Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tánh Không: Từ Ngữ Phật Giáo, Thường Bị Hiểu Lầm Nhất (song ngữ)

01 Tháng Bảy 201516:35(Xem: 10304)
Tánh Không: Từ Ngữ Phật Giáo, Thường Bị Hiểu Lầm Nhất (song ngữ)
Tánh Không: Từ Ngữ Phật Giáo, Thường Bị Hiểu Lầm Nhất

Nguyễn Văn Tiến

Tánh Không Từ Ngữ Phật Giáo Thường Bị Hiểu Lầm Nhất"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm. Khi chúng ta đem Phật Giáo phổ biến đúng đắn vào các nước phương Tây, chúng ta cần phải hiểu rõ ràng về tánh-không, vì nếu có sự hiểu biết sai lầm về ý nghĩa của từ ngữ nầy, chúng ta có thể gây ra sự nhầm lẫn, thậm chí còn có thể gây nguy hại nữa là khác. Bồ Tát Long Thọ (Nagarjuna), vị thầy Phật giáo Ấn Độ vào thế kỷ thứ ba, đã dạy rằng: "Nắm bắt Tánh Không sai lầm, giống như là bắt con rắn độc, mà không đúng cách."  Nói một cách khác đi, là chúng ta sẽ bị rắn độc cắn!

Tánh-không không phải là hoàn toàn không-có-gì; tánh-không cũng không có nghĩa là không-có-gì tồn tại. Cái nhìn sai lầm nêu trên, là cái nhìn hư vô, đi ngược lại với lý lẽ thông thường. Thật ra, tánh-không là mọi sự vật không tồn tại theo cái-nhìn-dính-mắc-của-chính-chúng-ta đã nghĩ chúng là như thế. Trong cuốn sách Đức Đạt Lai Lạt Ma viết về Tâm Kinh, ngài gọi tánh-không là "bản chất thật sự của mọi sự vật và mọi sự kiện", nhưng cũng trong cùng một đoạn văn, ngài cảnh báo chúng ta là "hãy tránh sự ngộ nhận tánh-không là một thực tế tuyệt đối, hoặc là một chân lý độc lập". Nói một cách khác, tánh-không không có nghĩa là thiên đường, hoặc là một cõi tách biệt ra khỏi trần gian nầy, hoặc là một cõi tách biệt khỏi sự khổ đau.

Tâm Kinh nói rằng, "tất cả mọi hiện tượng trong bản-chất-riêng-biệt của chúng là không". Tâm Kinh không nói rằng "tất cả mọi hiện tượng là không". Sự khác biệt nầy rất quan trọng. Bản-chất-riêng-biệt là sự tồn tại độc lập, và riêng biệt. Đoạn văn trên có nghĩa là không có sự vật gì chúng ta thấy, hoặc nghe, đứng riêng một mình; mọi sự vật là một sự biểu hiện giống như là một phong cảnh kết-nối-chặt-chẽ, luôn-thay-đổi, và không-cố-định. Do đó, không có người nào, hoặc không có sự vật nào, có bản tính cố định, vĩnh viễn, không-thay-đổi, mọi sự vật được xem là thực-hiện-cùng-nhau mà Thầy Thích Nhất Hạnh gọi là "sự tương tức". Từ ngữ nầy mang khía cạnh tích cực của tánh-không, bởi vì tánh-không là cách sống và cách hành động của một người có trí tuệ - với ý nghĩa của sự kết nối, của sự từ bi, và của lòng thương yêu. Hãy nghĩ đến Đức Đạt Lai Lạt Ma, và những đức tính của ngài - sự rộng lượng, lòng khiêm tốn, tiếng cười dòn dã, và nụ cười luôn nở trên môi ngài - và chúng ta có thể biết rằng, khi nhìn tánh-không dưới cái-nhìn-lý-trí, chúng ta không nhận ra phẩm chất thực tế vui vẻ trong đời sống tinh thần. Vì thế, tánh-không có hai khía cạnh, một khía cạnh tiêu cực, và một khía cạnh khá tích cực.

Ari Goldfield, một vị Thầy Phật giáo ở Wisdom Sun (Mặt Trời Trí Tuệ) và dịch giả của Stars of Wisdom (Những Ngôi Sao Trí Tuệ), ông đã tóm tắt hai khía cạnh nầy như sau:

Ý nghĩa thứ nhất của tánh-không được gọi là "tánh-không về bản chất", có nghĩa là các hiện tượng [mà chúng ta kinh nghiệm] không có bản chất cố-định, và riêng-biệt. Ý nghĩa thứ hai của tánh-không là "tánh-không trong bối cảnh của Phật Tánh", xem tánh-không có phẩm chất của tâm tỉnh-thức thí dụ như là sự trí tuệ, sự hạnh phúc, lòng từ bi, sự trong sáng, và lòng can đảm. Do đó, trên thực tế, cuối cùng tánh-không chính là sự kết hợp của cả hai ý nghĩa nói trên.

Hãy suy nghĩ về những điều tôi đã nói đến ở trên, và tôi mong muốn nói thêm về ba điểm nổi bật đã tạo ra sự hiểu lầm về tánh-không: ý nghĩa về tình cảm, ý nghĩa về đạo đức, và ý nghĩa về thiền định.

Ý NGHĨA VỀ TÌNH CẢM

[Trong Anh Ngữ, từ ngữ Emptiness, dưới cái nhìn Phật-Giáo có nghĩa là tánh-không, dưới cái nhìn không-Phật-Giáo có nghĩa là sự-trống-vắng]. Khi chúng ta nói "Tôi cảm thấy trống vắng", chúng ta nói về cảm giác buồn bã, hoặc chán nản. Nói về cảm xúc, "sự trống vắng" không phải là một từ ngữ hạnh phúc trong Anh Ngữ [cũng như trong Việt Ngữ], và dù cho chúng ta tự nhắc nhở chúng ta rất nhiều lần, rằng tánh-không trong Phật Giáo không có nghĩa là sự cô đơn, hoặc sự chia ly, và sự tách biệt, nhưng ảnh hưởng của sự cảm xúc nầy vẫn còn đó. Có nhiều lần, tôi đã đi tìm một từ ngữ khác để thay thế cho từ ngữ tiếng Phạn "sunyata" - thí dụ như tôi thử dùng những từ ngữ như "sự hoàn toàn", hoặc "sự trọn vẹn", hoặc "sự rộng lớn", hoặc "sự kết nối", hoặc "sự không giới hạn" - nhưng giống như Ari Goldfield đã nói, "tánh-không" (emptiness) là từ ngữ dịch chính xác nhất. "Tánh-không" cũng là từ ngữ mà Thầy Shunryu Suzuki của tôi đã dùng, tuy nhiên, Thầy cộng thêm vào lời giải thích. Một lần kia, Thầy nói về tánh-không như sau, "Tánh-không không có nghĩa là sự trống rỗng. Có thêm một cái-gì-đó, và cái-gì-đó là cái mà luôn luôn chuẩn bị để có một-hình-thức đặc biệt". Một lần khác, khi Thầy nhận định về phẩm chất tình cảm của tánh-không, Thầy nói rằng, "Tánh-không giống như là chúng ta đang được nằm trong lòng mẹ, rồi chờ mẹ chăm sóc."

Ý NGHĨA VỀ ĐẠO ĐỨC

Một số sinh viên Phật Giáo đã tha thứ, hoặc hợp-lý-hóa hành vi xấu xa của thầy giáo họ bằng cách khẳng định rằng, thầy giáo họ đã có sự hiểu biết về tánh-không, nên thầy giáo được miễn trừ những quy luật thông thường về đạo đức. Một sinh viên cho biết, "Roshi sống trong sự tuyệt đối, cho nên hành vi của ông không thể được đánh giá theo các tiêu chuẩn thông thường". Trong khi sự thật là thầy giáo Phật giáo đôi khi sử dụng phương pháp bất thường để làm tỉnh giác các sinh viên của họ, nhưng động lực của họ phải đến từ lòng từ bi, chứ không phải lòng ích kỷ. Tu sĩ hoặc thầy giáo Phật Giáohành vi không gây hại thì được chấp nhận, nhưng nếu làm ngược lại thì không thể chấp nhận được.

Ý NGHĨA VỀ THIỀN ĐỊNH

Một số sinh viên Phật Giáo nghĩ rằng trạng thái thiền định mà không-có-ý-nghĩ hoặc không-nhận-thấy-sự-hoạt-động là một thành tích của tánh-không. Thật ra, một trạng thái như thế cũng đã được mô tả rõ ràng, trong các văn bản hành thiền Phật Giáo, và trạng thái nầy được xem giống như là những trạng thái khác - chỉ là sự tạm thời và cuối cùng không có ích lợi gì cho sự giải thoát. Trên thực tế, dù nhìn bằng bất cứ cách nào, tánh-không không phải là một trạng thái của tâm; giống như Đức Đạt Lai Lạt Ma có nói, tánh-không chỉ đơn giản là "bản chất thật sự của mọi sự vật và mọi sự kiện." Điều này bao gồm cả tâm. Cho dù tâm của thiền giả có đầy-ắp-ý-nghĩ hoặc không-có-ý-nghĩ nào, bản chất thật sự nầy cũng giống như nhau.

PHẦN KẾT LUẬN

Cuối cùng, tánh-không dường như quá khó hiểu, như vậy tại sao Đức Phật lại dạy chúng ta điều nầy? Bởi vì sự hiểu biết sáng suốt, và sâu sắc của Đức Thế Tôn, ngài nhìn thấy lý do tại sao chúng ta đang gánh chịu sự đau khổ. Cuối cùng, chúng ta phải gánh chịu sự đau khổchúng ta luôn nắm giữ lấy sự vật, chúng ta nghĩ rằng sự vật là sự cố định, là sự bền bỉ, là sự thật, và cần được sở hữu do chính bản ngã của chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta nhận thấy đây là sự ảo tưởng, rồi chúng ta mở lòng mình ra, nói theo cách của Ari Goldfield, "thực tế giống như là một dòng nước chảy, thay đổi liên tục, cho nên thực tế, cuối cùng là điều không-thể-nắm-bắt và không-thể-nghĩ-bàn", chúng ta cần phải tập thư giãn qua sự trong sáng, lòng từ bi và lòng dũng cảm. Đó là mục tiêu cao cả, mà chúng ta cần nỗ lực học hỏi, để hiểu biết giá trị của tánh-không.

 

Emptiness: The Most Misunderstood Word In Buddhism

"Emptiness" is a central teaching of all Buddhism, but its true meaning is often misunderstood. If we are ever to embrace Buddhism properly into the West, we need to be clear about emptiness, since a wrong understanding of its meaning can be confusing, even harmful. The third century Indian Buddhist master Nagarjuna taught, "Emptiness wrongly grasped is like picking up a poisonous snake by the wrong end." In other words, we will be bitten!

Emptiness is not complete nothingness; it doesn't mean that nothing exists at all. This would be a nihilistic view contrary to common sense. What it does mean is that things do not exist the way our grasping self supposes they do. In his book on the Heart Sutra the Dalai Lama calls emptiness "the true nature of things and events," but in the same passage he warns us "to avoid the misapprehension that emptiness is an absolute reality or an independent truth." In other words, emptiness is not some kind of heaven or separate realm apart from this world and its woes.

The Heart Sutra says, "all phenomena in their own-being are empty." It doesn't say "all phenomena are empty." This distinction is vital. "Own-being" means separate independent existence. The passage means that nothing we see or hear (or are) stands alone; everything is a tentative expression of one seamless, ever-changing landscape. So though no individual person or thing has any permanent, fixed identity, everything taken together is what Thich Nhat Hanh calls "interbeing." This term embraces the positive aspect of emptiness as it is lived and acted by a person of wisdom -- with its sense of connection, compassion and love. Think of the Dalai Lama himself and the kind of person he is -- generous, humble, smiling and laughing -- and we can see that a mere intellectual reading of emptiness fails to get at its practical joyous quality in spiritual life. So emptiness has two aspects, one negative and the other quite positive.

Ari Goldfield, a Buddhist teacher at Wisdom Sun and translator of Stars of Wisdom, summarizes these two aspects as follows:

The first meaning of emptiness is called "emptiness of essence," which means that phenomena [that we experience] have no inherent nature by themselves." The second is called "emptiness in the context of Buddha Nature," which sees emptiness as endowed with qualities of awakened mind like wisdom, bliss, compassion, clarity, and courage. Ultimate reality is the union of both emptinesses.

With all of this in mind, I would like to highlight three common misunderstandings of emptiness: emotional, ethical and meditative.

EMOTIONAL

When we say "I feel empty," we mean we are feeling sad or depressed. Emotionally speaking, "emptiness" is not a happy word in English, and no matter how often we remind ourselves that Buddhist emptiness does not mean loneliness or separateness, that emotional undertow remains. At various times I have looked for a substitute translation for the Sanskrit sunyata -- I have tried "fullness," "spaciousness," "connectedness," and "boundlessness" -- but as Ari Goldfield points out, "emptiness" is the most exact translation. "Emptiness" is also the term that my own teacher Shunryu Suzuki used, though he usually added context. Once, speaking of emptiness he said, "I do not mean voidness. There is something, but that something is something which is always prepared for taking some particular form." Another time, speaking of the feeling tone of emptiness, he said, "Emptiness is like being at your mother's bosom and she will take care of you."

ETHICAL

Some Buddhist students rationalize or excuse bad behavior of their teacher by asserting that through his understanding of emptiness the teacher is exempt from the usual rules of conduct. One student said, "Roshi lives in the absolute so his behavior can't be judged by ordinary standards." While it is true that Buddhist teachers sometimes use unusual methods to awaken their students, their motivation must come from compassion, not selfishness. No behavior that causes harm is acceptable for a Buddhist practitioner, teacher or otherwise.

MEDITATIVE

Some Buddhist students think that a meditative state without thought or activity is the realization of emptiness. While such a state is well described in Buddhist meditation texts, it is treated like all mental states -- temporary and not ultimately conducive to liberation. Actually emptiness is not a state of mind at all; it is, as the Dalai Lama says, simply "the true nature of things and events." This includes the mind. Whether the mind of the meditator is full of thoughts or empty of them, this true nature holds.

CONCLUSION

Finally, since emptiness seems so difficult to understand, why did the Buddha teach it at all? It is because of his profound insight into why we suffer. Ultimately we suffer because we grasp after things thinking they are fixed, substantial, real and capable of being possessed by ego. It is only when we can see through this illusion and open ourselves, in Ari Goldfield's words, "to the reality of flux and fluidity that is ultimately ungraspable and inconceivable" that we can relax into clarity, compassion and courage. That lofty goal is what makes the effort to understand emptiness so worthwhile.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16647)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13249)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12712)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 13549)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11723)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14250)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17745)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22605)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13450)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 15533)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 16059)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11343)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15668)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13153)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 21917)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 16152)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19115)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24793)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 17634)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17079)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 18566)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19002)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18819)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 14382)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 23072)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28501)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15159)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 13662)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16400)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 143463)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 16302)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 17385)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 47368)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39092)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15778)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23078)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 16726)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 14281)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 13871)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17202)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 14341)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16899)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 27923)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 50142)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38441)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 28514)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52134)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35803)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32826)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50737)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 63631)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 49643)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 56959)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47476)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39369)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38417)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 36543)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32188)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 46649)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 40014)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant