Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ý Nghĩa Phẩm Tính Tathāgata – Như Lai

26 Tháng Sáu 201518:13(Xem: 6988)
Ý Nghĩa Phẩm Tính Tathāgata – Như Lai
Ý nghĩa Phẩm tính Tathāgata – Như Lai
[Trích Tổng luận Năng Đoạn Kim Cương]

Phước Nguyên


Ý nghĩa Phẩm tính Tathāgata Như Lai


I.1. Ngữ nguyên Tathāgata

Trong kinh Kim cương Phạn ngữ xuất hiện thuật từ Tathāgata , vậy nội hàm của nó mang ý nghĩa như thế nào? Khó mà có một câu trả lời đầy đủ và thỏa đáng. Trong sự vay mượn của ngôn ngữ và hãn hữu của tư duy, chúng ta chỉ có thể giải thích tương đối về những ý nghĩa đơn thuần của nó.

Như Lai hay Như Khứ là dịch nghĩa của từ Sanskrit: Tathāgata, được ghép từ hai yếu tốtathāAgata hoặc tathāgata. Gata có nghĩa là “đã đi” vì nó làm vai trò là động-tính thụ động quá khứ của động từ  căn gam (đi). Agata có nghĩa là "đã đến" nó làm động-tính thụ động quá khứ của động từ căn gam có nghĩa là (đến). Tathā với ý là chân như, nhất như, hay như thực. Nên Tathāgata là người “đến và đi từ chân như”.

Một giải thích khác, đề xuất bởi học giả Richard Gombrich, dựa trên ngữ pháp sanskrit, khi được sử dụng như là một hậu tố từ trong hợp từ Tathāgata,  đuôi -gata thường mất ý nghĩa đen của nó và thay vì được hiểu là "được, đi, thành tựu/v.v.."; từ đó, Như Lai sẽ được hiểu theo nghĩa "Nhất như", không có sự dịch chuyển theo cả hai hướng[1]. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến bất đồng cho rằng về cách giải thíchý nghĩa chính xác ban đầu của nguyên ngữ Tathāgata này đều không có cơ sở chắc chắn[2].

Tạng ngữ Kim Cương có từ  tương đương với Tathāgata  là དེ་བཞིན་གཤེགས་པ་ de bzhin gshegs pa/ (dezhin shekpa) thường đường hiểu là “đi-như thế”(thus-gone); hay “nhất như” (One Gone Thus); trong Tây Tạng từ này cũng dùng để chỉ cho phẩm tính của Phật (epithet of the Buddha).

I.2. Luận Tathāgata đông-tây

Peter Harvey khi bàn về thuật ngữ Tathāgata, cho là đồng nghĩa với A-la-hán 阿羅漢[3] và định nghĩa là người đã đạt đến đời sống thánh thiện tối thượng[4]; hay Như Lai (Tathāgata) cũng được cho là tương đương với Vô thượng sĩ (anuttarapuruṣa) tức là bậc tối thượng tôn của chúng sinh[5]; Đôi khi Tathāgata được hiểu là một con người siêu việt[6].

Về nghĩa nguyên của từ ngữ này, Chalmers nhận định rằng: những ức đoán về ý nghĩa của nó đã xuất hiện từ thời đức Phật, có tám giải thích về từ này trong Sumaṅgalavilāsinī Dīghanikāya (chú giải kinh Trường Bộ) của ngài Buddhaghosa, đó là do có sự phân tích ngữ nguyên khác nhau[7].

Theo Theodore Stcherbatsky, Tathāgata, có nguồn gốc đầu tiên không phải từ Phật giáo, và được chứng minh khi so sánh với việc sử dụng của nó trong các tác phẩm phi Phật giáo, chẳng hạn như Mahabharata[8]; Stcherbatsky đưa ra thí dụ sau đây từ Mahabharata (Shantiparva, 181,22 ): “Cũng như các dấu vết chim (bay) trong bầu trời và cá (bơi) trong nước không thể được nhìn thấy, thực tại (tātha) có mặt (gati) với những người nào đã nhận ra chân lý”[9].

Ta cũng có thể tách Tathāgata ra thành hoặc Tat-Agata có nghĩa một người đã đi đến đó [thực tại tối hậu]; Tat nó có vai trò như danh từ trong hợp từ Tathāgata. Thuật ngữ này có liên quan và được gán cho Brahman (thực tại tuyệt đối - Reality Absolute) trong siêu hình học Hindu từ thời xa xưa, thí dụ như một câu nói khá nổi tiếng trong Upanishad: "Điều đó (Brahman) là thuật của ngươi"[10].

Edward Conze khi luận về ý nghĩa của Tathāgata, ông nói, đó là biểu thị cho “chân ngã” vốn có nơi mỗi chúng sinh; Tathāta được gọi chung là chân như, và sau này phát triển thành Tathāgata được hiểu là chân ngã, hay “chân như” nơi mỗi người[11].

Như vậy, Tathāgata trong Prakrit cổ có thể được hiểu như nghĩa đen của nó: “Người đã đạt đến tuyệt đối” (The sage who has arrived at the Absolute), định nghĩa này đa số được các nhà Phật học trường phái Đại thừa giải thíchchấp nhận.

Tyson Anderson, khi bàn về ý nghiã bản chất Tathāgata , ông nói rằng trạng thái của các vị Như Lai, A la hán, cả trước và sau khi nhập Niết bàn , nằm ​​ngoài phạm vi có thể mô tả thông một cách thường ngôn ngữ chúng ta; đó là, tập hợp các uẩn và sự tham lam, sân hận, và si mê được "thổi tắt" với niết bàn[12].

Ý kiến của Childers trong bộ từ điển Pāli của mình, chúng ta có thể lược ghi lại như sau: Điều khá hiển nhiên rằng, thuật ngữ Tathāgata lần đầu tiên được áp dụng cho một chúng sinh chứng được quả vị Phật-đà; Là tên gọi cho một vị đã thành Phật với ý nghĩa là “sự tuyệt diệu” (excellence), trong các kinh, thông thường đức Phật Thích Ca thường xưng ngài là “Như Lai”.

Theo Shuhmacher, Stephan and Gert Woerner trong Đại thừa Như Lai là để chỉ cho đức Phậtphương diện hóa thân của ngài. Như Lai gọi là đấng Đại Trượng Phu, người có khả năng biến thể dưới mọi hình thức và đã thành tựu thập lực, bốn pháp vô sở úy, mười tám pháp bất cọng v.v... của các vị Phật; thông hiểu tất cả nguyên tắc, bản chất của vũ trụ, không còn bị ràng buộc bởi bất kỳ điều kiện, yếu tố nào nữa. Ngài là vị đã vượt ra khỏi hai hình thái bản chấtthế giới hiện tượng (Ly lưỡng biên). Trong ý nghĩa chân đế, Như Lai Tathāgata thường bị đánh đồng với śūnyatā (không), prajnapti (giả danh)[13].

I.3. Luận Tathāgata Kinh Luận.

I.3.1. Đại Thừa Kinh Luận

Như Lai là Bậc Ứng cúng, Đẳng chánh giác, Minh Hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế tôn. Đó là điều mà đức Thế Tôn đã nói rõ trong Kinh Thiện Đạo[14], như vậy chúng ta hiểu tại sao về sau lại có nhiều quan điểm của các bộ phái cho rằng phẩm tính Tathāgata đã bao hàm ý nghĩa của các phẩm tính giác ngộ khác.

Kinh thuật lại, có một lần, đức Phật kể về nhơn địa của ngài trong khi tu hành còn làm Bồ-tát, trải qua sự tu tập các hành, với mục đính để mong cầu Tuệ giác vô thượng, nay đã thành đạt được sự chân thực của Tuệ giác và Niết-bàn, sự thành đạt ấy là thể chứng được tri kiến chân thực về Bát Thánh Đạo, nên được gọi là Như Lai (Tathāgata); và như chư Phật quá khứ đã nhiếp hộ tâm, làm cho tâm vắng mặt mọi khởi sinh của phiền nãođi vào Niết-bàn, cho nên có danh hiệuNhư Lai[15].

Kinh Đại Bát Niết Bàn nêu lên ba định nghĩa sau[16], không thấy có định nghĩa nào được nêu lên từ nguyên ngữ Sanskrit, các định nghĩa được đức Phật trình bày từ ý nghĩa của nó:

Giống như những điều được diễn thuyết bởi chư Phật quá khứbất biến; Tại sao nó bất biến, vì mười hai thể tài kinh điển đã được chư phật quá khứ thuyết giảng để hóa độ chúng sinh; thời đức Thích Ca Như Lai ngài cũng đã diễn nói Như vậy, nên gọi là Như Lai.

Hết thảy chư Phật Thế Tôn, từ sáu ba-la-mật[17], ba mươi bảy phẩm trợ đạo, mười một Pháp Không mà đi đến Niết-bàn, cho nên có danh hiệuNhư Lai; Như Lai cũng “như vậy” nên có danh hiệuNhư Lai.

Chư Phật, Thế Tônchúng sinhtùy nghi khai thị ba cỗ xe, thọ mạng vô lượng, không thể suy lường; Như lai cũng như thế nên được gọi là Như Lai[18].

Đức Phật được gọi là Tathāgata, bởi vì từ lúc sau bốn mươi chín ngày đêm, lúc sao mai ló dạng, nơi cội cây Tất-bát-la, Bồ-tát Sĩ-đạt-ta đã chứng ngộ Tuệ giác tối thượng; cho đến nửa đêm ở xứ Câu-thi-na, dưới hai tàng cây Ta-la, đức Thích Tôn thể nhập vô dư Niết-bàn, thời gian ở giữa đó, tất cả những gì được diễn tả, được thuyết giảng, được trình bày bởi ngài đều được gọi là Tathā (Như); bởi nó không hư vọng, không có biến diện, nó đích thực như thế, hiện kiến rồi mới diễn thuyết[19].

Ngài Kumārājīva khi dịch Mahāprajñãparamitta śāstra sang hán văn, với nhan đề là Đại Trí Độ Luận, đã phiên âm Tathāgata thành Đa-đà-a-già-đà. Luận chép rõ như sau: “…như pháp tướng mà hiểu, như pháp tướng mà giảng thuyết, như con đường an ổn của chư Phật mà đi đến. Phật cũng như vậy mà đến, Phật Thích Ca Mâu Ni cũng thế, Ngài đã đi đến mà không bao giờ bị trải ở trong con đường bị tái sanh, vì vậy mà gọi ngài là Đa-đà-a-già-đà”[20]

 



[1] Jayarava, (27 February 2009), "Philological odds and ends I".

[2] Chalmers, Robert, The Journal of the Royal Asiatic Society, 1898. pp.103-115

[3] Skt. Arhat; Pāli. Arahant.

[4] Peter Harvey, The Selfless Mind, Curzon Press 1995.

[5] Ibid, "a tathāgata, a superior state of being (uttama-puriso)".

[6] Peter Harvey, An Introduction to Buddhism: Teachings, History, and Practices, Cambridge University Press, 1990, page 28.

[7] Dẫn bởi Chalmers, Robert, The Journal of the Royal Asiatic Society, 1898, pp.103-115.

[8] Florin Giripescu Sutton (1991), Existence and Enlightenment in the Lakāvatāra-sūtra: A Study in the Ontology and Epistemology of the Yogācāra School of Mahāyāna Buddhism, p.104.

[9] Skt. Tathā jñānavidam gatih, ibid, p. 104.

[10] Skt. Tat tvam asi, Cf. Chandogya Upanishad.

[11] Edward Conze, The Perfection of Wisdom in 8,000 Lines, Sri Satguru Publications, Delhi, 1994, p. Xix.

[12] Tyson Anderson, Kalupahana on Nirvana. Philosophy East and West, April 1990, 40(2)

[13] Cf. Shuhmacher, Stephan and Gert Woerner, The Encyclopedia of Eastern Philosophy and Religion: Buddhism, Hinduism, Taoism, Zen. Boston: Shambala, 1994, p. 364.

[14] Tạp A-hàm, kinh 818, Đại chánh, kinh 850. Pāli, A. 11.12-13. Mahānāma.

[15] Cf. Thập Hiệu Kinh, Đại 17, tr.719.

[16] Cf. Đại 12, Đại Bát Niết Bàn Kinh, q. 18, tr. 478ab.

[17] Skt. Pāramitā.

[18] Ibid, tr. 478ab.

[19] A-tỳ-đạt-ma Pháp Uẩn Túc quyển 2, Đại 26, tr. 46b15.

[20] Đại Trí Độ, Quyển 2, Đại 25, tr. 71b.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18515)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25072)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23719)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28865)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20804)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31409)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25501)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29661)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22457)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25670)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23206)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25698)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23675)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40558)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23296)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22379)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22032)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23458)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 24257)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41026)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18927)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20430)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27684)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38052)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 24426)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22627)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26474)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 53460)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23538)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21027)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 30793)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21005)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38716)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 20487)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 20521)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 26993)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 28034)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 37052)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 55108)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 37917)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 14478)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10604)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant