Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Dược Sư Giải Nghĩa

27 Tháng Tám 201512:32(Xem: 28282)
Kinh Dược Sư Giải Nghĩa
KINH DƯỢC SƯ GIẢI NGHĨA

 

Toàn Không

Kinh Dược Sư Giải Nghĩa

 

LỜI MỞ ĐẦU

 

     Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã bảo Bồ tát Văn Thù Sư Lợi: "Hay thay! Hay thay! Mạn Thù Sư Lợi! Ông lấy lòng đại bi yêu cầu Ta nói những bản nguyện công đức của chư Phật là vì muốn cho chúng hữu tình khỏi bị nghiệp chướng ràng buộc, lợi ích an vui, trong đời tượng pháp về sau; nay ông nên lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì ông mà nói".

     Đức Phật tuy bảo Bồ Tátlắng nghe” và “suy nghĩ kỹ”, nhưng thực ra Ngài bảo tất cả Phật tử khi đọc Kinh này phải chú ý đọc rồi suy nghĩ cho kỹ; vì Bồ tát Văn Thù là bậc trí tuệ đẳng giác, đâu còn những nghiệp chướng ràng buộc, đâu còn những khổ nạn như chúng ta nữa, mà chính chúng ta là những người Đức Phật nhắm giáo hóa.

      Bởi vậy, chúng tôi cố gắng tìm hiểu ý của Phật muốn chỉ để giải thích và viết ra, hy vọng rằng những sự giải nghĩa của chúng tôi được đầy đủ ý mà Đức Phật muốn nói, và người đọc ghi nhớ để thực hành đúng nghĩa Đức Phật dạy, thì kết qủa sẽ được tốt đẹp.

     Để sự giải nghĩa được rõ ràng mạch lạc, và sự theo dõi của độc giả được dễ dàng, chúng tôi xin chia Kinh này ra làm 37 đoạn, mỗi đoạn là một Kinh Văn có tên theo nội dung của đoạn Kinh. Sau chót, mặc dù cố gắng trong việc giải thích và trình bày, nhưng còn có khiếm khuyết, xin qúy vị Thiện Tri Thức chỉ cho, tác giả xin chân thành đa tạ vô cùng.

GIẢI NGHĨA ĐỀ KINH:

 Để dễ hiểu, chúng ta phân biệt dùng chữ nghiêng đậm là lời Kinh, chữ thẳng thường để giải thích, chúng ta cùng theo dõi sau đây:

ĐỀ KINH:

 

Kinh (1) Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai (2) Bản Nguyện (3) Công Đức (4)

GIẢI NGHĨA:

(1) Kinh: Kinh là các đường chỉ dọc của vải làm chuẩn cho tấm vải, tức là pháp không đổi thay, luôn luôn nó như vậy; Phật nay giảng như thế này, Phật quá khứ cũng đã giảng như thế, Phật trong tương lai cũng giảng như vậy, không bao giờ thay đổi gọi là Kinh.

 

(2) Như Lai:

NhưPháp Tánh tức Thật Tướng, là không hai, không khác, không biến, không động; Chân Diện Mục của vạn pháp đều đồng một tướng, cho nên gọi là “Như”.

Lai là căn nguyên, có nghĩa lúc ban đầu (như từ vô thủy đến nay) chưa có vật gì. Nhiếp Đại Thừa Luận nói: Tự Tính thanh tịnh có nghĩa là Tự Tính bản lai trong sạch, tức là Tự Tính chân như. Kinh Pháp Hoa nói: Các pháp từ bản lai, tự tướng thường vắng lặng.

Như Lai là một trong mười danh hiệu của tất cả Chư Phật, Như Lai nghĩa là chẳng phải từ đâu đến, mà cũng chẳng đi về đâu, biểu tượng cho Pháp Thân thường trú của Phật. Khi Phật Thích Ca còn tại thế, Ngài thường dùng danh từ Như Lai để xưng cho mình khi thuyết pháp, đó cũng là một phong cách biểu lộ sự trung thực bản lai của Ngài vậy.

 

(3) Bản Nguyện: Là các lời phát nguyện trong khi đang tu trước khi thành Phật.

 

(4) Công Đức: Chữ “Công” là việc chung, không có tư tâm, chỉ những gì được tạo lập ở bên ngoài như bố thí cúng dường, xây chùa đắp tượng Phật. Chữ “Đức” là điều thiện, là đạo lý làm người, chỉ về sự tình ở trong nội tâm như tu hành, giữ giới; ngoài không dối người trong không dối mình, ngoài biết thẹn (tàm) với người, trong biết hổ (qúi) với mình. Công Đức là có công laođạo đức đối với người, là đạo đức đối với xã hội.

 

     Đề Kinh này nói đến những thệ nguyện về các công đức cứu độ chúng sinh của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Phật khi Ngài còn đang tu hạnh Bồ Tát trước khi thành Phật. Đây là một hạnh nguyện rộng lớn mà người Phật tử cần nghiên cứu học hỏihành trì để tiến tới giải thoát hầu đền ơn Phật hằng mong mỏi tất cả chúng sinh giải quyết cho xong vấn đề sinh tử khổ ải trầm luân.

 

GIẢI NGHĨA KINH VĂN:

 

KINH VĂN 1:

NHÂN DUYÊN NÓI KINH

 

Tôi nghe như vầy (1): Một thuở nọ, Đức Bạc Già Phạm (2) đi du hóa (3) các nước, đến thành Quảng Nghiêm. dừng nghĩ dưới cây Âm Nhạc cùng với tám ngàn vị Đại Tỳ Kheo (4), ba vạn sáu ngàn vị Đại Bồ Tát (5), các hàng Quốc Vương, Đại Thần, Bà La Môn (6), các hàng Cư Sĩ, Thiên Long Bát Bộ (7) cùng nhân, phi nhân, cả thảy đại chúng nhiều vô số, đồng vây quanh Phật cung kính thỉnh Ngài thuyết pháp.

 

GIẢI NGHĨA:

(1) Tôi nghe như vầy: Là lời của Tôn giả A NanThị Giả của Đức Phật đã nói lại những lời Phật nói chứ không phải là lời của Tôn Giả để mọi người vững lòng tin tưởng.

 

(2) Bạc Già Phạm: Do chữ Sanskrit: Bhagavat, hoặc Pàli: Bhagavà hay Bhagavant. Là một trong mười hiệu của tất cả Chư Phật, Bạc Già Phạm còn gọi là Bà già bà, Bà ga phạ đế; dịch ý là Hữu đức, Năng phá, Thế tôn, Tôn quí, tức hàm ý là người có đức lớn được đời tôn trọng. Theo Phật Địa Kinh Luận thì Bạc Già Phạm có đủ sáu nghĩa là: Tự tại, xí thịnh (công đức viên mãn tốt đẹp rực rỡ), trang nghiêm (ngay thẳng, chính trực, quy củ), danh xưng (đầy đủ công đức, hạnh nguyện, từ bi), cát tường (tốt lành) và tôn quí.

 

(3) Du hóa: du hànhgiáo hóa chúng sinh.

 

(4) Đại Tỳ Kheo: Là chỉ các bậc Tỳ Kheo đã xuất gia từ trên hai mươi ba mươi năm, gọi bằng chữ “đại” vì họ là những bậc Tỳ kheo lớn, đầy đủ đức hạnh, trí huệ và phẩm cách.

Tỳ Kheo: Là tiếng Phạn, có ba nghĩa: khất sĩ, bố ma, phá ác như sau:

1. Khất Sĩ: Người đi đến từng nhà để xin thức ăn, nhưng khất sĩ thì không phải là hạng ăn mày bình thường, cho đồ ngon hay không ngon, cho nhiều hay ít, họ cũng không quan tâm; Tỳ Kheo đi khất thực thì không nói gì cả, ai bố thí thứ gì thì mang đi, không bố thí trong tâm khôngphiền não.

Trên đường đi khất thực trong yên lặng, vị Tỳ Kheo mắt không nhìn ngang nhìn ngược, mà giữ cặp mắt nhìn xuống đường để đừng giẫm đạp chết chúng sinh nhỏ bé có thể đang bò trên mặt đường; tâm ý chỉ chú ý chính niệm trong việc hành trì như niệm Phật, trì Chú, quán sát tâm, tham thiền, v.v…. Vị Tỳ Kheo luôn luôn giữ thái độ nghiêm chỉnh uy nghi theo đúng pháp, phàm thứ gì không đúng với lễ nghi thì mắt không nhìn, tai không nghe, miệng không nói, thân tâm không vọng động.

2. Bố Ma: Tỳ Kheo luôn luôn giữ vẻ đoan nghiêm thanh tịnh nên Thiên Ma trông thấy thì kinh hãi, các loại Tà Ma Quỷ Quái thì phải lánh xa; bởi chính bao giờ cũng thắng tà.

3. Phá Ác: Người thường rất khó phá trừ các tập khí xấu, không giống như các Tỳ Kheo là những người chuyên trị việc phá trừ tập khí, chuyên sửa các lỗi lầm của mình, cải sửa điều ác thành điều thiện, do đó họ được gọi là phá ác.

 

(5) Bồ Tát: Là chỉ một vị Thánh trong Phật Giáo Bắc Truyền, nói cho đủ thì đó là « Bồ- Đề Tát- Đỏa », gọi là Bodhisattva, dịch nghĩa là «Giác Hữu Tình»; chữ hữu tình là có khí huyết, là chỉ chúng sanh. Bồ Tát là một chúng sanh đã giác ngộ về “chỉ làm việc lành không làm việc ác” nên trong hành động không còn sự vô minh nữa; Bồ Tát là một Thánh nhân trong bốn Pháp Giới Thánh (Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật).

 

(6) Bà-La-Môn: Bà-La-Môn là một giai cấp được tôn trong ở Ấn Độ trong bốn giai cấp. Bà-La-Môn theo pháp tu khổ hạnh, nhưng họ cầu sinh về cõi trời, tâm tham hãy còn, tâm sân chưa hết, tâm si cũng chưa hàng phục được.

 

(7) Thiên Long Bát Bộ: Tám bộ chúng đều hộ trì cho đạo tràng của Phật là:

1. Thiên: Deva: Thiện, hưởng phúc vi diệu, chư thiên các tầng trờì Dục và Sắc giới đã từng phát nguyện ủng hộ đạo tràng của Phật.

2. Long: Na-Dà: Rồng là loại linh vật, họ tinh tấn tu hành cho có thần thông biến hóa nhưng lại làm nhiều điều ác nên có thân rồng; Rồng giữ địa luân và các cung điện cõi Trời, làm mưa v.v..., và trong số Rồng có bốn loại sinh: noãn, thai, hóa, thấp sinh khác nhau.

3. Dạ Xoa: Yaksa: Yểm-Quỷ giữ các cửa thành cõi Đạo-Lợi, các quỷ chạy rất mau, có loại chạy trên không, gọi là không hành, có loại chạy dưới đất gọi là địa hành, cũng có loại đi dưới nước gọi là thủy hành; Dạ xoa chạy nhanh như biến, chỉ cần một niệm là đi nghìn dặm, chúng có rất nhiều chủng loại khác nhau.

4. Càn Thát Bà: Grandhava: Thần Nhạc, Thần hầu Vua  Đế-Thích để ca và tấu nhạc, chơi âm nhạc hay vô cùng, mỗi khi chúng cử nhạc thì Chư Thiên đều chú ý lắng nghe đến say mê. Chúng có một nhược điểm là ưa ngửi mùi hương, Vua trời Đế-Thích có một thứ hương để chiêu dụ Càn-Thát-Bà, có mùi hương thì Càn-Thát-Bà liền tới, rồi ở đấy nhẩy múa, ca hát, tấu nhạc, nên Càn-Thát-Bà còn gọi là Thần ngửi mùi hương.

5. A Tu La: A Sura: Phi Thiên, Thần, A-Tu-La là loài hay nổi giận còn được gọi là loại phi Thiên, không phải là dân thuộc Thiên giới, không có quyền hành  như chư Thiên; tuy vậy, A-Tu-La cũng được xếp vào hàng chúng sanh của cõi lành, chúng thường giao tranh với các Thiên tướng, Thiên binh.

6. Ca Lâu La: Garuda: Chim Súy-Điểu, Chim Cánh-Vàng, có thể biến thành lớn, thành nhỏ, khi ẩn khi hiện, hai cánh soè ra đến 360,000 dặm (theo quyển Nhị-Khóa Hiệp-Giải trang 278). Có 4 loại chim bằng noãn, thai, hóa, thấp sinh,

7. Khẩn Na La: Kini Nara: Nghi Nhân (hay nghi), Nhân Phi Nhân, giống người mà có một cái sừng trên đầu, cũng là Thần đánh nhạc cho Vua Trời Đế-Thích,

8. Ma Hầu La Dà: Mahoraga: Đại Phúc-Hành, đầu rắn mình người, Thần Rắn, Địa Long Thần, Đại Mãng Thần.

 

Ghi chú: Bát bộ kể trên, nhục nhãn loài người không thể trông thấy. Hai bộ Thiên và Long, thần nghiệm khá nhất là 2 loại đứng đầu trong tám bộ, nên gọi là Thiên Long Bát Bộ. Thiên Long Bát Bộ thường hầu Phật mỗi khi Phật thuyết pháp. Nói chung Thiên Long Tám Bộ đều xuất thân từ các hạng từ tốt như chư Thiên Thần đến Ma Quỷ, đều cải tà quy chính, theo Phật, trở thành một giới bảo hộ Phật pháp.

 

     Chúng ta thấy Kinh Văn 1 ở đây nói những sự thành tựu về: sự tin tưởng (Tín), sự nghe thấy (Văn), thời gian (Thời), vị thuyết pháp giảng Kinh (Chủ thể) là Đức Phật. Địa điểm nơi giảng Kinh tại gốc cây Âm nhạc thuộc thành Quảng nghiêm (Xứ thành tựu), và có vô số chúng tham dự nghe thuyết pháp (Chúng thành tựu); tất cả biểu tượng đầy đủ nhân duyên cho buổi nói Kinh.

 

KINH VĂN 2:    (Còn Tiếp)

Ý kiến bạn đọc
20 Tháng Hai 201811:09
Khách
A di da phat
20 Tháng Chín 201703:50
Khách
Tôi muốn xem toàn bộ kinh dược sư
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6171)
Niềm tin sâu xa nhất trong giáo lý nhà Phật là tất cả mọi người đều có thể tự cải biến mình trong từng giây phút một. Chẳng có gì gọi là định mệnh cả.
(Xem: 6521)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn.
(Xem: 7769)
Nhẫn nhục là chịu nhịn những điều sỉ nhục xấu hổ, nhục nhã, chịu đựng tổn thương trước những cảnh, sự việc không vừa lòng, nghịch ý, trái tai gai mắt;
(Xem: 6263)
Nền giáo dục hòa bình của Đạo Phật là một con đường đạo đức nhân bảnthiết thực, là căn cứ trên chân lý từ bi, công bằng và...
(Xem: 6587)
Chúng ta chỉ có thể nhìn thấy mọi sự vật, hiện tượng trong phạm vi giới hạn của đôi mắt mình, nhưng...
(Xem: 5700)
Tôi đến với Phật pháp vì … quá khổ.
(Xem: 5592)
Phải luôn luôn có tâm tùy hỷ đến tất cả mọi người, nếu chưa được giải thoát thì sau khi chết, năng lực tùy hỷ sẽ đẩy mình đến những cảnh giới tốt.
(Xem: 5659)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 6787)
Chúng ta biết tu là chúng ta biết sống. Một thứ tài sản không bao giờ bị mất. Ai muốn giàu, muốn sung túc thì hãy ráng nhớ giữ gìn tài sản này.
(Xem: 6053)
Thuyết bốn Đế, tức bốn Chân lýcăn bản, là cốt lõi tinh túy của đạo Phật, là nội dung bài thuyết pháp đầu tiên của Phật ở Vườn Nai (Bénarès).
(Xem: 7067)
Đạo Phật thường quán niệmsuy tưởng về khổ đau vì đó là kinh nghiệm chung của toàn thể nhân loại.
(Xem: 6188)
Chúng ta chẳng cần tìm Phật ở đâu xa, ngài luôn luôn ở ngay trong cuộc đời, nhưng chúng ta không thấy, vì ...
(Xem: 6138)
Chúng ta có thể tìm ra chánh pháp của Phật, nghĩa là chân lý, ở khắp mọi nơi, chứ không bắt buộc chỉ tìm trong kinh điển.
(Xem: 6572)
Chúng ta đã tìm Phật và tìm Pháp, nay phải đi tìm Tăng cho đủ Tam Bảo, nói cho đủ là Tăng già, phiên âm chữ Phạn Sangha.
(Xem: 5880)
Dù là xuất gia hay tại gia, thường niệm pháp Quy Y trong đời sống, lấy Tam Bảo làm mục đích làm lợi ích cho Dân Tộc và cho cả chúng sinh.
(Xem: 6035)
Kinh sách và Đạo Pháp của Phật không phải giúp để góp nhặt sự hiểu biết mà phải dùng để tự biến cải lấy chính ta.
(Xem: 6421)
Tâm chúng sinh và Phật vốn không khác. Tất cả đều do tâm tạo. Mười cõi cũng do tâm tạo.
(Xem: 5656)
" Nầy các Tỳ kheo Như Lai nói tác ý tức là nghiệp vì có ý muốn làm mới có hành động thân khẩu ý ". Như vậy mười nghiệp lành là 10 điều giúp cho con người thực hiện trong sạch hoá thân khẩu và ý .
(Xem: 6799)
Khái niệm về sự tái sinh không phải là một khái niệm đặc thù của Phật Giáo mà đấy chỉ là một học thuyết chủ trương sự « đầu thai »
(Xem: 5974)
Có những niềm tin gây mê lầm, tội lỗi, gieo tai họa cho chính những người mang niềm tin đó mà họ không hay không biết, hoặc gieo tai họa lên nhiều người...
(Xem: 5842)
Theo kinh Lăng-già, Bồ-tát vì muốn độ tất cả chúng sanh đạt đến Niết-bàn nên phát nguyện ở lại thế giới nhiều khổ đau này để làm lợi ích cho chúng sanh.
(Xem: 6547)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ,
(Xem: 5459)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ,
(Xem: 5540)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(Xem: 8030)
Mười nghiệp lành không những ngăn giữ chúng sanh khỏi bị đọa lạc vào bốn con đường đau khổ, mà còn mở cánh cửa thênh thang hạnh phúc an vui của phước báu nhân thiên sang cả.
(Xem: 6117)
Theo tâm lýkinh nghiệm, việc chọn lựa một tông phái để theo, phần lớn tùy thuộc vào sở thích và môi trường sinh sống của từng người.
(Xem: 5678)
Tất cả các hệ thống giáo lý phong phú của đạo Phật chỉ có một mục đích duy nhất là trình bày phương pháp và đường lối giải thoát,
(Xem: 8825)
Một người đã tin ở luật nhân quả trong đời hiện tại thì cũng phải tin ở luật nhân quả các đời quá khứ, và vị lai.
(Xem: 6495)
Thực tế cho chúng ta thấy, người học đạo thì nhiều, nhưng để sửa tâm tánh thì không bao nhiêu, đó là kết quả do việc không chịu lắng nghe.
(Xem: 5857)
"Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra; nghiệp là quyền thuộc, là nơi nương tựa" .
(Xem: 5767)
Ngày nay phong trào nghiên cứu Phật học không còn bị thu hẹp trong giới Phật giáo mà đã phổ biến vào mọi tầng lớp của xã hội, không phần biệt Tôn giáo.
(Xem: 5275)
Học Phật là học con đường trở về với chân tâm, với Phật tánh—vốn hàm tàng nơi chính mình và tất cả chúng sinh.
(Xem: 6694)
Phật giáo nguyên thủy, xuất phát từ miền nam Ấn Độ, rồi được truyền sang Tích Lan, từ Tích Lan truyền qua Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào...
(Xem: 6929)
Sám hối không có nghĩa là hết tội nhưng nó có mãnh lực làm cho tâm mình thanh thản, nhẹ nhàng vì vậy nó giúp ngăn hay chận bớt những ác nghiệp mà mình đã tạo ra.
(Xem: 11049)
Tứ đếgiáo nghĩa cơ bản dùng để giải thích mọi hiện tượng nhân sinh vũ trụ được quy nạp từ thập nhị nhân duyên, là con đường trung đạo duy nhất giải thoát sinh tử luân hồi.
(Xem: 8005)
“Những Điều Phật Đã Dạy” là một trong những quyển sách nói về Phật học bán chạy nhất ở các nước phương Tây, được dịch ra nhiều thứ tiếng...
(Xem: 6039)
Tham sống sợ chết, đó là sự thật của người đời. Thế nhưng tại sao lại giết hại, cắt đứt sự sống của chúng sanh khác?
(Xem: 5377)
Theo nguyên tắc chung, tôi nghĩ rằng tôn giáo của cha mẹ mình là tôn giáo thích nghi nhất cho mỗi người.
(Xem: 7041)
Quan niệm về cái gọi là "đời cha ăn mặn đời con khát nước" cho rằng có một cái gì vô hình lưu truyền cái nhân xấu do đời cha tạo ra và chuyển giao cái quả xấu do nhân xấu mang lại cho con cái.
(Xem: 5973)
Học Phật không phải chỉ biết được lời Phật dạy, biết qua kiến thức suông để đàm luận, lý luận, mà cần phải thực tập, áp dụng vào cuộc sống của mỗi người trong sự nghe thấy, tư duy và hành động.
(Xem: 6416)
Trong Phật Pháp, đức Phật đã chỉ sẵn một phương pháp, một nghệ thuật hay còn gọi là một bí quyết để có một đời sống hạnh phúc, đó là gìn giữ năm giới.
(Xem: 21043)
Vô thườngtính chất căn bản của đời sống; tất cả mọi sự vật sinh ra có điều kiện đều có tính chất của bốn giai đoạn “thành, trụ, hoại, diệt”
(Xem: 5808)
Mỉm một nụ cười, trở về với một hơi thở, bước một bước chân thảnh thơi... cũng có thể là những phép lạ giữa một cuộc sống căng thẳng và quá bận rộn.
(Xem: 7152)
Về phương diện đạo lý, Phật giáo cao hơn các hệ thống đạo đức khác, nhưng đạo đức chỉ là bước đầu chứ không phải cứu cánh của Phật giáo.
(Xem: 8572)
Bát Chánh Đạogiáo lý căn bản của Đạo đế (trong Tứ Đế) gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đây là những phương tiện hành trì phổ biến sâu rộng chung cho Ngũ thừa Phật giáo.
(Xem: 6870)
Chữ Không của Bát Nhã đứng vững là dựa trên lý nhân duyên, nếu lý nhân duyênchân lý thì chữ Không cũng sẽ là chân lý.
(Xem: 7727)
Đây là 4 pháp, 4 nguyên tắc sống mà tiền thân chư Phật, tức chư Bồ-tát thường áp dụng để nhiếp hóa, cảm hóa chúng sanh...
(Xem: 5367)
Có những người sinh trưởng ở những nơi mà niềm tin về tái sinh là một thành phần trong nền văn hóa của họ.
(Xem: 18594)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14379)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13550)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13531)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11800)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13217)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13639)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13916)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13239)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15011)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16142)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11069)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant