Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Hộ Trì Các Căn

15 Tháng Sáu 201519:10(Xem: 7020)
Hộ Trì Các Căn

HỘ TRÌ CÁC CĂN


Giác Hạnh Hiếu

HỘ TRÌ CÁC CĂNHộ trì các căn (Indriyesu guttadvàro) hay phòng hộ các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) là một trong các biện pháp tu tập căn bản của đạo Phật, có công năng giúp ổn định tâm thức, không để tâm bị kích động chuyển biến chạy theo ngoại cảnh khiến tăng trưởng tham-sân-si. Thông thường, tâm không đứng yên một chỗ; nó hết nhảy theo đối tượng này lại chạy theo đối tượng khác trong thế giới của những ý tưởng và cảm thức biến loạn. Do duyên sự tiếp xúc giữa các căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) và các trần cảnh (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) mà tâm bắt đầu hiện khởi và chuyển biến tùy theo đối tượng mà nó cảm thấy thích thú hoặc không thích thú. Những gì nó thích thú thì nó nương theo, bám đuổi và cố giành giật cho bằng được; những gì nó không thích ý thì nó cố lẩn tránh, xua đuổi hoặc rơi vào phản ứng giận dữ. Vì lẽ đó, nó làm cho con người không ngừng quay cuồng trong thế giới của các đối cực, hân hoan tìm kiếm cái thích ý và bực phiền cố tránh cái không hài lòng. Nó đưa đẩy con người trôi dạt từ cực này sang cực khác trong thế giới cố chấp đối đãi, khiến cho con người luôn cảm thấy mệt mỏicăng thẳng, hết vui mừng lại đến buồn rầu, hết sung sướng thì sanh khổ đau. Sở dĩ như vậy là bởi con người không chú ý nhận biết tâm mình và không biết cách phòng hộ các căn.

Đức Phật cho rằng các căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) có món ăn riêng biệt của chúng tức các cảnh giới tương ứng (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) và chúng thường xuyên tranh giành nhau trong việc tìm kiếm cảnh giới quen thuộc có món ăn thích hợp. Chúng giống như các loài vật hoang dã, nếu cứ để mặc cho chúng tự do chạy theo các cảnh giới thỏa thích của chúng thì thân tâm (con người) sẽ bị chúng lôi kéo, chi phối và sau cùng trở thành nô lệ cho bản năng ham muốn không biết no chán của chúng. Nói cách khác, con người khó tránh khỏi sự mệt mỏiphiền lụy, nếu cứ buông thả các căn, không biết cách phòng hộ và chế ngự các ham muốn thái quá của các giác quan. Đức Phật cho chúng ta các định nghĩa và ảnh dụ minh họa:

“Và này các Tỷ-kheo, thế nào là không hộ trì (các căn)? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, thiên chấp sắc khả ái, ghét bỏ sắc không khả ái, sống với thân niệm không an trú, với tâm nhỏ hẹp. Vị ấy không như thật tuệ tri tâm giải thoát, tuệ giải thoát; chính ở nơi đây, các ác, bất thiện pháp ấy khởi lên không được đoạn diệt không có dư tàn… khi tai nghe tiếng… khi mũi ngửi hương… khi lưỡi nếm vị… khi thân cảm xúc… khi ý nhận biết pháp, thiên chấp pháp khả ái, ghét bỏ pháp không khả ái, sống với thân niệm không an trú, với tâm nhỏ hẹp. Vị ấy không như thật tuệ tri tâm giải thoát, tuệ giải thoát; chính ở nơi ấy, các ác, bất thiện pháp ấy khởi lên không được đoạn diệt không có dư tàn.

 như, này các Tỷ-kheo, có người bắt được sáu sinh vật, giới loại khác nhau, chỗ tìm món ăn khác nhau, và cột chúng với một sợi dây vững chắc. Sau khi bắt được con rắn, người ấy cột với một sợi dây vững chắc. Sau khi bắt được con cá sấu, người ấy cột với một sợi dây vững chắc. Sau khi bắt được con chim, người ấy cột với một sợi dây vững chắc. Sau khi bắt được con chó, người ấy cột với một sợi dây vững chắc. Sau khi bắt được con giả-can, người ấy cột với một sợi dây vững chắc. Sau khi bắt được con khỉ, người ấy cột với một sợi dây vững chắc. Sau khi cột chúng với những sợi dây vững chắc, người ấy cột một cái gút ở chính giữa và thả chúng đi. Này các Tỷ-kheo, sáu con sinh vật ấy, với giới loại sai khác, với chỗ tìm món ăn sai khác, mỗi con sẽ lôi kéo tùy theo chỗ tìm món ăn và giới loại sai biệt của mình.

Con rắn lôi kéo, nghĩ rằng: “Ta sẽ đi vào gò mối”. Con cá sấu lôi kéo, nghĩ rằng: “Ta sẽ đi vào trong nước”. Con chim lôi kéo, nghĩ rằng: “Ta sẽ bay lên trời”. Con chó lôi kéo, nghĩ rằng: “Ta sẽ đi vào làng”. Con giả-can lôi kéo, nghĩ rằng: “Ta sẽ đi vào nghĩa địa”. Con khỉ lôi kéo, nghĩ rằng: “Ta sẽ đi vào rừng”. Này các Tỷ-kheo, khi nào sáu con sinh vật ấy trở thành mệt mỏi, khi ấy, con sinh vật nào mạnh hơn các sinh vật còn lại, được chúng đi theo, chúng tuân theo, chúng phục tùng. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo thân niệm không tu tập, không làm cho sung mãn, con mắt sẽ lôi cuốn nó đối với các sắc khả ái và ghét bỏ đối với các sắc không khả ái. Tai sẽ lôi cuốn nó đối với các sắc khả ái và ghét bỏ đối với các sắc không khả ái. Mũi sẽ lôi cuốn nó đối với các sắc khả ái và ghét bỏ đối với các sắc không khả ái. Lưỡi sẽ lôi cuốn nó đối với các sắc khả ái và ghét bỏ đối với các sắc không khả ái. Thân sẽ lôi cuốn nó đối với các sắc khả ái và ghét bỏ đối với các sắc không khả ái. Ý sẽ lôi cuốn nó đối với các pháp khả ái và ghét bỏ đối với các pháp không khả ái.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, là không hộ trì. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hộ trì?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, không thiên chấp các sắc khả ái, không ghét bỏ các sắc không khả ái, sống với thân niệm an trú, với tâm vô lượng. Vị ấy như thật rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát; chính ở nơi đây, các ác bất thiện pháp khởi lên được đoạn diệt không có dư tàn… khi tai nghe tiếng… khi mũi ngửi hương… khi lưỡi nếm vị… khi thân cảm xúc… khi ý biết các pháp, không thiên chấp các pháp khả ái, không ghét bỏ các pháp không khả ái, an trú thân niệm, với tâm vô lượng. Vị ấy như thật rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát; chính ở nơi đây các ác bất thiện pháp khởi lên được đoạn diệt không có dư tàn.

 như, này các Tỷ-kheo, có người bắt được sáu con sinh vật, giới loại khác nhau, chỗ tìm món ăn khác nhau, và cột chúng với một sợi dây vững chắc. Sau khi bắt được con rắn, người ấy cột với một sợi dây vững chắc. Sau khi bắt được con cá sấu… Sau khi bắt được con chim… Sau khi bắt được con chó… Sau khi bắt được con giả-can… Sau khi bắt được con khỉ, người ấy cột với sợi dây vững chắc. Sau khi cột chúng với sợi dây vững chắc, người ấy cột vào một cái cột hay cái trụ vững chắc. Rồi, này các Tỷ-kheo, sáu con sinh vật ấy, với giới loại sai khác, với chỗ tìm món ăn sai khác, mỗi con sẽ lôi kéo, tùy theo chỗ tìm món ăn và giới loại sai biệt của mình… Này các Tỷ-kheo, khi nào sáu con sinh vật ấy trở thành mệt mỏi, chúng sẽ đứng gần bên, ngồi gần bên, nằm gần bên cái cột ấy hay cái trụ ấy. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo thân niệm được tu tập, được làm sung mãn, con mắt không lôi kéo vị ấy theo các sắc khả ái, đối với các sắc không khả ái, không có ghét bỏ… ý không lôi kéo vị ấy theo các pháp khả ái, đối với pháp không khả ái, không có ghét bỏ.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hộ trì.

Cái cột hay cái trụ vững chắc, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với thân niệm. Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy học tập như sau: “Chúng ta sẽ tu tập thân niệm, làm cho sung mãn, làm cho như thành cỗ xe, làm cho như thành cơ sở, an trú, tích tập, khéo nỗ lực”. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các ngươi cần phải học tập”1.

Về phương pháp phòng hộ các căn, Đức Phật nêu rõ:

  đây, v Thánh đ t, khi mt thy sc, không nm gi tướng chung, không nm gi tướng riêng. Nhng nguyên nhân gì vì nhãn căn không được chế ng, khiến tham ưu, các ác, bt thin pháp khi lên, v y t chế ng nguyên nhân y, h trì nhãn căn, thc hành s h trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng… mũi ngi hương lưỡi nếm v… thân cm xúc… ý nhn thc các pháp, v y không nm gi tướng chung, không nm gi tướng riêng. Nhng nguyên nhân gì vì ý căn không được chế ng, khiến tham ưu, các ác, bt thin pháp khi lên, v y chế ng nguyên nhân y, h trì ý căn, thit hành s h trì ý căn. Như vy là v Thánh đ t h trì các căn”.

Theo lời Phật thì phòng hộ các căn trước hết là thực tập tâm chánh niệm, tỉnh giác, không để cho các căn đeo dính vào các trần bằng cách không nắm giữ tướng chung hay tướng riêng đối với mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc chạm, ý nhận thức. Không nắm giữ tướng chung hay tướng riêng nghĩa là không ôm ấp, nắm giữ, không suy nghĩ, tư lường, không đánh giá, phán xét hay phân biệt về sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; chỉ nhận biết sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp như chúng là; không luyến ái đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp khả ái, hấp dẫn, không ghét bỏ đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp không khả ái, không hấp dẫn. Không luyến ái cũng không ghét bỏ do nhận thứctính chất duyên sinh, vô thường, khổ đau của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì tham (abhijjhà) và ưu (domanassa), (hay còn gọi là tham và sân) không có điều kiện sanh khởitồn tại. Đây chính là kết quả lợi lạc của pháp môn phòng hộ các căn, tức thực nghiệm một nếp sống sáng suốt, thanh thản, an lạc với cái tâm không còn bị chi phối bởi ngoại cảnh, không còn phản ứng dao động bởi mọi thứ thuận duyên hay nghịch ý.

Đáng chú ý là có hai khuynh hướng tâm lý mê lầm tai hại thường phát sinh trong khi các căn tiếp xúc với các đối tượng tương ứng. Đó là tham (abhijjhà) hay ưu (domanassa), đi kèm với các pháp bất thiện khác cùng sinh khởi như là hệ quả của chúng. Tham là hiện tượng tâm lý thích thú phát sinh khi các căn gặp gỡ các đối tượng khả ái, thích ý, hấp dẫn. Ưu là tâm lý phiền não sinh khởi khi các căn đối diện với các đối tượng không khả ái, không thích ý, không hấp dẫn. Cả hai hiện tượng tâm lý này được xem là các phản ứng mê lầm, vì chúng có chung gốc rễ là si mê (moha) hay vô minh (avijjà) và vì chúng là các thái độ tâm lý cực đoan dẫn đến khổ đau. Chúng mê lầm vì chúng là các phản ứng cực đoan, không sáng suốt đối với mọi sự vật và hiện tượng giả hợp, không thực có, vốn chuyển biến, thay đổi, không thường hằng, không tồn tại mãi. Chúng dẫn đến khổ đau bởi chúng là các tâm lý vị kỷ, cố chấp, hẹp hòi, không thích chia sẻ, không biết cảm thông, dung dưỡng các thái độ vui buồn, yêu ghét cực đoan, mở lối cho các hành vi bất chính, các hành động sai lầm xấu ác2. Vì vậy, sự thực tập phòng hộ các căn chủ yếu là để đối trịloại bỏ tham và ưu (hay tham và sân), hai trạng huống tâm lý mê lầm có chung gốc rễ là vô minh.

Một ý tứ khác đáng lưu tâm trong phương pháp phòng hộ các căn là cách ứng dụng sự phòng hộ sao cho có hiệu quả đối với từng căn môntrường hợp cụ thể. Ví dụ, trong trường hợp do duyên mắt tiếp xúc với sắc mà tham hoặc ưu dấy khởi và chi phối tâm thức thì lúc bấy giờ cần phải tập trung phòng hộ con mắt bằng các cách thức khác nhau; hoặc nhắm mắt lại, không nhìn sắc ấy nữa, hoặc nhìn sang một đối tượng khác, hoặc tác ý về tính chất vô thường biến hoại của sắc pháp, hoặc nghĩ đến sự nguy hại của tâm tham ái hay ưu phiền đối với sắc pháp ấy… Nhờ ứng dụng sự tu tập phòng hộ theo các cách như vậy mà dần dần sắc pháp không còn tác động, ám ảnhchi phối tâm thức, nghĩa là tham (abhijjhà) và ưu (domanassa) không dấy khởi và tăng trưởng khi mắt thấy sắc. Đối với các căn môn khác cũng thực tập theo cách tương tự. Đây hẳn là các cách thức đối trị tham và ưu hết sức căn bản cho từng căn tánhtâm thức riêng biệt và chúng không có gì là tiêu cực hay tích cực trong cách ứng dụng. Người đau bệnh gì thì phải biết tìm vị thuốc hiệu nghiệm nhất để mà chữa trị.

Có một mẩu đối thoại ngắn giữa Đức Phật và vị thị giả Ànanda ngụ ý cách thức phòng hộ các căn được chép trongKinh Trường Bộ mà một vài người nhầm tưởng cho là Đức Thế Tôn có ý xem nhẹ nữ giới. Tôn giả Ànanda bạch hỏi Đức Phật3:

– Bạch Thế Tôn, chúng con phải cư xử với phái nữ như thế nào?
– Này Ànanda, chớ có thấy họ.
 Bạch Thế Tônnếu phải thấy họ, thời phải như thế nào?
– Này Ànanda, chớ có nói chuyện với họ.
– Bạch Thế Tôn, nếu phải nói chuyện với họ, thời phải như thế nào?
– Này Ànanda, phải an trú chánh niệm.

Bậc giác ngộthiên vị nam nhân và xem nhẹ nữ giới hay không, chỉ có Ngài mới biết rõ; tuy nhiên, với những ai tỉnh táo nhận ra sự nguy hiểm (àdìnava) tiềm tàng trong vị ngọt (assàda) của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp và mong muốn tìm ra con đường thoát ly (nissarana) thì mẩu đối thoại trên hiện rõ là những lời dạy hết sức căn bản cho các bước tu tập phòng hộ căn môn, với cái đích cuối cùngđối diện với các pháp (tốt hay xấu, khả ái hay không khả ái) một cách thanh thản, tỉnh táo, có chánh niệm. Bậc Đạo sư giác ngộ hiểu rõ nguyên nhân của mọi bất hạnh khổ đau và quan tâm chỉ bày cách thức giúp cho mọi người từng bước đi ra khỏi khổ đau, tìm thấy hạnh phúc an lạc thực sự. „

 

Chú thích:

  1. Kinh Sáu sinh vật, Tương Ưng Bộ.
  2. Đại kinh Khổ uẩn, Trung Bộ.
  3. Kinh Đại bát Niết-bàn, Trường Bộ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18513)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25070)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23718)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28860)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20802)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31407)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25490)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29640)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22436)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25659)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23200)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25693)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23670)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40553)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23296)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22377)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22031)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23452)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 24256)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41022)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18910)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20426)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27679)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38040)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 24422)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22624)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26472)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 53453)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23534)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21023)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 30784)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 20999)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38706)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 20481)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 20511)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 26991)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 28034)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 37049)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 55108)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 37912)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 14475)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10601)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant