Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Duyên Khởi Giải Thoát

01 Tháng Sáu 201510:18(Xem: 7779)
Lý Duyên Khởi Giải Thoát
“Lý Duyên Khởi Giải Thoát “
( LDKG) ( Transcendental dependent arising/Dependent liberation)

Ajahn Brahmali, Minh Nguyệt

Lý Duyên Khởi Giải Thoát

 

Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát  mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền  được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.

 

LDKG có liên hệ chặt chẽ với giáo lý duyên khởi nổi tiếng trong đạo Phật. Cho những ai chưa quen thuộc nhiều với những lời Phật dạy, lý duyên khởi là một chuỗi mười hai yếu tố nhân quả kết nối với nhau. Yếu tố cuối cùng trong chuỗi nhân quả này là khổ. Bởi vì là một chuỗi nhân quả, nó cho ta thấy khổ phát sinh như thế nào. Yếu tố thứ nhất của mười hai nhân duyênvô minh – không có khả năng thấy được thế gian như nó là, và nó thật sự hoạt động như thế nào. Như thế, bắt đầu với vô minh, yếu tố này dẫn đến yếu tố sau, tiếp luôn cho đến khổ đau. Do vậy, lý duyên khởi chỉ cho ta thấy khổ đau chính là hậu quả của vô minh.

 

Đây là cách mà Đức Phật đã giải thích tại sao có khổ đau. Nhưng Đức Phật cũng giảng về một chuỗi nhân quả đưa đến sự thoát khổ. Chính cái chuỗi nhân quả này được gọi là “Lý duyên khởi giải thoát” (SN12:23). LDKG bắt đầu với khổ – nói một cách khác, nó bắt đầu ở yếu tố cuối của lý duyên khởi – và, qua mười hai yếu tố nhân quả kết nối khác, nó chỉ cho bạn thấy làm thế nào để tối hậu đi đến giải thoát.

 

Triển vọng chấm dứt khổ đau là một thông điệp vô cùng tích cực. Đôi khi người ta nói đạo Phật bi quan – chỉ thấy nói đến khổ đau – nhưng đây lại là điều hoàn toàn ngược lại. Đức Phật nói rằng nhờ vào khổ đau mà chúng ta có thể đi suốt cho đến giải thoát khỏi cái khổ đau đó.

 

Chúng ta hãy duyệt qua mười hai chuỗi yếu tố của LDKG. Yếu tố đầu là khổ (dukkha). Ở đây không phải chỉ muốn đề cập đến thực tế là có cái khổ mà còn muốn cho chính chúng ta nhận thức được vấn đề. Chỉ khi nào bạn hiểu được là có vấn đề thì bạn mới tìm cách giải quyết. Một phần là phải hiểu rõ về vấn đề khổ đau bình thường trong cuộc sống hàng ngày. Nhưng điều quan trọng hơn là phải thấy phạm vi rộng lớn của khổ đau. Sự hiểu biết này bắt đầu phát sinh khi việc hành thiền của bạn trở nên sâu sắc hơn, và bạn bắt đầu thấy chính mình và thế giới theo một cách khác. Nhưng đặc biệtý tưởng tái sinh ­– nhất là khi chính bạn tự mình thấy được – sẽ khiến cho bạn hiểu rõ phạm vi thực sự của vấn đề.

 

Đạo Phật cho bạn biết là có giải pháp cho vấn đề này. Một khi bạn hiểu là có vấn đềnhận biết có một giáo pháp có thể hướng dẫn bạn tìm ra giải pháp, bạn sẽ có niềm tin (saddha, sự tin cậy, tín nhiệm) với giáo pháp này. Đây là yếu tố thứ hai.

 

Điều đáng ghi nhận trong những lời Phật dạy là nó chỉ cho bạn thấy giải pháp ở chỗ hoàn toàn khác hẳn với những gì bạn tưởng. Bình thường, trong đời sống, chúng ta nghĩ rằng giải pháp cho khổ đau sẽ được tìm thấy trong những quan hệ tình cảm, bạn bè, của cải vật chất, địa vị, quyền thế, được kính trọng, được khen ngợi, v.v. – những điều mà trong đạo Phật được gọi là “các pháp thế gian” (lokadhammā, AN8:6).  Người ta thường nghĩ câu trả lời cho khổ đau nằm ở đó. Nhưng rồi Đức Phật đến và nói cho bạn biết là bạn đã đi tìm không đúng chỗ, rằng giải pháp được tìm thấy ở một nơi khác.

 

Khám phá này của Đức Phật thật là siêu việt. Nó cho bạn có cảm tưởng, ừ nhỉ, đúng là giải pháp phải ở chỗ nào khác, bởi vì đã biết bao lần bạn đã cố gắng tìm hạnh phúc qua những pháp thế gian mà bạn vẫn cứ khổ đau như thường. Trong một nghĩa nào đó, đây chính là bi kịch của con người: chúng ta luôn muốn có hạnh phúc, nhưng thông thường chúng ta lại tìm không đúng chỗ. Cho nên, nên thay vào đó, chúng ta chuốc lấy khổ đau. Khi bạn hiểu là có vấn đề và biết có một giáo lý hứa hẹn cho bạn những giải pháp thực tiễn, niềm tin sẽ khởi lên. Bạn nhận ra rằng có một điều gì đó thật đặc biệt trong những lời giảng dạy này.

 

Niềm tin là một điều tuyệt đẹp. Bạn cảm thấy an toàn vì bạn có được một giáo lý chỉ cho bạn giải pháp giúp bạn thoát khổ. Như đề cập trong nhiều bài kinh, một người không có niềm tin, không có nơi nương tựa, giống như một người băng qua sa mạc. Trừ phi người đó tìm được cách đi băng qua, người đó cuối cùng rồi sẽ không thể chống chọi lại được với sức mạnh của thiên nhiên – nắng nóng, thiếu nước, tất cả những vấn đề trong sa mạc. Nhưng người có niềm tin thì giống như một người đã băng qua khỏi sa mạc (MN39).

 

Bởi vậy niềm tin trong đạo Phật rất quan trọng. Đôi khi người ta nghĩ là niềm tin không thật sự quan trọng và chỉ cần tìm hiểu, nghiên cứu xem điều đó đúng hay sai là đủ rồi. Dĩ nhiên, nghiên cứu, tìm hiểu là điểm chính yếu trong đạo Phật . Tuy nhiên, khi niềm tin mạnh mẽ, nó sẽ trở thành một sức mạnh; thúc đẩy bạn đi vào con đường đạo và giúp bạn đi đúng hướng. Đây là một phẩm chất cốt lõi mà ta phải mang theo trong suốt cuộc hành trình tâm linh. Hơn thế nữa, khi niềm tin được đặt đúng chỗ thì tất cả những yếu tố còn lại sẽ đi theo như một hệ quả tự nhiên. Nó trở thành con đường tự hoàn mãn bởi vì mỗi yếu tố là duyên cho yếu tố sau đó phát sinh, từng giai đoạn một, cho đến khi bạn hoàn toàn giác ngộ.

 

Kết quả trực tiếp của niềm tin là hân hoan (pāmojja), yếu tố thứ ba của chuỗi LDKG. Niềm hân hoan đến từ sự khám phá ra được một điều gì đó thật là quý báu. Bạn đã tìm ra được kim chỉ nam cho ý nghĩa thật sự của đời sống và bạn cảm nhận được đây là những lời giảng dạy ưu việt. Sự liên hệ giữa niềm tinhân hoan được mô tả ở nhiều nơi trong kinh. Chẳng hạn, một trong những pháp quán tưởng quan trọng trong kinh là niệm về “Ân Đức Phật”, “Ân Đức Pháp” và “Ân Đức Tăng”. Hân hoan sẽ sinh khởi trong tâm vì những quán tưởng này được thiết lập trên sự nhận biết về giá trị sâu sắc của những giáo lý trong trong Đạo Phật. Điều này được gọi là atthavedadhammaveda, cảm hứng trong ý nghĩacảm hứng trong Pháp. Nguồn cảm hứng tuyệt vời phát sinh cũng giống như “pāmojja” mà chúng ta đang nói đến ở đây. Như vậy hân hoan đến cùng với cảm hứng và đây là kết quả của niềm tin  (AN6:10)

 

Một khi pāmojja sinh khởi, đạo lộ tự nó sẽ tiếp tục mở ra. Nó là như vậy bởi vì hân hoan khiến cho bạn có niệm và năng lực. Có niệm và năng lực thì khi ngồi xuống hành thiền, bạn sẽ có khả năng giữ được đề mục và bạn sẽ tiến bộ đều đặn. Thiền tập có kết quả. Đôi khi có vẻ như khó nắm bắt được vì sao hành thiền lúc được, lúc không, và đây là lý do tại sao. Hành thiền tốt đẹp khi bạn cảm thấy hân hoan và niềm hứng thú sẽ đến cùng với  niệm và năng lực. Như vậy, phần còn lại của đạo lộ chủ yếu là một tiến trình tự động. Đó là một tiến trình hành thiền dẫn bạn đi từng giai đoạn một cho suốt đến giác ngộ. Đây chính là tâm điểm của tiến trình nhân quả của LDKG.

 

Vậy tiến trình này xảy ra như thế nào? Bạn ngồi xuống, theo dõi hơi thở, thật dễ dàng. Khi hành thiền phát triển, hỷ (pīti) bắt đầu khởi lên trong bạn. Đây là yếu tố thứ tư của chuỗi nhân quả này. Khi hành thiền tiến bộ thêm, hỷ lạc lắng xuống và bạn có cảm giảc tĩnh lặng (passaddhi, khinh an), yếu tố thứ năm. Sự tĩnh lặng này, khi được phát triển, sẽ trở thành một cảm giác mãn nguỵên sâu xalạc (sukha), yếu tố thứ sáu. Và rồi, điều này dẫn đến tâm định (samādhi), yếu tố thứ bảy, đây là khi mức thiền trở nên vững mạnh thật sự. Khi tâm ra khỏi trạng thái định thâm sâu, bạn sẽ có sự hiểu biếtcái nhìn đúng như sự thật (yathā-bhūta-ñāṇa-dassana, tri kiến như chân). Đây là yếu tố thứ tám. Bởi vì samādhi khắc phục những chướng ngại (triền cái) – cái tâm ô nhiễm ngăn cản không cho bạn thấy đúng đắn sự thật – bây giờ, lần đầu tiên bạn thấy rõ mọi việc.

 

Khi nhìn thấy sự vật một cách đúng đắn, bạn sẽ thấy đau khổ kết nối chặt chẽ với sự hiện hữu như thế nào. Bạn sẽ muốn từ bỏ (nibbidā, yếm ly) tất cả. Đây là yếu tố thứ chín. Bạn nhận ra rằng mình phải thoát ra khỏi bánh xe luân hồi. Từ bỏ dẫn đến nhàm chán (virāga, ly tham), yếu tố thứ mười. Virāga là sự chấm dứt ham muốn, đối nghịch lại với khát ái, sự tham đắm thế gian. Và khi sự say đắm, ham muốn biến mất, bạn được giải thoát (vimutti), yếu tố thứ mười một. Khi được giải thoát, bạn cũng sẽ có tri kiến rằng bạn đã được giải thoát (khaye ñāṇaṃ)  Đây là yếu tố thứ mười hai và là yếu tố cuối cùng của chuỗi LDKG. Như vậy, đây là phương cách từ khổ đau dẫn đến giải thoát.

 

Để có một cái nhìn sâu sắc hơn về LDKG, tôi muốn xem xét khởi điểm của chuỗi từ một góc nhìn khác. Tôi muốn tập trung vào vài bước đầu của trình tự, bởi vì làm cho đúng những bước này rất quan trọng. Nếu bạn thực hiện đúng đắn những bước đầu, những bước còn lại sẽ tiếp theo như một quy trình tự nhiên.

 

Phối cảnh sâu xa này có thể có được bằng cách xem xét một diễn giải phổ biến khác về LDKG thường gặp trong một số bài kinh (thí dụ AN11:3). Diễn giải này, thay vì bắt đầu bằng khổ đau và niềm tin, bắt đầu bằng giới hạnh. Giới hạnh khiến ta không hối hận (avipaṭisāra), và không hối hận phát sinh hân hoan, pāmojja. Và những phần còn lại thì chủ yếu giống như đã trình bầy ở trên.

 

Vậy thì pháp này vận hành như thế nào? Sự hoan hỷ phát sinh từ giới hạnh thuộc về bản chất tâm linh và không liên quan gì đến những niềm vui của giác quan. Đó là niềm hân hoan vì có một tấm lòng tốt đẹp. Những hân hoan đó luôn gắn liền với niệm và năng lượng. Khi vui, tâm bạn có một nguồn năng lượng tự nhiên, nguồn năng lượng đến từ những cảm giác tốt và tích cực. Và bạn có niệm vì niềm vui tâm linh khiến cho giây phút hiện tại thú vị.

 

Trong kinh ta thấy lập đi lập lại nhiều lần rằng hành thiền bắt đầu với niệm. Khi bạn đọc những gì Đức Phật giảng về theo dõi hơi thở trong bài kinh Quán niệm Hơi thở (Ānāpānasati Sutta, MN118), khi bạn đọc Đức Phật dạy gì trong bài kinh Satipaṭṭhāna về bốn chú tâm của niệm (MN10), bạn sẽ nhận ra niệm là điều kiện tiên khởi cho hành thiền. Nếu không có niệm, bạn sẽ không thể hành thiền đúng đắn được. Thông hiểu điều này rất là quan trọng. Không đủ niệm là lý do chính tại sao đại đa số người ta không thể đạt đến những trạng thái thiền thâm sâu.

 

Bởi vì tầm mức quan trọng của niệm, bạn cần phải học để biết cách thẩm định cường độ của niệm và biết mình đã có đủ tỉnh thức để hành thiền chưa. Hãy tự hỏi “Tôi có thật sự hay biết? Tôi có ở đây trong hiện tại? Tâm tôi có đi lung tung khắp nơi? Tôi có bấn loạn không? Tôi có thấy rõ ràng những gì đang xảy ra không?” Nếu tâm bạn tương đối yên ổn và bạn có ý thức rõ ràng – dù vẫn còn một chút suy nghĩ nhưng không nhiều lắm – đó là lúc mà hành thiền thật sự có hiệu quả.

Bởi vì không thể có thiền đúng đắn nếu không có niệm, bởi vì đó là nền tảng nên bạn cần phải xây dựng nó cho thật vững chắc, bạn cần phải biết rõ ràng làm sao để có niệm. Niệm là một đề tài “thời thượng” của tâm lý học Tây phương trong nhiều năm qua. Thông thường những thảo luận xoay quanh về việc niệm sẽ giúp bạn vượt qua các vấn đề như thế nào, những phẩm chất của niệm là gì, làm sao có thể đo lường bằng khoa học, v.v. Nhưng một điều thường thấy thiếu vắng  là một cuộc thảo luậný nghĩa về nguyên nhân đưa đến niệm. Để hiểu được nguyên nhân đưa đến niệm là hiểu được làm thế nào để có được niệm.

 

Người ta thường nghĩ rằng nếu dùng sức mạnh của ý chí, nếu mình cố gắng hết sức, bạn sẽ có niệm. Nhưng nếu tâm bạn bị tác động bởi phiền não thì dù bạn cố gắng đến đâu cũng không thể có niệm được. Niệm không phải chỉ là giữ yên lặng hay cố gắng hết sức – như thế chưa đủ. Bạn phải chuẩn bị tâm để có thể có  niệm.

 

Vậy thì nguyên nhân đưa đến niệm là gì? Trong biến thể của LDKG, yếu tố trước khi có pāmojja (hân hoan) – như tôi đã nói, đến cùng với niệm – là sự không hối hận. Không hối hận đến từ giới hạnhđạo đức, sự tử tế và có tâm tốt đẹp. Ở đây, hối hận không phải chỉ có nghĩa là cảm thấy tồi tệ vì đã làm một việc thiếu đạo đức. Nó bao gồm tất cả những gì có ảnh hưởng xấu đến tâm do chính những hành vi của mình. Khi tâm mệt mỏi, ngu si, bất an, tiêu cực, hay trạng thái tương tự, thông thường là kết quả của những hành vi chưa đủ trong sạch. Như vậy, hối hận ở đây bao gồm tất cả những chướng ngại làm cản trở không cho bạn cảm thấy được sự hân hoan, niềm vui tự nhiên có ở trong tâm. Điều này có nghĩa là nguyên nhân đưa đến niệm là giới hạnh, và nếu khônggiới hạnh thì niệm sẽ quá yếu cho hành thiền. Do vậy, nếu chuyện hành thiền của bạn không đi đến đâu hay không tiến bộ, bạn cần phải xét lại xem mình có thể làm gì để cải thiện giới hạnh của mình.

 

Trong Đạo Phật, quan niệm về giới hạnh rất rộng lớn. Dĩ nhiênbao gồm giới hạnh về hành động đúng đắn – tử tế, tránh những hành động xấu. Nó cũng bao gồm giới hạnh của lời nói tốt đẹp – nói những điều tử tế, không nói những điều xấu. Cho đại đa số, chỉ nội trong lãnh vực này cũng đã có rất nhiều điều cần phải làm. Một trong những điều quan trọng cần ghi nhớ, giới hạnh không những là tránh làm xấu mà còn phải làm việc thiện nữa.Vậy thì trong cuộc sống, bạn hãy đi làm việc thiện, hãy nói những lời tử tế, hãy làm những việc nho nhỏ tử tế. Khi làm được như vậy là bạn đang xây dựng một cái tâm đẹp đẽ. Và điều này sẽ là một sức mạnh hỗ trợ cho việc hành thiền của bạn.

 

Nhưng để cho niệm được thiết lập vững chắc, giới hạnh về thân và khẩu thôi chưa đủ. Bạn còn cần giới hạnh của tâm. Lúc đầu khi thực tập giới hạnh về thân và khẩu qua sự thu thúc, tâm bạn vẫn còn ô nhiễm. Để đối phó với sự ô nhiễm này, bạn cần phải làm việc với cái tâm bằng cách nào để bạn có thể thay đổi cách suy nghĩ. Đôi khi chúng ta cho điều này là khó làm, nhưng với quyết tâm đầy đủ và sự bền chí thì ai cũng có thể làm được. Và đây là điều cần thiết để cho việc hành thiền của bạn có thể phát triển.

 

Phiền não quan trọng nhất cần phải vượt quasân hận dưới mọi hình tướng của nó, kể cả sự khó chịu và các trạng thái tiêu cực (AN3:68). Sân hận là một trạng thái tâm tạo nên rất nhiều đau khổ cho chúng ta và cho những người chung quanh ta. Nếu chúng ta thật sự nghiêm túc về con đường tâm linh, thì đây là lãnh vực mà ta thật sự cần phải chú tâm đến. Để khắc phục được sân, chúng ta phải tự hỏi làm sao mình có thể thay đổi cách nhìn về thế giới chung quanh. Có thể nào có một cách nhìn nào khác khiến cho những trạng thái tiêu cực không khởi lên? Bạn sẽ thấy rằng nếu mình chịu khó nỗ lực quán chiếu như thế, theo thời gian bạn sẽ dần dần thay đổi – bạn sẽ bắt đầu nhìn thấy mọi chuyện theo một cách mới; bạn sẽ bắt đầu nhìn thế gian một cách từ binhân ái hơn. Khi sân hận, khó chịu và tiêu cực bắt đầu giảm bớt, bạn sẽ cảm nhận được là mình đã trở nên một người tốt hơn, trong sạch hơn. Thật tuyệt diệu khi quan sát thấy điều này đang xảy ra trong chính bạn. Dần dần, bạn thay đổi; bạn tự chuyển hóa mình thành một con người khác.

 

Người ta thường nghĩ rằng sức mạnh của ý chí là cách để giải quyết những trạng thái tâm tiêu cực. Họ nghĩ là họ có thể bắt buộc họ phải dễ thương, họ có thể đè bẹp sân hận, nghiền nát sự tiêu cực. Và thỉnh thoảng khi bạn đọc kinh thấy có vẻ là như vậy. Bạn đọc thấy là bạn cần phải “tiêu diệt” trạng thái tâm tiêu cực, “ loại bỏ” chúng , “hủy diệt” chúng. Từ ngữ dùng có thể rất mạnh và rất dễ dàng để nghĩ rằng kinh văn muốn ám chỉ đến “sức mạnh” hay quyền lực. Nhưng thật ra Đức Phật muốn nói cách tốt nhất để vượt qua những trạng thái tiêu cực là dùng trí tuệ (MN19).

 

Dùng trí tuệ là tự hỏi xem sân sẽ dẫn bạn đến đâu. Nếu bạn suy nghiệm về điều này, bạn sẽ thấy nó luôn luôn dẫn đến đau khổ, cho chính bạn và người khác (MN19). Nó dẫn đến đau khổ cho chính bạn vì khi so sánh ta sẽ thấy sân hậnđau đớn so với trạng thái tâm bình an. Nó dẫn đến đau khổ cho người khác vì khi sân chúng ta có khuynh hướng làm nhiễu hại đến người khác. Hơn thế nữa, bạn tạo bất thiện nghiệp khi bạn sân, nhất là khi bạn hành động vì sân hận. Bạn tự gây ra bất hạnh cho mình ngay ở đời này lẫn cả các đời sau. Như vậy, tính cách tiêu cực tạo ra cả một chuỗi phản ứng với các kết quả khó chịu và phiền muộn. Hãy tự nhắc nhở bạn như thế. Hãy suy ngẫm thường xuyên về điều này. Sân hận, tiêu cực, làm hại – đó là lãnh vực nguy hiểm; nó thật sự sẽ dẫn đến đau khổ cho bạn và cho những người chung quanh. Nhận thức càng mạnh mẽ bao nhiêu, rằng đây là một vấn đề thật sự, thì bạn càng có nhiều khả năng để quay lưng lại với nó.

 

Khi nhận thức về nguy hiểm của sân hận trở nên vững chắcrõ ràng, nó trở thành một phương tiện hữu hiệu trong việc phát triển tâm. Khi một tư tưởng sân bắt đầu nẩy sinh, bạn chỉ cần khởi lên nhận thức về sự nguy hiểm là tư tưởng sân này sẽ biến mất. Trí tuệ làm việc này cho bạn. Nhưng hãy nhớ rằng để xây dựng trí tuệ cần rất nhiều thời gian, như hầu hết tất cả những việc làm trên con đường tâm linh. Thật ra không phải là khó nhưng cần phảiquyết tâmkiên trì. Dần dần bạn sẽ thấy sự nguy hiểm ngày càng rõ ràng hơn. Bạn càng hiểu rõ bao nhiêu thì bạn càng có khả nãng ðể khắc phục sân hận mỗi khi nó khởi lên. Cũng chính vì vậyĐức Phật dùng những chữ như “tiêu diệt”, “loại bỏ”, “ hủy diệt” để diễn tả sự khắc phục những tư tưởng này. Những từ này không có ý nói đến sức mạnh của ý chí mà nói đến một phương tiệnhiệu quả hơn nhiều, đó là phương tiện trí tuệ. Trí tuệ, khi được phát triển tốt đẹp, sẽ cắt đứt những điều này – cũng giống như nó “tiêu diệt” những trạng thái tâm tiêu cực. Chúng sẽ đơn giản biến mất ngay. Hãy tiếp tục quán chiếu về sự nguy hiểm của sân hận ở dưới tất cả mọi hình thứcCuối cùng rồi bạn sẽ có một phương tiện hữu ích cho việc tu tập tâm linh.

 

Một hậu quả tiêu cực khác của sân hận là nó hủy hoại trí tuệ (MN19). Trí tuệ là một phẩm chất tâm linh quan trọng nhất. Chính trí tuệ đã khiến cho bạn hiểu sự khác biệt giữa hạnh phúc và khổ đau, quan trọng hơn nữa, hiểu được sự khác biệt giữa nguyên nhân của hạnh phúcnguyên nhân của đau khổ. Trí tuệ giúp chúng ta giải quyết các vấn đề của cuộc sống.

 

Đức Phật nói trí tuệ diệt là hệ quả của những trạng thái tâm bất thiện (paññānirodhika, MN19). Xét tầm mức quan trọng của trí tuệ, phải chăng đó không phải là lý do chính đáng đủ cho ta từ bỏtiêu diệt những trạng thái tâm bất thiện hay sao? Hãy so sánh tâm khi bạn giận và khi bạn không giận. Hãy nhìn sự khác biệt. Bạn sẽ nhận thấy rằng khi sân giận, bạn không thể thấy thế gian một cách rõ ràng. Bạn không hiểu đâu là phải, đâu là trái – tất cả mọi việc trở nên đảo ngược, méo mó đi bởi giận dữ. Hãy xem nó phá hủy trí tuệ như thế nào. Quán chiếu về những điều này rất có hiệu quả.

 

Một cách quán chiếu khác được Đức Phật khuyên là hãy xem thử sân giận tổn hại đến tâm như thế nào (MN19). Hãy suy ngẫm xem bạn cảm thấy tâm mình như thế nào khi sân giận so với tâm khi bình an. Sự khác biệt thật là lớn lao! Khi sân giận bạn bị thiêu đốt bên trong. Tại sao bạn lại muốn sân giận khi mà có một lựa chọn khác là không sân giận?

 

Những quán chiếu như thế là một trong những khía cạnh đầy oai lực của giáo pháp và cũng hữu hiệu nhất để bạn vượt qua những trạng thái tâm bất thiện. Nếu bạn muốn thay đổi cách suy nghĩ của bạn, trí tuệcon đường, chứ không phải sức mạnh của ý chí.

 

Với thời gian, khi được khai mở với một nhân sinh quan mới, bạn sẽ thấy những ô nhiễm của bạn giảm bớt, những vấn đề khó khăn trong đời sống của bạn bớt đi, và pāmojja – niềm hân hoandần dần tăng lên trong tâm bạn. Hân hoan đến từ sự thanh tịnh, từ thực tế là bạn đã trở nên một người tốt hơn. Và khi pāmojja trở nên mạnh hơn, niệm cũng mạnh hơn. Chính những ô nhiễm của tâm đã ngăn không cho niệm thực sự trở thành một sức mạnh tinh thần. Ô nhiễm càng giảm đi, niệm càng mạnh lên. Nếu bạn có thể làm giảm bớt những chướng ngại trong sự thực tập hàng ngày, bạn sẽ thấy mỗi lần bạn đi hành thiền nhiều ngày, bạn có thể theo dõi những điều mà trước đây bạn không thể theo dõi.

 

Khi bạn theo dõi hơi thở mà không đủ niệm, tâm bạn có khuynh hướng đi lung tung khắp nơi. Bạn hoàn toàn không làm chủ được tâm mình – thay vào đó, ô nhiễm lôi bạn đi lòng vòng. Nhưng một khi niệm có mặt, bạn sẽ cảm thấy bạn làm chủ được chính mình. Và bởi vì bạn có cảm giác tự chủ, bạn có thể hướng sự chú ý của mình vào hơi thở hay vào bất cứ điều gì bạn muốn chú tâm vào. Trong kinh có nói rằng niệm được xây dựng đúng đắn là một sức mạnh (SN50:1). Chính vì vậy, niệm rất quan trọng.

 

Vì niệm phát sinh từ giới hạnh, nhất là giới hạnh của tâm, cho nên nỗ lực vượt qua những khuynh hướng tiêu cực của tâm là điều rất quan trọng. Đôi khi rất khó khăn, vì những khuynh hướng và thói quen của ta thường đã thâm căn cố đế. Cần phảiquyết tâmkiên trì để thay đổi cách bạn nhìn sự việc, cách bạn hành động. Nhưng dần theo năm tháng, bạn sẽ thấy sự thay đổi trong bạn. Một khi bạn thay đổi, việc hành thiền của bạn trở nên an tịnh và sâu lắng hơn. Thật là tuyệt vời biết mấy khi hành thiền bắt đầu tiến triển, khi bạn có thể giữ được đối tượng hành thiền và thấy tiến bộ thật sự. Khi niệm đã trở thành niệm lực, với niềm hoan hỷ trong tâm, bạn chỉ cần ngồi xuống, theo dõi hơi thở và việc hành thiền sẽ tự nó diễn tiến.

 

Khi hành thiền tự động diễn ra, bạn không cần đến sức mạnh. Tất cả những gì bạn cần làm là chỉ ngồi đó, hay biết, và theo dõi hơi thở. Bởi vì bạn có niệm, việc theo dõitự nhiên và dễ dàng, không cần đến sức mạnh của ý chí. Mỗi giây phút trôi qua, hành thiền càng lúc càng trở nên mạnh mẽ, và càng lúc càng trở nên thâm sâu. Tất cả những gì bạn cần phải làm chỉ là hiện diện ở đó.

 

Đến một thời điểm nào đó trong tiến trình này, pīti, hỷ, bắt đầu phát sinh. Pīti là một cảm giác của niềm vui. thường biểu hiện mạnh mẽ qua thành phần thể chất. Nó có thể được trải nghiệm như những làn sóng phỉ lạc chạy qua khắp châu thân. Thật ra, nó chỉ là sự tăng thêm cường độ của hân hoan đã có được trước đó. Cái mà ta cảm nhận ở đây là khởi đầu của niềm vui thuần túy của tâm, niềm hạnh phúc tinh thần. Sau buổi thiền, ta nên suy ngẫm về những tính chất của những cảm giác này, xem thử nó khác với những niềm vui vật chất như thế nào. Bạn sẽ nhận ra rằng pīti là kết quả của tâm thanh tịnh, đặc biệt là sự vắng mặt của sân hậntham ái mạnh mẽ. Sự thanh tịnh này là kết quả của việc thực hành giới hạnh trước đó. Bằng trực giác, bạn biết đó là một cảm giác thiện lành. Và đồng thời cũng cảm thấy rất dễ chịu. Bạn biết mình đã đi đúng hướng và bạn cần phải phát triển điều này thêm nữa.

 

Bạn tiếp tục theo dõi hơi thở. Dần dần, các khía cạnh “thú vị” của pīti bắt đầu lắng xuống và bạn kinh nghiệm được một cảm giác tĩnh lặng sâu hơn, passaddhi (khinh an). Khi sự tĩnh lặng vào sâu hơn nữa, bạn sẽ kinh nghiệm một cảm giác bình an thâm sâu của hạnh phúc, sukha (lạc). Với mỗi bước, hành thiền càng trở nên tuyệt đẹp và mạnh mẽ hơn. Ở thời điểm này bạn cảm thấy hoàn toàn mãn nguyện đến nỗi tâm không muốn đi nơi nào khác. Đây là bắt đầu của samādhi (định). Một lần nữa, tất cả chuyện này hoàn toàn tự nó xảy ra. Bạn chỉ cần ngồi đó theo dõi cả tiến trình mở ra.

 

Samādhinhất điểm tâm, khả năng tập trung một cách dễ dàng vào một đối tượng, dù là hơi thở, ánh sáng trong tâm hay bất cứ điều gì. Ở thời điểm này, tâm rất vững vàng; nó gắn liền với đối tượng mà không dao động. Bạn để cho samādhi phát triển cho đến khi năm triền cái hoàn toàn bị loại trừ , tâm chói sánghoàn toàn tập trung. Tiến trình này lên đến đỉnh điểm là khi đạt được jhanas (các tầng thiền-na).

 

Sau khi bạn ra khỏi samādhi, tâm bạn trong sáng và mạnh mẽ. Nhờ sự trong sáng này mà bạn biết và thấy sự vật đúng như nó là, yathā-bhūta-ñāṇa-dassana (tri kiến như chân). Thấy sự vật như nó là chỉ có thể làm được sau samādhi, bởi vì chỉ với samādhi mà sự loại trừ các triền cái mới được bền vững (MN68). Đây là một trong những lý do chính tại sao jhanas thuận lợi cho việc thấy sự việc như nó là.

 

Như tôi đã nói lúc đầu, gốc rễ của đau khổ là vì sự hiểu biết sai lầm của ta về sự vận hành thật sự của thế gian. Ta thấy hạnh phúc trong khổ đau. Ta thấy một cái ngã dù rằng chẳng hề có điều này. Ta nghĩ mọi vật sẽ trường tồn mặc dù nó có thể biến mất bất cứ lúc nào. Bằng cách nhìn thấy sự vật như nó là, chúng ta sẽ chấn chỉnh lại cái nhận định bị bóp méo, vô minh hay si mê, căn nguyên của vấn đề.

 

Bởi vậy khi ta loại trừ chướng ngại bằng samādhi, vô minh bị yếu dần và bào mòn. Vì vô minhyếu tố đầu tiên của lý Duyên khởi, mỗi yếu tố sau đó, kể cả đau khổ đều bị ảnh hưởng bởi cường độ của vô minh. Như thế có nghĩa là vô minh càng yếu thì khổ đau càng vơi, cho cả bây giờ và mai sau.

 

Nhìn thế gian như nó thật sự là và thông hiểu toàn bộ khổ đau trên đời, nó đi sâu đến như thế nào, quả thật là một bừng tỉnh đáng kinh ngạc. Đức Phật nói giống như bạn bị bọc kín trong một cái vỏ, bất chợt cái vỏ bị nứt bể ra, bạn nhìn thấy thế giới lần đầu tiên (MN53). Giống như bạn bị bao trùm bởi bóng tối và bất chợt có người bật đèn lên (MN36).

 

Thấy được Pháp trọn vẹn sẽ khiến cho bạn có một quan điểm hoàn toàn mới về đời sống. Bởi vì bạn thấy toàn bộ vấn đề, bạn nhận ra rằng không có lối thoát khỏi khổ đau trong sự hiện hữu thế tục và bạn nhàm chán tất cả. Đó là nibbida (yếm ly), sự chối bỏ tất cả mọi thứ, bởi vì bạn thấy đau khổ đi sâu đến như thế nào.

 

Khi bạn nhàm chán tất cả, không còn gì để bám víu vào nữa thì ham muốn trở thành không thể có. Đó là ly tham, viraga. Bởi vì tất cả là khổ đau, bạn xả bỏ và bạn không bao giờ còn có thể ham muốn gì nữa. Khi bạn nhận ra rằng đi tìm hạnh phúcphù phiếm, tham ái sẽ chấm dứt. Đó là giải thoát, vimutti. Cuối cùng bạn được giải thoát, giải thoát khỏi mọi vấn đề của hiện hữu. Và bạn có tri kiến là mình đã được giải thoát. Bạn đạt đến cái hạnh phúc tối đa có thể có. Đó là những gì mà đạo lộ của Đức Phật hứa hẹn cho bạn.

 

Nó rất là thâm thúy. Mặc dù những lời dạy này có vẻ khó tiếp cận, nhưng tôi tin, hiểu biết trọn vẹn cả bản đồ rất quan trọng, để biết tất cả mọi thứ dẫn đi đến đâu, để thoáng thấy một khía cạnh thâm sâu của Giáo pháp của Đức Phật. Theo kinh nghiệm của tôi, cái thoáng thấy này rất bổ ích, nó thúc đẩy chúng ta tiếp tục con đường tu tập.

 

Nhưng trên thực tế, điều quan trọng nhất của LDKG là nó chỉ cho ta thấy sự thành công trên con đường tu Phật, thành công trong hành thiền, tùy thuộc vào sự trong sạch của hành vi, nhất là sự trong sạch của tâm chúng ta. Chỉ khi nào bạn có thể giảm thiểu ô nhiễm của tâm, nhất là giận dữ, tiêu cực, và khía cạnh thô tháo của tham ái, thì việc hành thiền định mới có thể bắt đầu. Đây là một tiến trình tiệm tiến và mỗi bước trên con đường đạo đem đến một phần thưởng. Nếu bạn muốn hạnh phúcmãn nguyện thật sự thì đây là con đường duy nhất.

 

 (Bài giảng của Ajahn Brahmali ở Trung tâm Phật giáo Dhamāloka, Tây Úc, ngày 23/03/2012)

Dịch Việt: Minh Nguyệt.

Hiệu đính Bình An Sơn.

 

Ajahn Brahmali was born in Norway in 1964. He first became interested in Buddhism and meditation in his early 20s after a visit to Japan. Having completed degrees in engineering and finance, he began his monastic training as an anagarika (keeping the eight precepts) in England at Amaravati and Chithurst Buddhist Monasteries.

After hearing the 'word of Brahm' he decided to travel to Australia to train at Bodhinyana Monastery. Ajahn Brahmali has lived at Bodhinyana Monastery since 1994, and was ordained as a Bhikkhu, withAjahn Brahm as his preceptor, in 1996.

Ajahn Brahmāli teaches the monastic rules and gives Pali classes to the monks and anagarikas at Bodhinyana Monastery.

 

 

 

 

Tiểu sử

Ajahn Brahmali sinh năm 1964 ở Na Uy. Sư bắt đầu chú ý đến đạo Phật và hành thiền vào khoảng năm 20 tuổi sau khi viếng thăm Nhật Bản. Sau khi đã học xong ngành kỹ sư và tài chính, Sư bắt đầu đời sống tu hành như một giới tử (giữ 8 giới) ở Tu viện Amaravati và Tu viện Chithurst, Anh Quốc.

Sau khi được nghe những lời giảng dạy của ngài Ajahn Brahm, Sư quyết định sang Tây Úc để tu tập tại Tu viện Bodhinyana. Sư Brahmali sống ở tu viện Bodhinyana từ năm 1994 và thọ cụ túc giới với Ajahn Brahm để trở thành tỳ kheo vào năm 1996.

Ajahn Brahmali dạy giới luật tu sĩ và tiếng Pali cho các sư và giới tửTu viện Bodhinyana.

 

 

 

“Lý Duyên Khởi Giải Thoát “ ( LDKG) ( Transcendental dependent arising/Dependent liberation)

 

 

Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền  được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.

 

LDKG có liên hệ chặt chẽ với giáo lý duyên khởi nổi tiếng trong đạo Phật. Cho những ai chưa quen thuộc nhiều với những lời Phật dạy, lý duyên khởi là một chuỗi mười hai yếu tố nhân quả kết nối với nhau. Yếu tố cuối cùng trong chuỗi nhân quả này là khổ. Bởi vì là một chuỗi nhân quả, nó cho ta thấy khổ phát sinh như thế nào. Yếu tố thứ nhất của mười hai nhân duyênvô minh – không có khả năng thấy được thế gian như nó là, và nó thật sự hoạt động như thế nào. Như thế, bắt đầu với vô minh, yếu tố này dẫn đến yếu tố sau, tiếp luôn cho đến khổ đau. Do vậy, lý duyên khởi chỉ cho ta thấy khổ đau chính là hậu quả của vô minh.

 

Đây là cách mà Đức Phật đã giải thích tại sao có khổ đau. Nhưng Đức Phật cũng giảng về một chuỗi nhân quả đưa đến sự thoát khổ. Chính cái chuỗi nhân quả này được gọi là “Lý duyên khởi giải thoát” (SN12:23). LDKG bắt đầu với khổ – nói một cách khác, nó bắt đầu ở yếu tố cuối của lý duyên khởi – và, qua mười hai yếu tố nhân quả kết nối khác, nó chỉ cho bạn thấy làm thế nào để tối hậu đi đến giải thoát.

 

Triển vọng chấm dứt khổ đau là một thông điệp vô cùng tích cực. Đôi khi người ta nói đạo Phật bi quan – chỉ thấy nói đến khổ đau – nhưng đây lại là điều hoàn toàn ngược lại. Đức Phật nói rằng nhờ vào khổ đau mà chúng ta có thể đi suốt cho đến giải thoát khỏi cái khổ đau đó.

 

Chúng ta hãy duyệt qua mười hai chuỗi yếu tố của LDKG. Yếu tố đầu là khổ (dukkha). Ở đây không phải chỉ muốn đề cập đến thực tế là có cái khổ mà còn muốn cho chính chúng ta nhận thức được vấn đề. Chỉ khi nào bạn hiểu được là có vấn đề thì bạn mới tìm cách giải quyết. Một phần là phải hiểu rõ về vấn đề khổ đau bình thường trong cuộc sống hàng ngày. Nhưng điều quan trọng hơn là phải thấy phạm vi rộng lớn của khổ đau. Sự hiểu biết này bắt đầu phát sinh khi việc hành thiền của bạn trở nên sâu sắc hơn, và bạn bắt đầu thấy chính mình và thế giới theo một cách khác. Nhưng đặc biệtý tưởng tái sinh ­– nhất là khi chính bạn tự mình thấy được – sẽ khiến cho bạn hiểu rõ phạm vi thực sự của vấn đề.

 

Đạo Phật cho bạn biết là có giải pháp cho vấn đề này. Một khi bạn hiểu là có vấn đềnhận biết có một giáo pháp có thể hướng dẫn bạn tìm ra giải pháp, bạn sẽ có niềm tin (saddha, sự tin cậy, tín nhiệm) với giáo pháp này. Đây là yếu tố thứ hai.

 

Điều đáng ghi nhận trong những lời Phật dạy là nó chỉ cho bạn thấy giải pháp ở chỗ hoàn toàn khác hẳn với những gì bạn tưởng. Bình thường, trong đời sống, chúng ta nghĩ rằng giải pháp cho khổ đau sẽ được tìm thấy trong những quan hệ tình cảm, bạn bè, của cải vật chất, địa vị, quyền thế, được kính trọng, được khen ngợi, v.v. – những điều mà trong đạo Phật được gọi là “các pháp thế gian” (lokadhammā, AN8:6).  Người ta thường nghĩ câu trả lời cho khổ đau nằm ở đó. Nhưng rồi Đức Phật đến và nói cho bạn biết là bạn đã đi tìm không đúng chỗ, rằng giải pháp được tìm thấy ở một nơi khác.

 

Khám phá này của Đức Phật thật là siêu việt. Nó cho bạn có cảm tưởng, ừ nhỉ, đúng là giải pháp phải ở chỗ nào khác, bởi vì đã biết bao lần bạn đã cố gắng tìm hạnh phúc qua những pháp thế gian mà bạn vẫn cứ khổ đau như thường. Trong một nghĩa nào đó, đây chính là bi kịch của con người: chúng ta luôn muốn có hạnh phúc, nhưng thông thường chúng ta lại tìm không đúng chỗ. Cho nên, nên thay vào đó, chúng ta chuốc lấy khổ đau. Khi bạn hiểu là có vấn đề và biết có một giáo lý hứa hẹn cho bạn những giải pháp thực tiễn, niềm tin sẽ khởi lên. Bạn nhận ra rằng có một điều gì đó thật đặc biệt trong những lời giảng dạy này.

 

Niềm tin là một điều tuyệt đẹp. Bạn cảm thấy an toàn vì bạn có được một giáo lý chỉ cho bạn giải pháp giúp bạn thoát khổ. Như đề cập trong nhiều bài kinh, một người không có niềm tin, không có nơi nương tựa, giống như một người băng qua sa mạc. Trừ phi người đó tìm được cách đi băng qua, người đó cuối cùng rồi sẽ không thể chống chọi lại được với sức mạnh của thiên nhiên – nắng nóng, thiếu nước, tất cả những vấn đề trong sa mạc. Nhưng người có niềm tin thì giống như một người đã băng qua khỏi sa mạc (MN39).

 

Bởi vậy niềm tin trong đạo Phật rất quan trọng. Đôi khi người ta nghĩ là niềm tin không thật sự quan trọng và chỉ cần tìm hiểu, nghiên cứu xem điều đó đúng hay sai là đủ rồi. Dĩ nhiên, nghiên cứu, tìm hiểu là điểm chính yếu trong đạo Phật . Tuy nhiên, khi niềm tin mạnh mẽ, nó sẽ trở thành một sức mạnh; thúc đẩy bạn đi vào con đường đạo và giúp bạn đi đúng hướng. Đây là một phẩm chất cốt lõi mà ta phải mang theo trong suốt cuộc hành trình tâm linh. Hơn thế nữa, khi niềm tin được đặt đúng chỗ thì tất cả những yếu tố còn lại sẽ đi theo như một hệ quả tự nhiên. Nó trở thành con đường tự hoàn mãn bởi vì mỗi yếu tố là duyên cho yếu tố sau đó phát sinh, từng giai đoạn một, cho đến khi bạn hoàn toàn giác ngộ.

 

Kết quả trực tiếp của niềm tin là hân hoan (pāmojja), yếu tố thứ ba của chuỗi LDKG. Niềm hân hoan đến từ sự khám phá ra được một điều gì đó thật là quý báu. Bạn đã tìm ra được kim chỉ nam cho ý nghĩa thật sự của đời sống và bạn cảm nhận được đây là những lời giảng dạy ưu việt. Sự liên hệ giữa niềm tinhân hoan được mô tả ở nhiều nơi trong kinh. Chẳng hạn, một trong những pháp quán tưởng quan trọng trong kinh là niệm về “Ân Đức Phật”, “Ân Đức Pháp” và “Ân Đức Tăng”. Hân hoan sẽ sinh khởi trong tâm vì những quán tưởng này được thiết lập trên sự nhận biết về giá trị sâu sắc của những giáo lý trong trong Đạo Phật. Điều này được gọi là atthavedadhammaveda, cảm hứng trong ý nghĩacảm hứng trong Pháp. Nguồn cảm hứng tuyệt vời phát sinh cũng giống như “pāmojja” mà chúng ta đang nói đến ở đây. Như vậy hân hoan đến cùng với cảm hứng và đây là kết quả của niềm tin  (AN6:10)

 

Một khi pāmojja sinh khởi, đạo lộ tự nó sẽ tiếp tục mở ra. Nó là như vậy bởi vì hân hoan khiến cho bạn có niệm và năng lực. Có niệm và năng lực thì khi ngồi xuống hành thiền, bạn sẽ có khả năng giữ được đề mục và bạn sẽ tiến bộ đều đặn. Thiền tập có kết quả. Đôi khi có vẻ như khó nắm bắt được vì sao hành thiền lúc được, lúc không, và đây là lý do tại sao. Hành thiền tốt đẹp khi bạn cảm thấy hân hoan và niềm hứng thú sẽ đến cùng với  niệm và năng lực. Như vậy, phần còn lại của đạo lộ chủ yếu là một tiến trình tự động. Đó là một tiến trình hành thiền dẫn bạn đi từng giai đoạn một cho suốt đến giác ngộ. Đây chính là tâm điểm của tiến trình nhân quả của LDKG.

 

Vậy tiến trình này xảy ra như thế nào? Bạn ngồi xuống, theo dõi hơi thở, thật dễ dàng. Khi hành thiền phát triển, hỷ (pīti) bắt đầu khởi lên trong bạn. Đây là yếu tố thứ tư của chuỗi nhân quả này. Khi hành thiền tiến bộ thêm, hỷ lạc lắng xuống và bạn có cảm giảc tĩnh lặng (passaddhi, khinh an), yếu tố thứ năm. Sự tĩnh lặng này, khi được phát triển, sẽ trở thành một cảm giác mãn nguỵên sâu xalạc (sukha), yếu tố thứ sáu. Và rồi, điều này dẫn đến tâm định (samādhi), yếu tố thứ bảy, đây là khi mức thiền trở nên vững mạnh thật sự. Khi tâm ra khỏi trạng thái định thâm sâu, bạn sẽ có sự hiểu biếtcái nhìn đúng như sự thật (yathā-bhūta-ñāṇa-dassana, tri kiến như chân). Đây là yếu tố thứ tám. Bởi vì samādhi khắc phục những chướng ngại (triền cái) – cái tâm ô nhiễm ngăn cản không cho bạn thấy đúng đắn sự thật – bây giờ, lần đầu tiên bạn thấy rõ mọi việc.

 

Khi nhìn thấy sự vật một cách đúng đắn, bạn sẽ thấy đau khổ kết nối chặt chẽ với sự hiện hữu như thế nào. Bạn sẽ muốn từ bỏ (nibbidā, yếm ly) tất cả. Đây là yếu tố thứ chín. Bạn nhận ra rằng mình phải thoát ra khỏi bánh xe luân hồi. Từ bỏ dẫn đến nhàm chán (virāga, ly tham), yếu tố thứ mười. Virāga là sự chấm dứt ham muốn, đối nghịch lại với khát ái, sự tham đắm thế gian. Và khi sự say đắm, ham muốn biến mất, bạn được giải thoát (vimutti), yếu tố thứ mười một. Khi được giải thoát, bạn cũng sẽ có tri kiến rằng bạn đã được giải thoát (khaye ñāṇaṃ)  Đây là yếu tố thứ mười hai và là yếu tố cuối cùng của chuỗi LDKG. Như vậy, đây là phương cách từ khổ đau dẫn đến giải thoát.

 

Để có một cái nhìn sâu sắc hơn về LDKG, tôi muốn xem xét khởi điểm của chuỗi từ một góc nhìn khác. Tôi muốn tập trung vào vài bước đầu của trình tự, bởi vì làm cho đúng những bước này rất quan trọng. Nếu bạn thực hiện đúng đắn những bước đầu, những bước còn lại sẽ tiếp theo như một quy trình tự nhiên.

 

Phối cảnh sâu xa này có thể có được bằng cách xem xét một diễn giải phổ biến khác về LDKG thường gặp trong một số bài kinh (thí dụ AN11:3). Diễn giải này, thay vì bắt đầu bằng khổ đau và niềm tin, bắt đầu bằng giới hạnh. Giới hạnh khiến ta không hối hận (avipaṭisāra), và không hối hận phát sinh hân hoan, pāmojja. Và những phần còn lại thì chủ yếu giống như đã trình bầy ở trên.

 

Vậy thì pháp này vận hành như thế nào? Sự hoan hỷ phát sinh từ giới hạnh thuộc về bản chất tâm linh và không liên quan gì đến những niềm vui của giác quan. Đó là niềm hân hoan vì có một tấm lòng tốt đẹp. Những hân hoan đó luôn gắn liền với niệm và năng lượng. Khi vui, tâm bạn có một nguồn năng lượng tự nhiên, nguồn năng lượng đến từ những cảm giác tốt và tích cực. Và bạn có niệm vì niềm vui tâm linh khiến cho giây phút hiện tại thú vị.

 

Trong kinh ta thấy lập đi lập lại nhiều lần rằng hành thiền bắt đầu với niệm. Khi bạn đọc những gì Đức Phật giảng về theo dõi hơi thở trong bài kinh Quán niệm Hơi thở (Ānāpānasati Sutta, MN118), khi bạn đọc Đức Phật dạy gì trong bài kinh Satipaṭṭhāna về bốn chú tâm của niệm (MN10), bạn sẽ nhận ra niệm là điều kiện tiên khởi cho hành thiền. Nếu không có niệm, bạn sẽ không thể hành thiền đúng đắn được. Thông hiểu điều này rất là quan trọng. Không đủ niệm là lý do chính tại sao đại đa số người ta không thể đạt đến những trạng thái thiền thâm sâu.

 

Bởi vì tầm mức quan trọng của niệm, bạn cần phải học để biết cách thẩm định cường độ của niệm và biết mình đã có đủ tỉnh thức để hành thiền chưa. Hãy tự hỏi “Tôi có thật sự hay biết? Tôi có ở đây trong hiện tại? Tâm tôi có đi lung tung khắp nơi? Tôi có bấn loạn không? Tôi có thấy rõ ràng những gì đang xảy ra không?” Nếu tâm bạn tương đối yên ổn và bạn có ý thức rõ ràng – dù vẫn còn một chút suy nghĩ nhưng không nhiều lắm – đó là lúc mà hành thiền thật sự có hiệu quả.

Bởi vì không thể có thiền đúng đắn nếu không có niệm, bởi vì đó là nền tảng nên bạn cần phải xây dựng nó cho thật vững chắc, bạn cần phải biết rõ ràng làm sao để có niệm. Niệm là một đề tài “thời thượng” của tâm lý học Tây phương trong nhiều năm qua. Thông thường những thảo luận xoay quanh về việc niệm sẽ giúp bạn vượt qua các vấn đề như thế nào, những phẩm chất của niệm là gì, làm sao có thể đo lường bằng khoa học, v.v. Nhưng một điều thường thấy thiếu vắng  là một cuộc thảo luậný nghĩa về nguyên nhân đưa đến niệm. Để hiểu được nguyên nhân đưa đến niệm là hiểu được làm thế nào để có được niệm.

 

Người ta thường nghĩ rằng nếu dùng sức mạnh của ý chí, nếu mình cố gắng hết sức, bạn sẽ có niệm. Nhưng nếu tâm bạn bị tác động bởi phiền não thì dù bạn cố gắng đến đâu cũng không thể có niệm được. Niệm không phải chỉ là giữ yên lặng hay cố gắng hết sức – như thế chưa đủ. Bạn phải chuẩn bị tâm để có thể có  niệm.

 

Vậy thì nguyên nhân đưa đến niệm là gì? Trong biến thể của LDKG, yếu tố trước khi có pāmojja (hân hoan) – như tôi đã nói, đến cùng với niệm – là sự không hối hận. Không hối hận đến từ giới hạnhđạo đức, sự tử tế và có tâm tốt đẹp. Ở đây, hối hận không phải chỉ có nghĩa là cảm thấy tồi tệ vì đã làm một việc thiếu đạo đức. Nó bao gồm tất cả những gì có ảnh hưởng xấu đến tâm do chính những hành vi của mình. Khi tâm mệt mỏi, ngu si, bất an, tiêu cực, hay trạng thái tương tự, thông thường là kết quả của những hành vi chưa đủ trong sạch. Như vậy, hối hận ở đây bao gồm tất cả những chướng ngại làm cản trở không cho bạn cảm thấy được sự hân hoan, niềm vui tự nhiên có ở trong tâm. Điều này có nghĩa là nguyên nhân đưa đến niệm là giới hạnh, và nếu khônggiới hạnh thì niệm sẽ quá yếu cho hành thiền. Do vậy, nếu chuyện hành thiền của bạn không đi đến đâu hay không tiến bộ, bạn cần phải xét lại xem mình có thể làm gì để cải thiện giới hạnh của mình.

 

Trong Đạo Phật, quan niệm về giới hạnh rất rộng lớn. Dĩ nhiênbao gồm giới hạnh về hành động đúng đắn – tử tế, tránh những hành động xấu. Nó cũng bao gồm giới hạnh của lời nói tốt đẹp – nói những điều tử tế, không nói những điều xấu. Cho đại đa số, chỉ nội trong lãnh vực này cũng đã có rất nhiều điều cần phải làm. Một trong những điều quan trọng cần ghi nhớ, giới hạnh không những là tránh làm xấu mà còn phải làm việc thiện nữa.Vậy thì trong cuộc sống, bạn hãy đi làm việc thiện, hãy nói những lời tử tế, hãy làm những việc nho nhỏ tử tế. Khi làm được như vậy là bạn đang xây dựng một cái tâm đẹp đẽ. Và điều này sẽ là một sức mạnh hỗ trợ cho việc hành thiền của bạn.

 

Nhưng để cho niệm được thiết lập vững chắc, giới hạnh về thân và khẩu thôi chưa đủ. Bạn còn cần giới hạnh của tâm. Lúc đầu khi thực tập giới hạnh về thân và khẩu qua sự thu thúc, tâm bạn vẫn còn ô nhiễm. Để đối phó với sự ô nhiễm này, bạn cần phải làm việc với cái tâm bằng cách nào để bạn có thể thay đổi cách suy nghĩ. Đôi khi chúng ta cho điều này là khó làm, nhưng với quyết tâm đầy đủ và sự bền chí thì ai cũng có thể làm được. Và đây là điều cần thiết để cho việc hành thiền của bạn có thể phát triển.

 

Phiền não quan trọng nhất cần phải vượt quasân hận dưới mọi hình tướng của nó, kể cả sự khó chịu và các trạng thái tiêu cực (AN3:68). Sân hận là một trạng thái tâm tạo nên rất nhiều đau khổ cho chúng ta và cho những người chung quanh ta. Nếu chúng ta thật sự nghiêm túc về con đường tâm linh, thì đây là lãnh vực mà ta thật sự cần phải chú tâm đến. Để khắc phục được sân, chúng ta phải tự hỏi làm sao mình có thể thay đổi cách nhìn về thế giới chung quanh. Có thể nào có một cách nhìn nào khác khiến cho những trạng thái tiêu cực không khởi lên? Bạn sẽ thấy rằng nếu mình chịu khó nỗ lực quán chiếu như thế, theo thời gian bạn sẽ dần dần thay đổi – bạn sẽ bắt đầu nhìn thấy mọi chuyện theo một cách mới; bạn sẽ bắt đầu nhìn thế gian một cách từ binhân ái hơn. Khi sân hận, khó chịu và tiêu cực bắt đầu giảm bớt, bạn sẽ cảm nhận được là mình đã trở nên một người tốt hơn, trong sạch hơn. Thật tuyệt diệu khi quan sát thấy điều này đang xảy ra trong chính bạn. Dần dần, bạn thay đổi; bạn tự chuyển hóa mình thành một con người khác.

 

Người ta thường nghĩ rằng sức mạnh của ý chí là cách để giải quyết những trạng thái tâm tiêu cực. Họ nghĩ là họ có thể bắt buộc họ phải dễ thương, họ có thể đè bẹp sân hận, nghiền nát sự tiêu cực. Và thỉnh thoảng khi bạn đọc kinh thấy có vẻ là như vậy. Bạn đọc thấy là bạn cần phải “tiêu diệt” trạng thái tâm tiêu cực, “ loại bỏ” chúng , “hủy diệt” chúng. Từ ngữ dùng có thể rất mạnh và rất dễ dàng để nghĩ rằng kinh văn muốn ám chỉ đến “sức mạnh” hay quyền lực. Nhưng thật ra Đức Phật muốn nói cách tốt nhất để vượt qua những trạng thái tiêu cực là dùng trí tuệ (MN19).

 

Dùng trí tuệ là tự hỏi xem sân sẽ dẫn bạn đến đâu. Nếu bạn suy nghiệm về điều này, bạn sẽ thấy nó luôn luôn dẫn đến đau khổ, cho chính bạn và người khác (MN19). Nó dẫn đến đau khổ cho chính bạn vì khi so sánh ta sẽ thấy sân hậnđau đớn so với trạng thái tâm bình an. Nó dẫn đến đau khổ cho người khác vì khi sân chúng ta có khuynh hướng làm nhiễu hại đến người khác. Hơn thế nữa, bạn tạo bất thiện nghiệp khi bạn sân, nhất là khi bạn hành động vì sân hận. Bạn tự gây ra bất hạnh cho mình ngay ở đời này lẫn cả các đời sau. Như vậy, tính cách tiêu cực tạo ra cả một chuỗi phản ứng với các kết quả khó chịu và phiền muộn. Hãy tự nhắc nhở bạn như thế. Hãy suy ngẫm thường xuyên về điều này. Sân hận, tiêu cực, làm hại – đó là lãnh vực nguy hiểm; nó thật sự sẽ dẫn đến đau khổ cho bạn và cho những người chung quanh. Nhận thức càng mạnh mẽ bao nhiêu, rằng đây là một vấn đề thật sự, thì bạn càng có nhiều khả năng để quay lưng lại với nó.

 

Khi nhận thức về nguy hiểm của sân hận trở nên vững chắcrõ ràng, nó trở thành một phương tiện hữu hiệu trong việc phát triển tâm. Khi một tư tưởng sân bắt đầu nẩy sinh, bạn chỉ cần khởi lên nhận thức về sự nguy hiểm là tư tưởng sân này sẽ biến mất. Trí tuệ làm việc này cho bạn. Nhưng hãy nhớ rằng để xây dựng trí tuệ cần rất nhiều thời gian, như hầu hết tất cả những việc làm trên con đường tâm linh. Thật ra không phải là khó nhưng cần phảiquyết tâmkiên trì. Dần dần bạn sẽ thấy sự nguy hiểm ngày càng rõ ràng hơn. Bạn càng hiểu rõ bao nhiêu thì bạn càng có khả nãng ðể khắc phục sân hận mỗi khi nó khởi lên. Cũng chính vì vậyĐức Phật dùng những chữ như “tiêu diệt”, “loại bỏ”, “ hủy diệt” để diễn tả sự khắc phục những tư tưởng này. Những từ này không có ý nói đến sức mạnh của ý chí mà nói đến một phương tiệnhiệu quả hơn nhiều, đó là phương tiện trí tuệ. Trí tuệ, khi được phát triển tốt đẹp, sẽ cắt đứt những điều này – cũng giống như nó “tiêu diệt” những trạng thái tâm tiêu cực. Chúng sẽ đơn giản biến mất ngay. Hãy tiếp tục quán chiếu về sự nguy hiểm của sân hận ở dưới tất cả mọi hình thứcCuối cùng rồi bạn sẽ có một phương tiện hữu ích cho việc tu tập tâm linh.

 

Một hậu quả tiêu cực khác của sân hận là nó hủy hoại trí tuệ (MN19). Trí tuệ là một phẩm chất tâm linh quan trọng nhất. Chính trí tuệ đã khiến cho bạn hiểu sự khác biệt giữa hạnh phúc và khổ đau, quan trọng hơn nữa, hiểu được sự khác biệt giữa nguyên nhân của hạnh phúcnguyên nhân của đau khổ. Trí tuệ giúp chúng ta giải quyết các vấn đề của cuộc sống.

 

Đức Phật nói trí tuệ diệt là hệ quả của những trạng thái tâm bất thiện (paññānirodhika, MN19). Xét tầm mức quan trọng của trí tuệ, phải chăng đó không phải là lý do chính đáng đủ cho ta từ bỏtiêu diệt những trạng thái tâm bất thiện hay sao? Hãy so sánh tâm khi bạn giận và khi bạn không giận. Hãy nhìn sự khác biệt. Bạn sẽ nhận thấy rằng khi sân giận, bạn không thể thấy thế gian một cách rõ ràng. Bạn không hiểu đâu là phải, đâu là trái – tất cả mọi việc trở nên đảo ngược, méo mó đi bởi giận dữ. Hãy xem nó phá hủy trí tuệ như thế nào. Quán chiếu về những điều này rất có hiệu quả.

 

Một cách quán chiếu khác được Đức Phật khuyên là hãy xem thử sân giận tổn hại đến tâm như thế nào (MN19). Hãy suy ngẫm xem bạn cảm thấy tâm mình như thế nào khi sân giận so với tâm khi bình an. Sự khác biệt thật là lớn lao! Khi sân giận bạn bị thiêu đốt bên trong. Tại sao bạn lại muốn sân giận khi mà có một lựa chọn khác là không sân giận?

 

Những quán chiếu như thế là một trong những khía cạnh đầy oai lực của giáo pháp và cũng hữu hiệu nhất để bạn vượt qua những trạng thái tâm bất thiện. Nếu bạn muốn thay đổi cách suy nghĩ của bạn, trí tuệcon đường, chứ không phải sức mạnh của ý chí.

 

Với thời gian, khi được khai mở với một nhân sinh quan mới, bạn sẽ thấy những ô nhiễm của bạn giảm bớt, những vấn đề khó khăn trong đời sống của bạn bớt đi, và pāmojja – niềm hân hoandần dần tăng lên trong tâm bạn. Hân hoan đến từ sự thanh tịnh, từ thực tế là bạn đã trở nên một người tốt hơn. Và khi pāmojja trở nên mạnh hơn, niệm cũng mạnh hơn. Chính những ô nhiễm của tâm đã ngăn không cho niệm thực sự trở thành một sức mạnh tinh thần. Ô nhiễm càng giảm đi, niệm càng mạnh lên. Nếu bạn có thể làm giảm bớt những chướng ngại trong sự thực tập hàng ngày, bạn sẽ thấy mỗi lần bạn đi hành thiền nhiều ngày, bạn có thể theo dõi những điều mà trước đây bạn không thể theo dõi.

 

Khi bạn theo dõi hơi thở mà không đủ niệm, tâm bạn có khuynh hướng đi lung tung khắp nơi. Bạn hoàn toàn không làm chủ được tâm mình – thay vào đó, ô nhiễm lôi bạn đi lòng vòng. Nhưng một khi niệm có mặt, bạn sẽ cảm thấy bạn làm chủ được chính mình. Và bởi vì bạn có cảm giác tự chủ, bạn có thể hướng sự chú ý của mình vào hơi thở hay vào bất cứ điều gì bạn muốn chú tâm vào. Trong kinh có nói rằng niệm được xây dựng đúng đắn là một sức mạnh (SN50:1). Chính vì vậy, niệm rất quan trọng.

 

Vì niệm phát sinh từ giới hạnh, nhất là giới hạnh của tâm, cho nên nỗ lực vượt qua những khuynh hướng tiêu cực của tâm là điều rất quan trọng. Đôi khi rất khó khăn, vì những khuynh hướng và thói quen của ta thường đã thâm căn cố đế. Cần phảiquyết tâmkiên trì để thay đổi cách bạn nhìn sự việc, cách bạn hành động. Nhưng dần theo năm tháng, bạn sẽ thấy sự thay đổi trong bạn. Một khi bạn thay đổi, việc hành thiền của bạn trở nên an tịnh và sâu lắng hơn. Thật là tuyệt vời biết mấy khi hành thiền bắt đầu tiến triển, khi bạn có thể giữ được đối tượng hành thiền và thấy tiến bộ thật sự. Khi niệm đã trở thành niệm lực, với niềm hoan hỷ trong tâm, bạn chỉ cần ngồi xuống, theo dõi hơi thở và việc hành thiền sẽ tự nó diễn tiến.

 

Khi hành thiền tự động diễn ra, bạn không cần đến sức mạnh. Tất cả những gì bạn cần làm là chỉ ngồi đó, hay biết, và theo dõi hơi thở. Bởi vì bạn có niệm, việc theo dõitự nhiên và dễ dàng, không cần đến sức mạnh của ý chí. Mỗi giây phút trôi qua, hành thiền càng lúc càng trở nên mạnh mẽ, và càng lúc càng trở nên thâm sâu. Tất cả những gì bạn cần phải làm chỉ là hiện diện ở đó.

 

Đến một thời điểm nào đó trong tiến trình này, pīti, hỷ, bắt đầu phát sinh. Pīti là một cảm giác của niềm vui. thường biểu hiện mạnh mẽ qua thành phần thể chất. Nó có thể được trải nghiệm như những làn sóng phỉ lạc chạy qua khắp châu thân. Thật ra, nó chỉ là sự tăng thêm cường độ của hân hoan đã có được trước đó. Cái mà ta cảm nhận ở đây là khởi đầu của niềm vui thuần túy của tâm, niềm hạnh phúc tinh thần. Sau buổi thiền, ta nên suy ngẫm về những tính chất của những cảm giác này, xem thử nó khác với những niềm vui vật chất như thế nào. Bạn sẽ nhận ra rằng pīti là kết quả của tâm thanh tịnh, đặc biệt là sự vắng mặt của sân hậntham ái mạnh mẽ. Sự thanh tịnh này là kết quả của việc thực hành giới hạnh trước đó. Bằng trực giác, bạn biết đó là một cảm giác thiện lành. Và đồng thời cũng cảm thấy rất dễ chịu. Bạn biết mình đã đi đúng hướng và bạn cần phải phát triển điều này thêm nữa.

 

Bạn tiếp tục theo dõi hơi thở. Dần dần, các khía cạnh “thú vị” của pīti bắt đầu lắng xuống và bạn kinh nghiệm được một cảm giác tĩnh lặng sâu hơn, passaddhi (khinh an). Khi sự tĩnh lặng vào sâu hơn nữa, bạn sẽ kinh nghiệm một cảm giác bình an thâm sâu của hạnh phúc, sukha (lạc). Với mỗi bước, hành thiền càng trở nên tuyệt đẹp và mạnh mẽ hơn. Ở thời điểm này bạn cảm thấy hoàn toàn mãn nguyện đến nỗi tâm không muốn đi nơi nào khác. Đây là bắt đầu của samādhi (định). Một lần nữa, tất cả chuyện này hoàn toàn tự nó xảy ra. Bạn chỉ cần ngồi đó theo dõi cả tiến trình mở ra.

 

Samādhinhất điểm tâm, khả năng tập trung một cách dễ dàng vào một đối tượng, dù là hơi thở, ánh sáng trong tâm hay bất cứ điều gì. Ở thời điểm này, tâm rất vững vàng; nó gắn liền với đối tượng mà không dao động. Bạn để cho samādhi phát triển cho đến khi năm triền cái hoàn toàn bị loại trừ , tâm chói sánghoàn toàn tập trung. Tiến trình này lên đến đỉnh điểm là khi đạt được jhanas (các tầng thiền-na).

 

Sau khi bạn ra khỏi samādhi, tâm bạn trong sáng và mạnh mẽ. Nhờ sự trong sáng này mà bạn biết và thấy sự vật đúng như nó là, yathā-bhūta-ñāṇa-dassana (tri kiến như chân). Thấy sự vật như nó là chỉ có thể làm được sau samādhi, bởi vì chỉ với samādhi mà sự loại trừ các triền cái mới được bền vững (MN68). Đây là một trong những lý do chính tại sao jhanas thuận lợi cho việc thấy sự việc như nó là.

 

Như tôi đã nói lúc đầu, gốc rễ của đau khổ là vì sự hiểu biết sai lầm của ta về sự vận hành thật sự của thế gian. Ta thấy hạnh phúc trong khổ đau. Ta thấy một cái ngã dù rằng chẳng hề có điều này. Ta nghĩ mọi vật sẽ trường tồn mặc dù nó có thể biến mất bất cứ lúc nào. Bằng cách nhìn thấy sự vật như nó là, chúng ta sẽ chấn chỉnh lại cái nhận định bị bóp méo, vô minh hay si mê, căn nguyên của vấn đề.

 

Bởi vậy khi ta loại trừ chướng ngại bằng samādhi, vô minh bị yếu dần và bào mòn. Vì vô minhyếu tố đầu tiên của lý Duyên khởi, mỗi yếu tố sau đó, kể cả đau khổ đều bị ảnh hưởng bởi cường độ của vô minh. Như thế có nghĩa là vô minh càng yếu thì khổ đau càng vơi, cho cả bây giờ và mai sau.

 

Nhìn thế gian như nó thật sự là và thông hiểu toàn bộ khổ đau trên đời, nó đi sâu đến như thế nào, quả thật là một bừng tỉnh đáng kinh ngạc. Đức Phật nói giống như bạn bị bọc kín trong một cái vỏ, bất chợt cái vỏ bị nứt bể ra, bạn nhìn thấy thế giới lần đầu tiên (MN53). Giống như bạn bị bao trùm bởi bóng tối và bất chợt có người bật đèn lên (MN36).

 

Thấy được Pháp trọn vẹn sẽ khiến cho bạn có một quan điểm hoàn toàn mới về đời sống. Bởi vì bạn thấy toàn bộ vấn đề, bạn nhận ra rằng không có lối thoát khỏi khổ đau trong sự hiện hữu thế tục và bạn nhàm chán tất cả. Đó là nibbida (yếm ly), sự chối bỏ tất cả mọi thứ, bởi vì bạn thấy đau khổ đi sâu đến như thế nào.

 

Khi bạn nhàm chán tất cả, không còn gì để bám víu vào nữa thì ham muốn trở thành không thể có. Đó là ly tham, viraga. Bởi vì tất cả là khổ đau, bạn xả bỏ và bạn không bao giờ còn có thể ham muốn gì nữa. Khi bạn nhận ra rằng đi tìm hạnh phúcphù phiếm, tham ái sẽ chấm dứt. Đó là giải thoát, vimutti. Cuối cùng bạn được giải thoát, giải thoát khỏi mọi vấn đề của hiện hữu. Và bạn có tri kiến là mình đã được giải thoát. Bạn đạt đến cái hạnh phúc tối đa có thể có. Đó là những gì mà đạo lộ của Đức Phật hứa hẹn cho bạn.

 

Nó rất là thâm thúy. Mặc dù những lời dạy này có vẻ khó tiếp cận, nhưng tôi tin, hiểu biết trọn vẹn cả bản đồ rất quan trọng, để biết tất cả mọi thứ dẫn đi đến đâu, để thoáng thấy một khía cạnh thâm sâu của Giáo pháp của Đức Phật. Theo kinh nghiệm của tôi, cái thoáng thấy này rất bổ ích, nó thúc đẩy chúng ta tiếp tục con đường tu tập.

 

Nhưng trên thực tế, điều quan trọng nhất của LDKG là nó chỉ cho ta thấy sự thành công trên con đường tu Phật, thành công trong hành thiền, tùy thuộc vào sự trong sạch của hành vi, nhất là sự trong sạch của tâm chúng ta. Chỉ khi nào bạn có thể giảm thiểu ô nhiễm của tâm, nhất là giận dữ, tiêu cực, và khía cạnh thô tháo của tham ái, thì việc hành thiền định mới có thể bắt đầu. Đây là một tiến trình tiệm tiến và mỗi bước trên con đường đạo đem đến một phần thưởng. Nếu bạn muốn hạnh phúcmãn nguyện thật sự thì đây là con đường duy nhất.

 

(Bài giảng của Ajahn Brahmali ở Trung tâm Phật giáo Dhamāloka, Tây Úc, ngày 23/03/2012)

Dịch Việt: Minh Nguyệt.

Hiệu đính Bình An Sơn.

 

Ajahn Brahmali was born in Norway in 1964. He first became interested in Buddhism and meditation in his early 20s after a visit to Japan. Having completed degrees in engineering and finance, he began his monastic training as an anagarika (keeping the eight precepts) in England at Amaravati and Chithurst Buddhist Monasteries.

After hearing the 'word of Brahm' he decided to travel to Australia to train at Bodhinyana Monastery. Ajahn Brahmali has lived at Bodhinyana Monastery since 1994, and was ordained as a Bhikkhu, withAjahn Brahm as his preceptor, in 1996.

Ajahn Brahmāli teaches the monastic rules and gives Pali classes to the monks and anagarikas at Bodhinyana Monastery.

 

 

 

 

Tiểu sử tác giả:

Ajahn Brahmali sinh năm 1964 ở Na Uy. Sư bắt đầu chú ý đến đạo Phật và hành thiền vào khoảng năm 20 tuổi sau khi viếng thăm Nhật Bản. Sau khi đã học xong ngành kỹ sư và tài chính, Sư bắt đầu đời sống tu hành như một giới tử (giữ 8 giới) ở Tu viện Amaravati và Tu viện Chithurst, Anh Quốc.

Sau khi được nghe những lời giảng dạy của ngài Ajahn Brahm, Sư quyết định sang Tây Úc để tu tập tại Tu viện Bodhinyana. Sư Brahmali sống ở tu viện Bodhinyana từ năm 1994 và thọ cụ túc giới với Ajahn Brahm để trở thành tỳ kheo vào năm 1996.

Ajahn Brahmali dạy giới luật tu sĩ và tiếng Pali cho các sư và giới tửTu viện Bodhinyana.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16435)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11882)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12069)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12754)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12707)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10221)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13951)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10209)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13677)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16246)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11945)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12955)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11625)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12649)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10776)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10969)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10923)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11863)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12727)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11044)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12600)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11295)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12487)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14090)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10838)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10510)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11166)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11974)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13102)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12337)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15323)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14313)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12076)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15313)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11986)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12387)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11148)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12065)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10594)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12542)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13145)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14775)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12639)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16526)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19624)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12233)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13471)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11928)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11619)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12749)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14493)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15650)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13596)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12876)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 17994)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11147)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12157)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13031)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10284)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant