả đã ấn tống.)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8287)
Đạo Phật trên ý nghĩa thiết yếu là “biện chứng giải thoát” hay là con đường gỉai thoát. Gỉai thoát khỏi khổ đau, sinh tử luân hồi.
(Xem: 7558)
Lâu nay mình đã sống trọn vẹn hết thời giờ chưa? Mình có để lãng phí thời giờ hay không? Và bằng cách nào để chúng ta sống một cách có ý nghĩa?
(Xem: 8600)
Hai chữ “Sinh Tử” đã khiến cho biết bao nhiêu người bất kể trí ngu giàu nghèo từ xưa đến nay đều phải lưu ý tới và khổ tâm vì nó.
(Xem: 7138)
Những gì có mang một tính chất riêng (svalakṣaṇa) đều được gọi là pháp (dharma): “svalakṣaṇadhāraṇād dharmaḥ”[1], tức do duy trì yếu tính của tự thân nên nó được gọi là Pháp.
(Xem: 8411)
Đối với Phật giáo mỗi người làm chủ lấy vận mạng của chính mình. Mỗi chúng ta đều mang trong mình một tiềm năng ngang nhau...
(Xem: 7696)
Đạt được cơ sở con người, cơ sở đó giống như một cái bình thật quý và hiếm hoi, giúp ta có thể giải thoát tất cả kẻ khác và cho cả chính ta
(Xem: 6996)
Như Lai hay Như Khứ là dịch nghĩa của từ Sanskrit: Tathāgata, được ghép từ hai yếu tố là tathā và Agata hoặc tathā và gata.
(Xem: 8208)
TA THƯỜNG NGHE NÓI rằng thật khó tìm được một thân người. Không phải là bất kỳ thân người nào mà là một thân người “quý báu” có nối kết với Giáo pháp – đó chính là điều khó đạt được.
(Xem: 9224)
Đọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, người ta thường thấy câu thành ngữ “Buông đao đồ tể, lập tức thành Phật”.
(Xem: 7916)
Thuật từ Uẩn 蘊, ngữ nguyên Sanskrit là skandha, Pāli là khandha, Hán phiên âm, Tắc-kiện-đà 塞健陀, dịch là tích tụ, loại biệt, tức là năm loại khác nhau về các pháp hữu vi.
(Xem: 8417)
“Bạn có nghĩ rằng hôm nay chỉ là một ngày nữa của đời mình chăng? Thật ra hôm nay không phải chỉ là ‘một ngày nữa’ thôi, mà nó là một ngày được riêng dâng tặng cho bạn.
(Xem: 8055)
Phật dạy chúng ta hãy đem chánh niệm vào tất cả những việc mình làm trong đời sống hằng ngày. Ngài không bỏ ra ngoài bất cứ một việc làm nhỏ nhặt nào hết...
(Xem: 9608)
Những lời khuyên thiết thực, thâm sâutrong sáng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, chỉ cho ta cách tu tập giúp biến cải tâm linh ta, biến ta thành một con người cao cả hơn...
(Xem: 6772)
Trong cuộc sống, chúng ta thường dùng lời nói để trao đổi thông tin, để diễn đạt ý tưởng hoặc để bày tỏ, biểu lộ tâm tư tình cảm của mình…
(Xem: 6804)
Đức Phậtlòng từ bi mà thương xót chúng sinh, nên đã chỉ ra nỗi khổ, niềm đau, chỉ dạy phương pháp dứt khổ, để chúng ta cùng được sống trong bình yên, hạnh phúc.
(Xem: 7024)
Hộ trì các căn (Indriyesu guttadvàro) hay phòng hộ các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) là một trong các biện pháp tu tập căn bản của đạo Phật.
(Xem: 6662)
Tăng quan luận (僧官論) là một trong những bộ luận do ngài Thích Ngạn Tông (557-610)1 trước tác, nhằm thuyết minh và lý giải các chức vụ do chư Tăng đảm nhiệm (廣明僧職)
(Xem: 7202)
Chưa có tài liệu nào về niên đại của đức Phật lịch sử, vị sáng lập đạo Phật, được truyền thừa nhất quán trong các tông phái chính của Phật giáo cũng như được các học giả cùng công nhận.
(Xem: 6834)
Kinh Hoa Nghiêm, như các kinh điển Đại thừa, lấy tánh Không làm nền tảng. Tánh Không trong kinh này là Pháp thân của Phật bổn nguyên Tỳ-lô-giá-na, và toàn thể vũ trụhiện thân của Ngài.
(Xem: 16237)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
(Xem: 7530)
Con đường Bồ tátcon đường lý tưởng nổi tiếng của Phật giáo Đại thừa – không phải là pháp tu để thành thánh, thành tiên, mà là một lối sống ai cũng có thể ước mong thành tựu được.
(Xem: 6479)
Sau kiến đạo, các pháp hữu lậu không thuộc kiến sở đoạn (darśana-prahātavya). Tức các pháp hữu lậu còn lại, trừ kiến chấp ô nhiễm khởi lên do tà phân biệt.
(Xem: 6955)
Đa số người xưng là Phật tử mà không biết rõ đường lối tu hành, ai bày sao làm vậy, trở thành mê tín sai lầm, khiến người đời phê bình đạo Phật là huyền hoặc, là vô ích.
(Xem: 7270)
Tánh "không" (S. 'Suunyataa, P. Su~n~nataa) là một trong các học thuyết quan trọng bậc nhất của Phật giáo và cũng là học thuyết bị người khác đạo hiểu sai lầm nhiều nhất.
(Xem: 6364)
Tánh Khôngbản tánh của tất cả mọi sự vật, mọi hiện tượng, mọi hành động của thân khẩu ý, nên ở đâu trong không gian nào thời gian nào chúng ta cũng có thể nhận ra nó...
(Xem: 6720)
Nói đến Bát-nhã (Trí huệ), các luận thường phân làm ba: Bát-nhã văn tự, Bát-nhã quán chiếu, và Bát-nhã thật tướng.
(Xem: 5576)
Người Phật tử chân chính chớ nên dòm ngó lỗi người, chúng ta chỉ nên nhìn lại hành động của mình, xem đã làm được điều gì tốt đẹp hay chưa.
(Xem: 8898)
"Vậy nên này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình (atta-dipà viharatha), hãy tự mình y tựa chính mình (attàsaranà) chớ y tựa một cái gì khác.
(Xem: 7391)
Tổ Quy Sơn dạy: "Nếu mình chưa là bậc thượng lưu, vượt thẳng lên thềm vô thượng giác thì hãy để tâm vào giáo pháp, ôn tầm kinh điển, rút ra nghĩa lý tinh hoa, truyền bá tuyên dương tiếp dẫn hậu lai, trả ơn đức Phật".
(Xem: 22293)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 7787)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 6842)
Bài Pháp này nhắc nhở các bạn về một số điều Phật dạy, như một cách để sách tấn, khuyến khích các bạn chăm chỉ thực hành đúng theo lời Phật dạy.
(Xem: 15026)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 8600)
Sự hình thành và phát triển tâm lý học Phật giáo là một quá trình vừa diễn dịch vừa xây dựng kéo dài suốt hàng thế kỷ trong lịch sử truyền thừa Phật giáo kể từ thời Đức Phật.
(Xem: 13076)
Giáo lý Duyên khởi (Cái này sinh, nên cái kia sinh, cái này diệt nên cái kia diệt) là nguyên tắc chung giải thích về sự hình thành hay hủy diệt của các pháp.
(Xem: 18951)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 6004)
Phật Thích Ca sau 49 năm thuyết pháp cũng bảo những lời ta nói là thuyết lại lời cổ Phật. Khổng Tử thì nhắn nhủ hậu thế: ông chỉ truyền lời Thánh hiền không thêm bớt không sáng tạo...
(Xem: 6234)
Ở đời cái gì cũng vậy, không phải ngẫu nhiên có được, mà đòi hỏi mỗi con người chúng ta phải tự nỗ lực, tự tầm cầu, tự suy tư để tìm đến con đường giải thoát cho tự thân và tha nhân.
(Xem: 6991)
Chân lý tương đối là những sự thật còn nằm trong đối đãi đối trị nhau. Những sự đối đãi ấy là...
(Xem: 7307)
Sanh tử sự đại là một đề mục lớn của Thiền Tông, và sanh tử luân hồi là một chủ đề phổ thông của Phật Giáo. Nói đến sanh tử luân hồi thì người Phật tử nào cũng nghĩ đến việc thoát ly sanh tử luân hồi.
(Xem: 8363)
Nghiệp báo đóng một vai trò rất quan trọng trong giáo lý nhà Phật.
(Xem: 5665)
Người ta thường tìm đủ mọi cách để gán một nhãn hiệu nào đó lên các lời giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 5857)
Đã lâu, đa số thanh niên quan niệm giải thoát của đạo Phật là siêu hình huyền hoặc đâu đâu, để dành riêng cho những người chán thực tại cầu vào chốn hư vô tịch diệt.
(Xem: 5502)
Sự hiện hữu của mỗi chúng ta hiện giờ và ở đây là do, từ, bởi, nhiều nguyên nhânđiều kiện.
(Xem: 6490)
Đồng Mông Chỉ Quán là một trước tác rất hàm xúc và có hệ thống, nếu hành giả cố gắng thực hành theo "Pháp yếu tọa Thiền tu tập Chỉ Quán" này chắc chắn sẽ đạt được kết quả lớn lao.
(Xem: 5914)
Đạo Phật chủ trương giác ngộ mang ánh sáng trí tuệ soi rọi cho thế gian. Mọi lẽ thật đều hiện bày dưới ánh sáng giác ngộ,
(Xem: 7505)
Mọi chúng sinh dù là người hay là thú , dù giầu hay nghèo, già hay trẻ, không ai là có thể tồn tại lâu dài mãi mãi trong một tình trạng , mọi thứ đều sẽ phải thay đổi và xa rời đi.
(Xem: 5803)
Bốn dấu ấn tiếng Phạn gọi là caturlaksana, tiếng Pa-li là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 6718)
Đại thừa (Mahāyāna) phát triển một nhận thức mới về bản chất lịch sử của Đức Phật Śākyamuni.
(Xem: 6781)
Khi chúng ta tự gọi mình là những Phật tử, có nghĩa là chúng ta là những người đi theo Phật.
(Xem: 5720)
Phật Giáo là một tôn giáo xây dựng trên trí thông minh, khoa học và sự hiểu biết. Mục đích của tôn giáo ấy là để giúp loại trừ khổ đau và các nguyên nhân mang lại khổ đau.
(Xem: 6220)
Chúng ta học Phật, Phật dạy chúng ta hồi đầu, quy y tự tính giác. Tự tính giác tức là Phật tính. Phát Bồ đề tâm, tu Bồ Tát hạnh...
(Xem: 5510)
Phật pháp là những điều đức Phật chứng kiến được sau khi giác ngộ, đem chỗ chứng kiến ấy nói lại để cho mọi người hiểu biết để dứt sạch mê lầmgiác ngộ
(Xem: 7124)
Ý niệm về nghiệp hữu lý trên nhiều phương diện, nhưng một số người đã hiểu lầm về nghiệp.
(Xem: 6087)
Khả năng thích ứng tuyệt vời của Phật giáo đã giúp Phật giáo hội nhập với các nền văn hoá khác.
(Xem: 7916)
Bụt là thầy chỉ đạo Bậc tỉnh thức vẹn toàn Tướng tốt đoan trang Trí và bi viên mãn.
(Xem: 6067)
Người có tuệ giác biết nhìn thẳng vào sự thậtchấp nhận sự thật ấy dù đau thương rồi nỗ lực chuyển hóa, thăng hoa.
(Xem: 7110)
Đạo Phậtđạo từ bi và hành động thiết thực của nó mang đến sự an vui, bình yên cho tất cả chúng sinh.
(Xem: 6951)
Ai có thể hàng phục được mười tám giới: sáu căn, sáu trần, và sáu thức, khiến chúng đừng tạo phản thì người đó chính là Bồ Tát.
(Xem: 7002)
Trong Phật giáo, các từ ngữ "cầu nguyện," "cầu xin" hay "ước nguyện" được hiểu đồng nghĩa với thuật ngữ "pràrthanà" (Sanskrit) hay "patthanà" (Pali).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant