Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

02 - Nói Về Thiền

28 Tháng Bảy 201300:00(Xem: 4512)
02 - Nói Về Thiền

PHẬT PHÁP TẠI THẾ GIAN - Tập 2

H.T Thích Thanh Từ

NÓI VỀ THIỀN

 Giảng tại Đạo tràng Chơn Như Pennsylvania

Hoa Kỳ - 2002

Đây là lần đầu tiên tôi tới thăm đạo tràng Chơn Như, Phật tử tuy không nhiều nhưng cũng có thiện tâm đối với đạo. Để quí vị hiểu và ứng dụng tu tập dễ dàng, hôm nay tôi sẽ nói về chủ trương tu thiền do chúng tôi hướng dẫn Tăng Ni, Phật tử tu tập.

Hồi xưa đọc sử Phật tôi rất nghi ngờ. Tại sao đức Phật có tâm đại từ đại bi, ra đời cứu độ chúng sanh nhưng khi ngộ đạo dưới cội bồ-đề rồi, Ngài trù trừ không muốn đi giảng dạy. Khi chư thiên xuống yêu cầu thuyết pháp, Ngài bảo: “Vì cái thấy của ta nói ra mọi người không thể hiểu được, cho nên ta không muốn nói.” Chư thiên đôi ba phen nài nỉ, cuối cùng Phật mới đồng ý dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh.

Đầu tiên Ngài đến vườn Lộc Uyển giảng pháp Tứ đế cho năm anh em Kiều-trần-như nghe và từ đó bắt đầu có Tăng đoàn. Chư Tỳ-kheo nào tu đúng pháp Tứ đế Phật dạy sẽ chứng được quả A-la-hán, tức quả vô sanh, không còn sanh trở lại nữa. Đó là tu theo thiền Nguyên thủy. Sau này chư Tổ dạy tu thiền theo tinh thần Phật truyền tâm ấn cho Tổ Ca-diếp trên hội Linh Sơn.

Một hôm nọ, trên hội Linh Sơn đức Phật cầm cành hoa sen đưa lên rồi nhìn khắp hội chúng, ai cũng ngơ ngác. Khi nhìn tới Ca-diếp, ngài Ca-diếp liền mỉm cười. Phật mới bảo: “Ta có Chánh pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, hôm nay trao cho Ca-diếp.” Như vậy là Phật ấn chứng cho ngài Ca-diếp làm Tổ thứ nhất ở Ấn Độ.

Trong hội, Phật đưa cành hoa sen lên không nói một lời, nhìn từng người. Tới ngài Ca-diếp, Tôn giả mỉm cười liền được Phật truyền tâm ấn. Có lạ chưa? Người ta không hiểu đức Phật dạy cái gì cho ngài Ca-diếp. Sau này, khi đức Phật nhập Niết-bàn rồi, một hôm A-nan hỏi ngài Ca-diếp: “Thưa Sư huynh, đức Thế Tôn truyền y bát cho Sư huynh, còn có truyền cái gì riêng không?” Lúc đó, ngài Ca-diếp liền gọi: “A-nan!” A-nan: “Dạ.” Ngài Ca-diếp nói: “Cây phướn trước chùa ngã.” Ngay đó ngài A-nan liền ngộ. Lạ chưa!

Đó là hệ thống Thiền tông truyền từ Tổ Ca-diếp đến Tổ A-nan, sau này Tổ thứ hai mươi tám là Bồ-đề-đạt-ma truyền sang Trung Hoa. Khi đến Trung Hoa, Tổ Đạt-ma gặp vua Lương Võ Đế, nói chuyện không thông cảm, nên Tổ đến chùa Thiếu Lâm ngồi xây mặt vào vách chín năm. Sau đó có một vị Tăng tên Thần Quang đến cầu học.

Thần Quang thấy Tổ ngồi xây mặt vào vách không nói năng gì hết, nên đứng ở ngoài trời suốt đêm chờ đợi. Đêm đó mùa đông tuyết xuống tới đầu gối, Ngài vẫn đứng thản nhiên. Đến sáng Tổ Đạt-ma xoay đầu ra nhìn thấy, mới hỏi: “Ngươi đứng suốt đêm trong tuyết, ý muốn cầu việc gì?” Thần Quang thưa: “Cúi mong Hòa thượng từ bi mở cửa cam lồ rộng độ chúng con.” Tổ quở: “Diệu đạo vô thượng của chư Phật dù nhiều kiếp tinh tấn, hay làm được việc khó làm, hay nhẫn được việc khó nhẫn, còn không thể đến thay! Huống là dùng chút công lao nhỏ này mà cầu được pháp chân thừa.”

Sử nói ngài Thần Quang nghe thế liền xuống nhà bếp mượn dao chặt một cánh tay dâng lên Tổ, để tỏ lòng thiết tha cầu đạo. Tổ khen “khá đó” nên đổi tên là Huệ Khả. Tôi cho rằng đây là yếu tố khích lệ người muốn cầu đạo phải quên mình, không tiếc thân mạng mới cầu đạo được, chớ không thể sơ sài mà cầu được. Có thể đó là hình ảnh tượng trưng, còn sự thật thì không biết thực hư thế nào. Nhưng vì sử nói sao chúng ta ghi nhận như vậy, không dám nói khác.

Một hôm ngài Huệ Khả hỏi Tổ Đạt-ma: “Bạch Hòa thượng, tâm con không an, xin Hòa thượng dạy con pháp an tâm.” Tổ Đạt-ma bảo: “Đem tâm ra ta an cho.” Ngài Huệ Khả sửng sốt tìm lại xem tâm bất an ở đâu, tìm hoài không thấy liền bạch: “Bạch Hòa thượng, con tìm tâm không được.” Tổ bảo: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi.” Ngay đó ngài Huệ Khả biết lối tu.

Đó là vấn đề lâu nay nhiều người thắc mắc. Tại sao Tổ nói việc quan trọng một cách đơn giản, nói như đùa vậy? Thật ra câu nói của Tổ hết sức quan trọng. Khi bảo đem tâm ra, ngài Thần Quang quay lại tìm tâm xem nó ở đâu, nhưng tìm thì nó mất. Ngài bạch một cách thật thà “con tìm tâm không được”, Tổ bảo “ta đã an tâm cho ngươi rồi”. Vậy pháp an tâm là pháp gì? Trong nhà thiền thường dùng từ “không có một pháp cho người”, nên gọi là giáo ngoại biệt truyền. Phật tử cũng như đa số người nghe điều này thì sửng sốt, không biết Tổ Đạt-ma dạy pháp gì mà ngài Huệ Khả nhận được và biết tu?

Thật ra, dạy thiền có nhiều lối. Như lối Tứ đế mà Phật đã dạy trước, tu thiền bằng pháp quán Tứ niệm xứ của Nguyên thủy: quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã. Quán mãi cho tới khi nào tâm không còn dấy động nữa thì được định. Quán như vậy, từ từ trải qua các địa vị tu chứng: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền.

Sơ thiềnLy sanh hỉ lạc, tức lìa tham dục mà được vui vẻ. Nhị thiền là Định sanh hỉ lạc tức tâm an định sanh hỉ lạc. Tam thiền là Ly hỉ diệu lạc tức lìa vui thô để được vui nhẹ nhàng, mầu nhiệm hơn. Tứ thiền là Xả niệm thanh tịnh tức buông hết các niệm để tâm thanh tịnh. Tới đó rồi, nếu khéo tu đúng pháp thì chuyển qua Tứ đế, chứng A-la-hán. Nếu tu quanh một chút thì qua bốn thứ Không: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, còn gọi là Tứ không, cuối cùng đi tới Diệt tận định, nghĩa là dứt hết thọ và tưởng do sáu căn tiếp xúc với sáu trần, chứng A-la-hán. Như vậy con đường đó trải qua thời gian rất dài, chớ không đơn giản.

 Ở đây hình ảnh Phật đưa cành hoa lên, Tổ Ca-diếp nhìn, hai thầy trò thông cảm liền được ấn chứng. Cũng như Tổ Đạt-ma bảo “đem tâm ra ta an cho”, Huệ Khả trả lời “con tìm tâm không được”, Tổ Đạt-ma liền nói “ta an tâm cho ngươi rồi”. Ngay đó Huệ Khả liền biết lối tu. Như vậy là sao? Thiền tông là lối chỉ thẳng không qua phương pháp. Tu theo thiền Nguyên thủyphương pháp từ một tới hai… đi lần lên tới cuối cùng chứng A-la-hán. Còn Thiền tông đi thẳng, do đi thẳng nên không dễ.

Tôi dạy tu thiềnngồi yên niệm dấy lên biết nó hư dối bỏ, không theo. Lối tu đó gọi là phản quan tự kỷ, tức nhìn thẳng lại chính mình. Vị nào có nghiên cứu thiền sẽ hiểu, trong mười mục chăn trâu ý nghĩa rất đầy đủ rõ ràng. Giai đoạn đầu mục đồng muốn tìm trâu mà không biết trâu ở đâu, nên tìm đây tìm kia. Anh chăn trâu biểu trưng cho Trí tuệ Bát-nhã, con trâu biểu trưng cho tâm dấy động.

Tâm dấy động lên nghĩ tốt nghĩ xấu, nghĩ hơn nghĩ thua… chúng ta cho đó là tâm mình. Nó là bóng dáng sanh diệt, chớ không phải Tâm chân thật. Cho nên khi Tổ bảo đem tâm ra ta an cho, ngài Huệ Khả xoay lại tìm thì nó mất, nếu thật nó phải còn. Tìm lại mất, nên biết nó chỉ là bóng không thật, luôn sanh diệt. Nghĩ tốt nghĩ xấu, nghĩ phải nghĩ quấy, nghĩ hơn nghĩ thua, tất cả cái nghĩ đó là nhân tạo nghiệp. Nghĩ tốt thì làm lành, nghĩ xấu thì làm dữ, tức là tạo nghiệp lành, nghiệp dữ.

Tất cả nghĩ suy chỉ là giả dối, lâu nay chúng ta lầm cho nó là tâm mình. Tổ không muốn nói quanh co, bảo đem tâm ra ta an cho. Tâm đó nếu thật, tìm sẽ thấy. Nhưng tìm nó mất, mất tức là an rồi. Vậy an tâm bằng cách nhìn thẳng lại tâm sanh diệt, nhìn thẳng nó mất, đó là an tâm mà không có phương pháp nào cả.

Tu như vậy dễ hay khó? - Khó. Nên người tu Thiền tông như người qua cầu không có tay vịn, không có chỗ để mình bám níu nên dễ té. Tổ nói: “trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”, chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật. Khi chúng ta nhìn thấy niệm khởi, buông cho nó lặng đi. Nó khởi mình thấy, nó lặng mình biết, cái gì thấy biết nó? Rõ ràng có cái ngầm ở trong, không phải nghĩ suy mà thường biết, không thiếu vắng lúc nào cả, đó là tâm thật của mình.

Chúng ta cả đời cứ ngỡ cái nghĩ suy là tâm mình, đó là mê lầm. Từ sự mê lầm ấy tạo nghiệp luân hồi. Bây giờ thấy rõ nó hư dối không thật, không theo nó, tức chúng ta đã tỉnh rồi. Cái biết không theo vọng tưởng đâu có mất, nếu mất thì niệm sau dấy lên nó đâu có biết. Như vậy trong chúng ta còn có một cái ngầm, cái ngầm đó là chú chăn trâu. Thằng chăn biết tìm trâu.

Gặp trâu rồi nó làm gì nữa? Nó dùng dây, dùng roi cột trâu lại, xỏ mũi trâu, kềm chế trâu. Kềm chế tới khi nào con trâu hiền hòa mới nhẹ nhàng, tuy hiền nhưng chưa phải rồi việc. Từ từ trâu mất tiêu, thằng chăn cũng không còn mới được. Cả một con đường tu cụ thể vô cùng. Khi chúng ta dùng thằng chăn là dùng Trí tuệ Bát-nhã ruồng phá mê lầm, buông cái chấp tâm suy nghĩ là thật. Khi buông được rồi, lần lần nó đầu hàng mình, từ đó sự tu rất nhẹ nhàng. Đến chừng nó mất luôn tâm hoàn toàn an định, bấy giờ trí Bát-nhã cũng hết dùng. Cho nên con trâu mất thằng chăn cũng mất luôn. Chỗ này là một vòng tròn trống không trong mười bức tranh Thiền tông. Đến đây cũng gọi là đầu sào trăm trượng, cần phải nhảy qua nữa. Vì nếu chấp ngang đó là cứu kính thì mắc kẹt. Nên phải bước qua mục thứ chín “lá rụng về cội, chim bay về tổ”, đó là thể nhập Pháp thân. Thể nhập Pháp thân rồi, sau đó mới có Ứng Hóa thân để giáo hóa chúng sanh. Ứng thânbức tranh số mười, một ông già tay cầm cá chép tay xách bầu rượu đi vào xóm làng.

Thiền tông khác thiền Nguyên thủy ở chỗ tới vô sanh tức Niết-bàn, là chỗ không còn chăn không còn trâu. Thiền Nguyên thủy tới đây thấy yên lòng, an trú trong Niết-bàn không sanh không tử, nhưng không thể nhập Pháp thân để có Báo thân, Ứng Hóa thân. Không có đủ ba thân thì không độ sanh được, nên Phật giáo Đại thừa phải tu tiến lên tới quả vị toàn giác viên mãnthể nhập Pháp thân, dùng Ứng Hóa thân cứu độ chúng sanh mới được. Nếu tu tới Diệt tận định, an trú Niết-bàn thì chưa lợi ích chúng sanh đầy đủ. Phật dạy chúng ta tu phải tự giác rồi giác tha, hai việc này viên mãn mới gọi là Phật. Nếu chỉ tự giác rồi dừng ngang đó thì gọi là A-la-hán, không phải Phật.

Nơi chúng ta có sẵn cái biết ở mắt, ở tai, ở mũi, ở lưỡi, ở thân, ở ý. Cái biết đó hằng hữu thường còn mà chúng ta không nhớ nó. Như bây giờ tôi đưa tay lên quí vị thấy không? - Thấy. Để tay xuống thấy không? Hầu hết đều nói không thấy. Phật quở như thế là quên mình theo vật. Tại sao? Vì cái thấy là của mình, tay là vật bên ngoài. Tay để xuống thì thấy không tay, chớ đâu phải không thấy. Nếu nói không thấy hóa ra chúng ta mù sao! Thế mà cả thế gian này đều lầm như vậy.

Khi đức Phật đưa cành hoa lên, rồi Ngài nhìn khắp đại chúng, tới khi mắt Phật chạm mắt ngài Ca-diếp, Tôn giả mỉm cười, đó là Ngài nhận ra được tánh hay thấy của mình. Phật liền ấn chứng cho Ca-diếp. Tánh hay thấy người nào cũng có sẵn hết, nhưng muốn chỉ cái thật đó rất khó, vì nó không hình tướng cũng không diễn tả bằng lời được. Khi ngài Ca-diếp nhận được tánh thật rồi, Phật liền nói “ta có chánh pháp nhãn tạng”, tức kho chánh pháp ở con mắt, truyền cho Ca-diếp. Nói truyền mà không có gì để truyền cả, vì cái đó sẵn có nơi ngài Ca-diếp rồi. Chỉ cần Ngài nhận được là xong.

Sau đó ngài A-nan hỏi ngài Ca-diếp “Thế Tôn có truyền cho Sư huynh cái gì ngoài y bát không”, ngài Ca-diếp kêu “A-nan”, A-nan liền “dạ”. Ngài Ca-diếp nói “cây phướn trước chùa ngã”. Sự thật không phải ý ở câu nói “cây phướn trước chùa ngã”, mà chính là chỗ kêu liền dạ. Cái nghe có sẵn hay phải đợi tiếng mới có? - Có sẵn. Vừa kêu A-nan liền dạ, có suy nghĩ không? Không một niệm nào mà vẫn biết rõ ràng, cái biết đó mới chân thật. Còn nghĩ suy mà biết thì cái biết đó sanh diệt, không phải cái biết chân thật của mình. Phật Tổ chỉ hết sức giản đơn, phương pháp này gọi là đi tắt, đi đường thẳng tức không có một pháp nào. Tự mình nhận ra cái nghe, cái thấy, chớ không có pháp nào trong ấy cả.

Tới ngài Huệ Khả nói “tâm không an” tức chỉ cho ý niệm lăng xăng. Tổ Đạt-ma bảo “đem tâm ra ta an cho”, ngài Huệ Khả tìm không được, Tổ Đạt-ma bảo “ta an tâm cho ngươi rồi”. Ý niệm đó không thật, nếu nhìn thì mất, mất là an tâm. Như vậy những phân biệt ở mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều là sanh diệt, còn cái thật chúng ta lại không nhận ra, không biết. Có mà không biết nên gọi là mê.

Bây giờ nhận được mình có cái thật rồi, chúng ta phải trở về tu cho tới nơi tới chốn. Từ “phản quan” là nhìn lại mình, nhìn lại để thấy rõ nội tâm. Cái biết nghĩ suy phân biệt chỉ là giả ảo, cái biết chân thật hiện tiền mới là thật của mình. Khi theo cái biết giả ảo thì cái biết chân thật bị khuất lấp. Ngài Thần Hội dùng ví dụ hết sức rõ để nói lên điều này.

Như chúng ta nhìn vào gương thấy bóng mình bóng người, lúc đó có thấy cái gương không? Thấy bóng thì quên gương, vì chỉ lo chạy theo bóng nên quên gương. Khi nhìn vào gương không thấy bóng nào, lúc đó mới thấy nguyên hình của gương. Cũng vậy, người tu Phật dừng tâm lăng xăng, thì cái chân thật hiện tiền. Ngược lại chúng ta cứ chạy theo tâm niệm lăng xăng thì sẽ quên cái chân thật. Cho nên pháp tu nào của đạo Phật cũng yêu cầu hành giả phải định, phải dừng lặng hết mọi tâm niệm lăng xăng.

Ví dụ tu pháp niệm Phật, chừng nào niệm được nhất tâm bất loạn, tức là tâm không còn nghĩ hai, nghĩ ba nữa. Khi đã định thì nhắm mắt thấy Phật A-di-đà đến rước. Tu thiền thì định, như thiền Nguyên thủy tới Diệt tận định là sạch hết thọ tưởng. Ở đây Phật chỉ cho ngài Ca-diếp cái thẳng nhất, gần nhất nhưng khó nhận nhất.

Chúng ta có một cái thật mà không nhớ. Hiện giờ quí Phật tử nhớ cái gì? Một là nhớ thân này thật, hai là cho tâm suy nghĩ thật. Chỉ hai thứ đó thôi, ngoài ra không biết tới cái nào nữa hết. Cho thân này thật, mà không bảo đảm được mạng sống của mình. Phật dạy mạng sống trong hơi thở, thở khì ra không hít vô là chết ngay. Nếu thân thật thì phải lâu dài nguyên vẹn. Đằng này mạng sống chỉ trong tích tắc đồng hồ, vậy mà nói thật là quá mê lầm.

Thân không thật chúng ta biết rõ nó không thật, đó là giác. Nó không thật mà ngỡ thật là mê. Thế nên Phật nói chúng sanh si mê đáng thương. Khi thấy thân thật thì muốn ăn ngon, mặc đẹp, muốn thụ hưởng hơn người. Muốn không được, bị ai ngăn trở thì nổi giận. Muốn là tham. Tham không được thì sân. Từ si mà khởi tham, cho nên trong ba thứ tham sân si thì si dẫn đầu. Nếu nói đúng, phải nói si tham sân.

Khi thấy thân không thật, sẽ dẹp được bệnh tham. Thân không thật nên được cũng tốt, không được cũng không sao, không tham gì hết. Nếu thấy thân thật nhất định phải tham. Tham nhỏ thì cá nhân tham món này, món nọ. Tham lớn thì giành giựt đất đai với thiên hạ, xảy ra chiến tranh đủ thứ hết. Gốc từ mê lầm đưa tới đau khổ, vậy mà chúng sanh cứ trầm luân mãi mãi không cùng trong ấy. Không còn tham thì đâu có sân. Biết rõ thân không thật là giác, chớ đâu có mê. Như vậy giác dễ hay khó, xa hay gần? Dễ như trở bàn tay, để xuống là úp, lật lên là ngửa. Thấy thân thật là mê, nhận ra giả là giác. Tốn bao nhiêu công? Mau như trở bàn tay. Đó là một lẽ thật. Thấy đúng thì không tham sân si. Thấy sai thì tham sân si đầy đủ. Rõ ràng giá trị của người tu là phải giác.

Giác được thân này rồi, tới giác tâm suy nghĩ hơn thua phải quấy cũng không thật. Khi chúng ta suy nghĩ một vấn đề cho là đúng, có ai cãi lại mình giận không? Nổi tức lên liền. Nhưng đặt câu hỏi lại, tất cả cái nghĩ của mình có đúng trăm phần trăm không? - Không. Không đúng sao bắt người ta nghe! Từ sai lầm đó đưa tới độc tài, từ độc tài sanh ra đấu tranh. Nhóm này nghĩ đúng thế này, nhóm khác nghĩ đúng thế khác. Hai cái đúng đụng nhau, sanh ra tranh đấu dẫn tới khổ đau. Tóm lại giành nhau vật chất vì thấy thân thật là gốc của khổ đau. Giành nhau cái tâm phải quấy cũng là gốc khổ đau.

Khi biết được thân không thật, tâm suy nghĩ không thật, lúc đó chúng ta nhận ra một cái biết thường hằng. Phút giây nào quí vị ngồi yên lại không nghĩ suy gì hết, lúc đó có biết không? Cái biết đó hình dáng ra sao, có động không? Không hình dáng, không động nên không sanh diệt. Có người sẽ thắc mắc nếu thấy tâm suy nghĩ hư giả, thân hư giả thì đâu còn thương ai, giúp ai, đâu còn hăng hái làm việc gì? Như vậy đạo Phật đưa người ta tới bi quan. Không phải vậy.

Con người cứ nghĩ sống tốt theo thế gianlạc quan, nhưng thật ra cái tốt đó còn giới hạn nhiều lắm. Ví dụ như Phật tử thấy người ta nghèo khổ, quí vị xuất ra một số tiền giúp đỡ, nhưng họ không cám ơn. Lúc đó buồn không? Giận nữa, chớ không chỉ buồn. Ai làm việc tốt cũng muốn người khác biết điều trở lại. Trao qua trả lại rõ ràng, chớ chẳng chịu làm không. Cái tốt của thế gian bị hạn chế ở chỗ chấp thân này thật, tâm này thật nên không hẳn sẽ đem hết hạnh phúc an vui cho mọi người.

Bây giờ Phật tử thấy thân mình không thật, người không thật, nhưng mọi người chung quanh còn chấp thân thật, tâm thật; thấy như vậy Phật tử có thương những người kia không? Một người tỉnh có thương người mê không? - Thương. Cũng thế, đức Phật giác ngộ rồi càng thương tất cả chúng sanh, thương mà không đòi hỏi gì hết. Chúng sanh mê nên bỏ cái thật đuổi theo cái giả. Phật thấy được mới đem hết lòng từ bi chỉ dạy cho.

Chúng sanh cứ chấp nhận đi trong mê làm sao giác được. Chúng ta cứ theo dòng mê thì phải trôi lăn mãi. Ai tỉnh giác mới qua khỏi trầm luân và cứu người còn mê cùng qua khỏi trầm luân. Đạo Phật là đạo giác ngộ, đặt sự giác ngộ lên trên tất cả. Không nên nói rằng theo đạo Phật chỉ làm tất cả việc thiện mới đúng tinh thần Phật dạy. Đành rằng làm thiện là tốt là từ bi, nhưng việc ấy chỉ được một phần thôi. Giúp cho mọi người giác ngộ mới là trên hết. Cho nên giữa bố thí tài và bố thí pháp thì bố thí pháp là hơn.

Thế kỷ thứ 13 ở Việt Nam có vua Trần Nhân Tông, lúc còn là Thái tử đã được vua cha cho học thiền với Tuệ Trung Thượng Sĩ. Khi trở về chuẩn bị lên ngôi vua, Ngài hỏi thầy: “Bổn phận chính của người tu thiền là gì?” Tuệ Trung Thượng Sĩ đáp: “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.” Phản quan là nhìn sâu lại mình, đó là phận sự chánh chớ không từ ngoài mà được.

Như vậy hệ thống Thiền tông từ Ấn Độ tới Trung Hoa sang Việt Nam không khác nhau. Bên Trung Hoa Tổ dạy “đem tâm ra ta an cho”, ở Việt Nam Thượng Sĩ bảo “phản quan tự kỷ” cũng là xoay lại mình. Tìm lại mình để được an tâm, đó là phận sự chánh. Đây chính là gốc của người tu thiền. Tất cả pháp tu Phật đều nhắm thẳng trở về cái thật, chúng ta không biết cứ tìm kiếm nơi này, nơi kia. Nói tới tu thiền là nói tới con đường Phật chỉ ra, chư Tổ nối tiếp, truyền đến chúng ta ngày nay. Con đường đó là con đường thẳng, không có phương tiện.

Trong kinh thường nói giáo pháp của Phật là những phương thuốc để trị bệnh chúng sanh. Nếu bệnh lành thì thuốc cũng phải ngưng. Bệnh lành mà thấy thuốc hay quá, uống hoài thì sẽ chết. Giáo pháp của Phật như chiếc bè đưa người qua sông, tới bờ phải bỏ bè. Hoặc như kinh Viên Giác nói, giáo pháp của Phật như ngón tay chỉ mặt trăng. Khi thấy mặt trăng thì ngón tay không cần nữa. Tất cả phương pháp đều là phương tiện, cứu kính là chỉ thẳng.

Chỉ thẳng rất giản đơn nhưng chúng ta lại thấy dường như bí mật, khó hiểu. Nhà thiền nói “trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”, tức chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật. Tánh là cái sẵn của mình. Cái biết sẵn của mình gọi là Tánh giác, nó luôn có mà chúng ta quên. Vua Trần Nhân Tông sau khi ngộ được yếu chỉ đó, Ngài có làm bài phú “Phú Cư Trần Lạc Đạo” gồm mười hội bằng văn Nôm, nhưng kết thúc với bốn câu thơ chữ Hán:

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc san hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.

Dịch:

Ở đời vui đạo hãy tùy duyên,
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền,
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,
Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.

Nghĩa là người ở trong cõi trần mà muốn vui với đạo thì phải tùy duyên. Hai chữ tùy duyên này khó hiểu được hết ý nghĩa của nó. Tùy duyên là sao? Đói đến thì ăn mệt ngủ liền. Có người đói không chịu ăn, mệt không chịu ngủ vì họ không biết tùy duyên. Như người quen ăn có tiêu có ớt, hôm nào thiếu tiêu ớt thì không chịu ăn. Quí vị nam quen bữa cơm phải có ly rượu, hôm nào thiếu cũng ăn không được. Đó là không biết tùy duyên. Nói xa hơn nữa, đối với tất cả hoàn cảnh xảy đến với mình, chúng ta linh động sống không lo âu sầu muộn, đó là tùy duyên. Nếu cảnh đến mình buồn, phải nghĩ, phải lo sợ, đó là chưa biết tùy duyên. Quí vị mệt có dễ ngủ không? Mệt mà chuyện gì hôm qua chưa giải quyết xong, nằm lăn qua trở lại không chịu ngủ. Đó là không biết tùy duyên.

Trong nhà có của báu đừng tìm kiếm ở đâu. Chúng ta sẵn có Tánh giác nơi mình, Tánh giác đó là Phật. Đừng tìm Phật ở trên trời trên mây, trên non trên núi, mà phải quay lại tìm nơi mình, nên Ngài nói trong nhà có báu thôi tìm kiếm. Chúng ta muốn tu thiền phải làm sao? Sáu căn đối với sáu trần không vướng mắc, đó là thiền rồi. Có vướng mắc là có chạy theo. Bây giờ đối cảnh thấy đẹp cũng không dính, thấy xấu cũng không bực bội, đó là đang thiền. Như vậy thiền rất là đơn giản.

Lục tổ Huệ Năng một hôm nghe kinh Kim Cang, tới chỗ ngài Tu-bồ-đề hỏi Phật: “Người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác làm sao hàng phục tâm, làm sao an trụ tâm?” Phật nói muốn hàng phục tâm phải không có ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Ngã là mình, nhân là người, chúng sanh là tất cả mọi loài, thọ giả là mạng sống. Thấy mình không thật, người không thật, chúng sanh không thật, mạng sống không thật, đó là hàng phục được tâm. Còn muốn an trụ tâm, Phật dạy “bất ưng trụ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, nghĩa là đối với sáu trần không dính mắc sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp trần, đó là an trụ tâm. Nghe tới câu này Lục tổ Huệ Năng ngộ ngay, Ngài nói: “Đâu ngờ tâm mình xưa nay thanh tịnh, đâu ngờ tâm mình vốn không sanh diệt, đâu ngờ tâm mình vốn không dao động, đâu ngờ tâm mình vốn tự đầy đủ, đâu ngờ tâm mình hay sanh muôn pháp.”

Tu thiền là không chạy tìm kiếm ở đâu mà phải quay lại mình, quay lại mình để giác. Muốn giác trước hết phải biết thân giả, vọng niệm giả thì mới buông được. Nếu không biết nó giả làm sao buông? Cho nên người tu thiền cần có Trí tuệ Bát-nhã. Trong nhà thiền thường hay dùng cây kiếm trí tuệ để ruồng phá, việc tu mới tới nơi tới chốn. Không có Trí tuệ Bát-nhã, chúng ta buông cái này kẹt cái kia, không thể nào ra khỏi.

Trên đường tu, ai cũng muốn giác ngộ, nên cứ đi tìm minh sư nào đó chỉ cho mình thuật gì để giác ngộ. Sự thật, giác ngộ không phải ở đâu, mà chính mình chuyển cái nhìn của mình. Từ cái thấy sai lầm chuyển thành cái thấy đúng như thậtgiác ngộ. Chúng ta có đủ thẩm quyền giác ngộ hay bị ma quỉ che lấp? Ma quỉ che lấp hay vì mình không thấy đúng lẽ thật, rồi bị cảnh trần lôi? Tất cả đều do mình thôi. Khi đã thấy đúng lẽ thật, cảnh trần nào lôi được ta nữa.

Trong kinh Lăng Nghiêm Phật dùng ví dụ chàng Diễn-nhã-đạt-đa, buổi sáng soi gương thấy mặt mày trong gương tốt đẹp. Anh úp gương xuống thấy mặt trong gương mất, liền ôm đầu chạy la “tôi mất đầu rồi, tôi mất đầu rồi”. Chúng ta có giống anh ấy không? Khi suy nghĩ nói tôi suy nghĩ, hết suy nghĩ nói tôi không suy nghĩ, tức không có tôi. Đó là lầm lẫn giống chàng Diễn-nhã-đạt-đa. Chúng ta nhìn bóng rồi kẹt bóng, cho bóng là thật nên quên gương. Cho bóng là thật và quên cái thật, đó là kẻ điên. Chúng ta cũng giống vậy, chạy theo thân tâm hư giả cho là thật, quên mất Tâm chân thật của chính mình, nên nói là mê. Người tu Phật phải nhìn thấu đáo, biết tường tận mới đi tới chỗ đạt đạo không khó.

Trong kinh Pháp Hoa, Phật dùng ví dụ anh chàng nghèo gặp người bạn giàu dẫn về nhà đãi rượu chè. Khi anh nghèo đã say, người bạn giàu có việc đi xa, mới lấy hòn ngọc quí nhét trong túi anh nhà nghèo, khi nào tỉnh anh ta lấy ra xài sẽ hết nghèo. Nhưng tỉnh dậy anh nghèo vẫn đi ăn mày vì không biết trong túi áo mình có hòn ngọc quí. Sau anh bạn giàu gặp lại hỏi “tôi cho anh hòn ngọc quí, sao không lấy ra xài mà còn đi ăn mày”, anh nghèo nghe vậy bèn thò tay vô túi lấy hòn ngọc quí. Từ đó anh trở nên giàu sang, không còn nghèo khổ nữa. Ví dụ này muốn nói trong nhà chúng ta có báu, thôi tìm kiếm ở bên ngoài. Chỉ cần nhớ và lấy ra thì có sẵn, không phải nhọc nhằn chạy đâu hết.

Chúng ta tu cốt làm sao tự mình đi tới chỗ giác ngộ, không ai giác ngộ cho ta được. Giác ngộ rồi thì không tạo nghiệp nữa, tức là giải thoát sanh tử. Nhiều người học Phật nghe nói giác ngộ, giải thoát không biết cái nào trước, cái nào sau. Thật ra có giác ngộ mới giải thoát. Nếu mê lầm thì khó giải thoát được. Phật tử bây giờ mê nhiều hay giác nhiều? - Mê nhiều. Sao lại chịu mê vậy! Chúng ta học Phật, tu Phật phải khéo tỉnh giác. Nếu tỉnh giác rồi sẽ đi tới quả vị Phật không khó.

Chúng ta tu theo Phật gọi là Phật tử, chớ không gọi tín đồ. Tín là tin, đồ là nhóm người. Tín đồ là nhóm người tin. Chúng ta đến với đạo Phật bằng trí tuệ chớ không phải bằng lòng tin, nên gọi là Phật tử. Phật là giác, tử là con. Phật tử là con bậc giác ngộ, không phải tín đồ, không phải tin để cầu xin, lâu nay chúng ta không phân biệt điều này. Ở Phật tử thì giác nhỏ, giác chút ít, lần lên đến Bồ-tát thì giác nhiều hơn, giác từng phần gọi là phần giác. Đến Phật là giác ngộ viên mãn. Ở địa vị nào cũng lấy giác ngộ làm căn bản. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy giá trị thật của đạo Phật.

Mong tất cả quí Phật tử nghe pháp, suy gẫm thật kỹ để hiểu đạo Phật đúng như đạo Phật. Hiểu đúng mới ứng dụng đúng, ứng dụng đúng mới thấy giá trịlợi ích lớn lao của đạo Phật. Có thế mới xứng đáng là đệ tử Phật.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8235)
Đạo Phật trên ý nghĩa thiết yếu là “biện chứng giải thoát” hay là con đường gỉai thoát. Gỉai thoát khỏi khổ đau, sinh tử luân hồi.
(Xem: 7491)
Lâu nay mình đã sống trọn vẹn hết thời giờ chưa? Mình có để lãng phí thời giờ hay không? Và bằng cách nào để chúng ta sống một cách có ý nghĩa?
(Xem: 8530)
Hai chữ “Sinh Tử” đã khiến cho biết bao nhiêu người bất kể trí ngu giàu nghèo từ xưa đến nay đều phải lưu ý tới và khổ tâm vì nó.
(Xem: 7068)
Những gì có mang một tính chất riêng (svalakṣaṇa) đều được gọi là pháp (dharma): “svalakṣaṇadhāraṇād dharmaḥ”[1], tức do duy trì yếu tính của tự thân nên nó được gọi là Pháp.
(Xem: 8320)
Đối với Phật giáo mỗi người làm chủ lấy vận mạng của chính mình. Mỗi chúng ta đều mang trong mình một tiềm năng ngang nhau...
(Xem: 7624)
Đạt được cơ sở con người, cơ sở đó giống như một cái bình thật quý và hiếm hoi, giúp ta có thể giải thoát tất cả kẻ khác và cho cả chính ta
(Xem: 6932)
Như Lai hay Như Khứ là dịch nghĩa của từ Sanskrit: Tathāgata, được ghép từ hai yếu tố là tathā và Agata hoặc tathā và gata.
(Xem: 8150)
TA THƯỜNG NGHE NÓI rằng thật khó tìm được một thân người. Không phải là bất kỳ thân người nào mà là một thân người “quý báu” có nối kết với Giáo pháp – đó chính là điều khó đạt được.
(Xem: 9154)
Đọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, người ta thường thấy câu thành ngữ “Buông đao đồ tể, lập tức thành Phật”.
(Xem: 7847)
Thuật từ Uẩn 蘊, ngữ nguyên Sanskrit là skandha, Pāli là khandha, Hán phiên âm, Tắc-kiện-đà 塞健陀, dịch là tích tụ, loại biệt, tức là năm loại khác nhau về các pháp hữu vi.
(Xem: 8341)
“Bạn có nghĩ rằng hôm nay chỉ là một ngày nữa của đời mình chăng? Thật ra hôm nay không phải chỉ là ‘một ngày nữa’ thôi, mà nó là một ngày được riêng dâng tặng cho bạn.
(Xem: 7989)
Phật dạy chúng ta hãy đem chánh niệm vào tất cả những việc mình làm trong đời sống hằng ngày. Ngài không bỏ ra ngoài bất cứ một việc làm nhỏ nhặt nào hết...
(Xem: 9520)
Những lời khuyên thiết thực, thâm sâutrong sáng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, chỉ cho ta cách tu tập giúp biến cải tâm linh ta, biến ta thành một con người cao cả hơn...
(Xem: 6706)
Trong cuộc sống, chúng ta thường dùng lời nói để trao đổi thông tin, để diễn đạt ý tưởng hoặc để bày tỏ, biểu lộ tâm tư tình cảm của mình…
(Xem: 6746)
Đức Phậtlòng từ bi mà thương xót chúng sinh, nên đã chỉ ra nỗi khổ, niềm đau, chỉ dạy phương pháp dứt khổ, để chúng ta cùng được sống trong bình yên, hạnh phúc.
(Xem: 6959)
Hộ trì các căn (Indriyesu guttadvàro) hay phòng hộ các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) là một trong các biện pháp tu tập căn bản của đạo Phật.
(Xem: 6607)
Tăng quan luận (僧官論) là một trong những bộ luận do ngài Thích Ngạn Tông (557-610)1 trước tác, nhằm thuyết minh và lý giải các chức vụ do chư Tăng đảm nhiệm (廣明僧職)
(Xem: 7132)
Chưa có tài liệu nào về niên đại của đức Phật lịch sử, vị sáng lập đạo Phật, được truyền thừa nhất quán trong các tông phái chính của Phật giáo cũng như được các học giả cùng công nhận.
(Xem: 6768)
Kinh Hoa Nghiêm, như các kinh điển Đại thừa, lấy tánh Không làm nền tảng. Tánh Không trong kinh này là Pháp thân của Phật bổn nguyên Tỳ-lô-giá-na, và toàn thể vũ trụhiện thân của Ngài.
(Xem: 16107)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
(Xem: 7472)
Con đường Bồ tátcon đường lý tưởng nổi tiếng của Phật giáo Đại thừa – không phải là pháp tu để thành thánh, thành tiên, mà là một lối sống ai cũng có thể ước mong thành tựu được.
(Xem: 6405)
Sau kiến đạo, các pháp hữu lậu không thuộc kiến sở đoạn (darśana-prahātavya). Tức các pháp hữu lậu còn lại, trừ kiến chấp ô nhiễm khởi lên do tà phân biệt.
(Xem: 6887)
Đa số người xưng là Phật tử mà không biết rõ đường lối tu hành, ai bày sao làm vậy, trở thành mê tín sai lầm, khiến người đời phê bình đạo Phật là huyền hoặc, là vô ích.
(Xem: 7199)
Tánh "không" (S. 'Suunyataa, P. Su~n~nataa) là một trong các học thuyết quan trọng bậc nhất của Phật giáo và cũng là học thuyết bị người khác đạo hiểu sai lầm nhiều nhất.
(Xem: 6309)
Tánh Khôngbản tánh của tất cả mọi sự vật, mọi hiện tượng, mọi hành động của thân khẩu ý, nên ở đâu trong không gian nào thời gian nào chúng ta cũng có thể nhận ra nó...
(Xem: 6658)
Nói đến Bát-nhã (Trí huệ), các luận thường phân làm ba: Bát-nhã văn tự, Bát-nhã quán chiếu, và Bát-nhã thật tướng.
(Xem: 5523)
Người Phật tử chân chính chớ nên dòm ngó lỗi người, chúng ta chỉ nên nhìn lại hành động của mình, xem đã làm được điều gì tốt đẹp hay chưa.
(Xem: 8819)
"Vậy nên này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình (atta-dipà viharatha), hãy tự mình y tựa chính mình (attàsaranà) chớ y tựa một cái gì khác.
(Xem: 7341)
Tổ Quy Sơn dạy: "Nếu mình chưa là bậc thượng lưu, vượt thẳng lên thềm vô thượng giác thì hãy để tâm vào giáo pháp, ôn tầm kinh điển, rút ra nghĩa lý tinh hoa, truyền bá tuyên dương tiếp dẫn hậu lai, trả ơn đức Phật".
(Xem: 22060)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 7740)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 6791)
Bài Pháp này nhắc nhở các bạn về một số điều Phật dạy, như một cách để sách tấn, khuyến khích các bạn chăm chỉ thực hành đúng theo lời Phật dạy.
(Xem: 14930)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 8516)
Sự hình thành và phát triển tâm lý học Phật giáo là một quá trình vừa diễn dịch vừa xây dựng kéo dài suốt hàng thế kỷ trong lịch sử truyền thừa Phật giáo kể từ thời Đức Phật.
(Xem: 13011)
Giáo lý Duyên khởi (Cái này sinh, nên cái kia sinh, cái này diệt nên cái kia diệt) là nguyên tắc chung giải thích về sự hình thành hay hủy diệt của các pháp.
(Xem: 18781)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 5950)
Phật Thích Ca sau 49 năm thuyết pháp cũng bảo những lời ta nói là thuyết lại lời cổ Phật. Khổng Tử thì nhắn nhủ hậu thế: ông chỉ truyền lời Thánh hiền không thêm bớt không sáng tạo...
(Xem: 6178)
Ở đời cái gì cũng vậy, không phải ngẫu nhiên có được, mà đòi hỏi mỗi con người chúng ta phải tự nỗ lực, tự tầm cầu, tự suy tư để tìm đến con đường giải thoát cho tự thân và tha nhân.
(Xem: 6869)
Chân lý tương đối là những sự thật còn nằm trong đối đãi đối trị nhau. Những sự đối đãi ấy là...
(Xem: 7239)
Sanh tử sự đại là một đề mục lớn của Thiền Tông, và sanh tử luân hồi là một chủ đề phổ thông của Phật Giáo. Nói đến sanh tử luân hồi thì người Phật tử nào cũng nghĩ đến việc thoát ly sanh tử luân hồi.
(Xem: 8291)
Nghiệp báo đóng một vai trò rất quan trọng trong giáo lý nhà Phật.
(Xem: 5600)
Người ta thường tìm đủ mọi cách để gán một nhãn hiệu nào đó lên các lời giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 5806)
Đã lâu, đa số thanh niên quan niệm giải thoát của đạo Phật là siêu hình huyền hoặc đâu đâu, để dành riêng cho những người chán thực tại cầu vào chốn hư vô tịch diệt.
(Xem: 5457)
Sự hiện hữu của mỗi chúng ta hiện giờ và ở đây là do, từ, bởi, nhiều nguyên nhânđiều kiện.
(Xem: 6440)
Đồng Mông Chỉ Quán là một trước tác rất hàm xúc và có hệ thống, nếu hành giả cố gắng thực hành theo "Pháp yếu tọa Thiền tu tập Chỉ Quán" này chắc chắn sẽ đạt được kết quả lớn lao.
(Xem: 5856)
Đạo Phật chủ trương giác ngộ mang ánh sáng trí tuệ soi rọi cho thế gian. Mọi lẽ thật đều hiện bày dưới ánh sáng giác ngộ,
(Xem: 7453)
Mọi chúng sinh dù là người hay là thú , dù giầu hay nghèo, già hay trẻ, không ai là có thể tồn tại lâu dài mãi mãi trong một tình trạng , mọi thứ đều sẽ phải thay đổi và xa rời đi.
(Xem: 5755)
Bốn dấu ấn tiếng Phạn gọi là caturlaksana, tiếng Pa-li là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 6649)
Đại thừa (Mahāyāna) phát triển một nhận thức mới về bản chất lịch sử của Đức Phật Śākyamuni.
(Xem: 6737)
Khi chúng ta tự gọi mình là những Phật tử, có nghĩa là chúng ta là những người đi theo Phật.
(Xem: 5675)
Phật Giáo là một tôn giáo xây dựng trên trí thông minh, khoa học và sự hiểu biết. Mục đích của tôn giáo ấy là để giúp loại trừ khổ đau và các nguyên nhân mang lại khổ đau.
(Xem: 6183)
Chúng ta học Phật, Phật dạy chúng ta hồi đầu, quy y tự tính giác. Tự tính giác tức là Phật tính. Phát Bồ đề tâm, tu Bồ Tát hạnh...
(Xem: 5463)
Phật pháp là những điều đức Phật chứng kiến được sau khi giác ngộ, đem chỗ chứng kiến ấy nói lại để cho mọi người hiểu biết để dứt sạch mê lầmgiác ngộ
(Xem: 7034)
Ý niệm về nghiệp hữu lý trên nhiều phương diện, nhưng một số người đã hiểu lầm về nghiệp.
(Xem: 6036)
Khả năng thích ứng tuyệt vời của Phật giáo đã giúp Phật giáo hội nhập với các nền văn hoá khác.
(Xem: 7870)
Bụt là thầy chỉ đạo Bậc tỉnh thức vẹn toàn Tướng tốt đoan trang Trí và bi viên mãn.
(Xem: 6023)
Người có tuệ giác biết nhìn thẳng vào sự thậtchấp nhận sự thật ấy dù đau thương rồi nỗ lực chuyển hóa, thăng hoa.
(Xem: 7063)
Đạo Phậtđạo từ bi và hành động thiết thực của nó mang đến sự an vui, bình yên cho tất cả chúng sinh.
(Xem: 6885)
Ai có thể hàng phục được mười tám giới: sáu căn, sáu trần, và sáu thức, khiến chúng đừng tạo phản thì người đó chính là Bồ Tát.
(Xem: 6951)
Trong Phật giáo, các từ ngữ "cầu nguyện," "cầu xin" hay "ước nguyện" được hiểu đồng nghĩa với thuật ngữ "pràrthanà" (Sanskrit) hay "patthanà" (Pali).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant