Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bồ Tát Long Thọ Vì Vua Thiền Đà Ca Nói Kệ Pháp Trọng Yếu

27 Tháng Mười 201520:09(Xem: 12417)
Bồ Tát Long Thọ Vì Vua Thiền Đà Ca Nói Kệ Pháp Trọng Yếu
BỒ-TÁT LONG THỌ VÌ VUA THIỀN-ĐÀ-CA NÓI KỆ PHÁP TRỌNG YẾU
Kinh văn số 1672

Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, Luận tập bộ toàn
Đời Tống, Tam Tạng Pháp Sư Cầu-Na-Bạt-Ma dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán
Sa-môn Thích Như Điển phương trượng chùa Viên Giác Đức quốc
Dịch từ chữ Hán sang chữ Việt nhân khai mạc khoá tu học Phật Pháp Âu châu lần thứ 19
Tại Göterborg Thụy Điển, ngày 27.07.2007
Hiệu đính lần thứ nhất ngày 27 tháng 10 năm 2015
 

 

   Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết

   Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm

   Trọn bị vô minh che, ngăn ngại

   Ta nay vì họ hưng lợi ích.

   Ví như khắc hoạ, tạo tượng Phật,

   Người trí thấy được nên cung kính,

   Ta nương Như Lai nói chính Pháp

   Đại vương cũng nên tin nhận sâu.

   Ngài trước tuy nghe lời Thích-Ca

   Nay nếu nghe nhận thêm nhận thức.

   Giống như ao hoa sắc thanh tịnh

   Ánh trăng tỏa chiếu sáng hơn ngày.

   Phật nói sáu niệm phải tu tập

   Nghĩa là: Tam Bảo, Thí, Giới, Thiên.

   Tu hành mười thiện tịnh ba nghiệp,

   Lìa rượu, phóng dậttà mạng,

   Quán thân, mạng, tài chóng nguy ngập

   Nên thí Phước Điền cứu nghèo cùng,

   Thí làm bền chắc không gì sánh

   Là người thân cận tối đệ nhất.

   Chăm tu tịnh giới trừ vết uế,

   Cũng chớ mong muốn, cầu các Hữu.

   Ví như gieo trồng trong đại địa

   Giới sinh các thiện cũng như thế.

   Tu Nhẫn, nhu hoà, bỏ sân khuể

   Phật nói hành này tối thượng nhất.

   Như thế Tinh tiến và Thiền, Trí

   Đủ sáu hành này vượt sống chết.

   Có thể ở nhà hiếu cha mẹ

   Đó tức gọi là thắng phúc điền,

   Hiện đời danh tiếng lớn truyền khắp,

   Vị lai phúc báo chuyển vô lượng.

   Giết, trộm, dâm, dối, đam mê rượu,

   Giường chạm cao rộng và xông hương,

   Hát ca xướng kỹ, ăn quá thời,

   Các ác như thế phải xa lìa.

   Nếu chút thời gian tu giới này

   Thọ vui cõi trời, lên niết-bàn.

   Xan tật, tham dục và xiểm ngụy,

   Cuống hoặc, điên đảogiải đãi

   Các pháp ác, bất thiện như thế

   Đại vương phải quán, chóng vứt bỏ.

   Đoan chính, tôn cao và năm dục                             

   Phải biết nguy ngập và phù phiếm,

   Chớ cậy vào pháp không chắc ấy.

   Kiêu dật, phóng túng sinh các khổ,

   Muốn tăng các thiện, chứng cam lồ

   Phải nên xa lià như vứt độc.

   Có thể tinh cần bỏ kiêu mạn

   Ví như trừ mây hiển trăng thu,

   Giống như Chỉ-Kế và Nan-Đà,

   Cũng như Sai-Ma... các hiền thánh.

   Như Lai nói có ba loại lời:

   Lời nhập ý, chân thật, hư vọng,

   Nhập ý như hoa, Thật như mật,

   Hư vọng ác hèn như phẩn uế,

   Phải nên tu tập hai loại trước,

   Nhanh chóng dứt trừ loại hư vọng.

   Bốn loại pháp từ sáng vào sáng

   Vua  phải phân biệt, suy nghĩ kỹ,

   Hai loại vào sáng thì nên tu,

   Nếu là si tối phải chóng bỏ,

   Quả Am-ba-la hoá bốn loại

   Người khó phân biệt cũng như vậy.

   Phải lấy trí huệ quán sát sâu

   Nếu thật hiền thiện nên gần gũi.

   Tuy thấy người nữ cực đoan nghiêm

   Phải tưởng như mẹ, như người hầu,

   Nếu khởi tâm tham dục ái nhiễm

   Phải nên chính tu quán bất tịnh.

   Tâm này tháo động phải cấm chế

   Như giữ thân mạng hoặc trân bảo,

   Tâm dục nếu khởi phải kinh sợ

   Như sợ đao kiếm, các ác thú.

   Dục làm bất lợi như oán độc

   Đấng Mâu-Ni nói lời như thế.

   Sinh tử luân hồi quá ngục trói

   Nên phải chăm tu cầu giải thoát.

   Sáu Nhập tháo động ruổi các cảnh

   Phải nên thu giữ chớ buông lung.

   Có thể như thế nhiếp các căn

   Hơn cả dũng tướng thắng giặc mạnh.

   Thân này bất tịnh chín lỗ chảy

   Chẳng có cùng tận như sông biển,

   Da mỏng đậy che dường thanh tịnh

   Như anh lạc giả tự trang nghiêm,

   Những người có trí chính phân biệt

   Biết nó dối gạt liền vứt bỏ.

   Ví như người ghẻ cạnh lửa nồng

   Thoạt tuy tạm thích sau thêm khổ,

   Tưởng của tham dục cũng như thế

   Lúc đầu chút lạc sau nhiều hoạn.

   Thấy thật tướng thân đều bất tịnh

   Ngay đó quán không, không có ngã,

   Nếu có thể tu tập quán này

   Trong các lợi ích vô thượng nhất.

   Tuy có dòng tộc và nghe nhiều

   Nếu không giới, trí như cầm thú,

   Tuy chỗ xấu hèn, ít thấy nghe

   Tu được giới, trí gọi thắng sỹ.

   Tám pháp: lợi, suy... khó thể tránh

   Nếu trừ bỏ được thật không sánh.

   Các vị Sa-môn, Bà-la-môn

   Có cha mẹ, vợ con, quyến thuộc

   Chớ vì ý họ, nhận lời họ

   Rộng tạo bất thiện, hành phi pháp,

   Nếu vì như thế khởi các lỗi

   Vị lai khổ lớn chỉ mình nhận.

   Phàm tạo các ác chưa báo ngay,

   Không như đao kiếm liền thương, hại

   Lâm chung tướng tội mới cùng hiện,

   Sau vào địa ngục chịu các khổ.

   Tín, Thí, Giới, văn, Tuệ, Tàm, Quý

   Bảy pháp như thế gọi Thánh tài

   Chân thật, không sánh, Mâu-Ni nói

   Siêu việt các trân bảo thế gian.

   Đại vương nếu tập thắng tài này

   Không lâu cũng chứng quả đạo trường.

   Giỏi cờ, rượu ngọt, đàn sáo hay

   Giải đãi, kiêu dật và bạn ác,

   Phi thời, khinh tháo, nhiều động loạn

   Bảy pháp như đây phải lìa xa.

   Tri túc thứ nhất hơn các tài

   Lời như thế được Thế tôn nói,

   Biết đủ, tuy nghèo được gọi giầu,

   Có của , nhiều dục gọi là nghèo,

   Nếu nhiều tài nghiệp tăng các khổ,

   Như rồng nhiều đầu thêm độc tố.

   Phải quán vị ngon như thuốc độc

   Dùng nước trí huệ vẩy khiến sạch.

   Vì giữ thân này nên phải ăn

   Chớ tham vị sắc, tăng kiêu mạn,

   Nơi các dục nhiễm phải sinh chán.

   Điều hoà thân này khiến an ổn,

   Cần cầu đạo vô thượng niết-bàn,

   Sau rồi nên phải tu trai giới.

   Một đêm phân biệt có năm thời,

   Ở trong hai thời phải ngủ nghỉ,

   Đầu đêm, giữa, cuối quán sinh tử,

   Phải chăm cầu thoát chớ qua không.

   Bốn định vô lượng phải tu tập

   Đó gọi là mở đường Phạm Thiên,

   Nếu chuyên trói niệm bốn tâm thiền

   Mạng hết ắt sinh nơi trời ấy.

   Hữu vi dời đổi đều vô thường

   Khổ, không, bại hoại, chẳng kiên cố,

   Không ngã, không lạc, chẳng thanh tịnh,

   Như thế đều gọi: pháp đối trị.

   Nếu ai quán sâu pháp môn này,

   Vị lai thường ở vị tôn quý.

   Tu hành năm giới, đoạn năm tà,

   Cũng là điều đại vương nên niệm:

   Ví như chút muối thả sông Hằng

   Chẳng thể khiến nước có vị mặn,

   Ác nhỏ ít nếu gặp các thiện,

   Tiêu tan bại hoại cũng như thế.

   Năm tà nếu tăng, cướp công đức

   Vua phải trừ diệt chớ cho tăng,

   Năm căn như: Tín..., các nguồn thiện,

   Thì phải tu tập khiến tăng thêm.

   Tám khổ như: sinh...thường hực cháy

   Thường dùng nước huệ rưới cho diệt.

   Muốn cầu thiên lạc và niết-bàn

   Phải thường tu tập chính tri kiến.

   Tuy có trí bén, vào đạo tà,

   Công đức vi diệu mãi không thừa.

   Bốn loại điên đảo hại các thiện

   Cho nên phải quán chớ cho sinh:

   Sắc chẳng phải ngã, ngã chẳng sắc

   Trong ngã không sắc, sắc không ngã,

   Nơi sắc sinh bốn loại tâm này,

   Các ấm còn lại cũng như thế,

   Hai mươi tâm này gọi điên đảo,

   Có thể trừ được là tối thượng.

   Pháp không tự khởi, vô minh sinh

   Chẳng Tự Tại hay thời, hữu làm,

   Đều từ vô minh, nghiệp ái khởi,

   Nếu không nhân duyên liền dứt hoại.

   Đại vương đã biết các nhân này

   Phải thắp đèn huệ trừ si tối.

   Các kết: thân kiến, giới thủ, nghi

   Ba thứ hay chướng đạo vô lậu,

   Nếu vua hủy hoại khiến diệt tan

   Pháp Thánh giải thoát sẽ hiển hiện.

   Ví như người mù hỏi tướng nước

   Trăm nghìn vạn kiếp chẳng thể biết,

   Dục cầu niết-bàn cũng như thế

   Chỉ tự tinh cần sau mới chứng.

   Dục giả quyến thuộctri thức

   Nhưng gặp được thì cực khó có,

   Cho nên Đại Vương phải tinh tiến

   Rồi sau có thể chứng tịch diệt.

   Thí, Giới, Nghe Nhiều và Thiền Định

   Nhân đây dần gần bốn chân đế.

   Nhân chủ nên phải tu tuệ minh,

  Hành ba pháp này cầu giải thoát

  Có thể tu thừa tối thượng này

  Ắt nhiếp tất cả các thiện khác.

  Đại Vương phải tu pháp Niệm Thân,

  Thế Tôn gọi là đạo thanh tịnh,

  Nếu không niệm này, tăng giác ác

  Cho nên cần phải chăm tu tập.

  Mạng người ngắn ngủi chẳng dừng lâu

  Như bọt trên nước, khởi liền diệt,

  Khoảng thở ra, hít vào, ngủ nghỉ

  Niệm niệm hằng sút thường suy giảm,

  Không lâu liền sẽ thấy tiêu diệt,

  Da thịt thối nát cực đáng chán

  Đờm xanh, trương hoại, máu bầm chảy,

  Trùng dòi ăn hút đến khô kiệt,

  Tóc, lông, móng, răng mỗi phân tán,

  Gió thổi, nắng thiêu lần khô tận.

  Phải biết thân này chẳng vững bền

  Tích tụ bởi vô lượng khổ não,

  Cho nên hiền thánh, người có trí

  Đều quán lỗi ấy mà vứt bỏ.

  Tu-Di, biển rộng với sông dài

  Bảy mặt trời chiếu đều tan hết,

  Kiên cố như vậy còn phá hủy

  Huống lại là thân nguy ngập này,

  Vô thường đã đến không cứu hộ,

  Không thể cậy tình hoặc truy cầu.

  Cho nên Đại Vương phải quán kỹ

  Chóng sinh chán lià cầu thắng pháp.

  Thân người khó được, nghe pháp khó

  Giống như rùa mù gặp lỗ trôi,

  Nếu đã được thân hiếm có này

  Phải nên chăm tâm nghe chính pháp.

  Được thân vi diệu mà tạo ác

  Ví như đồ quý đựng các độc,

  Sinh ở trung quốc, gặp bạn lành

  Chuyên niệm, phát tâm, khởi chính nguyện.

  Lâu trồng công đức đủ các căn

  Nay vua đầy đủ các thiện này,

  Nếu lại gần gũi người tri kiến,

  Phật gọi đây là tịnh Phạm hành,

  Cho nên phải nên vui tùy thuận,

  Chư Phật do đây chứng niết-bàn.

  Đã gặp pháp thanh tịnh vi diệu

  Phải nên chí cầu đạo lìa dục.

  Sinh tử hiểm nạn khổ vô lượng

  Nói đến cùng kiếp cũng chẳng hết,

  Ta nay vì vua lược phân biệt

  Phải nên lắng nghe khéo suy nghĩ.

  Ba cõi biến chuyển không giới hạn,

  Cha mẹ, vợ con nhân lẫn nhau

  Oán thân, yêu ghét chỗ vô thường,

  Như bánh xe lửa há cùng tận?

  Vô thỉ sinh tử thế giới lại

  Sữa mẹ đã uống hơn đại hải,

  Nếu chẳng tinh cần chứng trí Không

 Tương lai lại  uống không cùng tận.

  Lăn khắp năm đường, trải trời, người

  Nếu góp xương cao hơn Tu-Di,

 Nước mắt của ái biệt sầu bi

 Cũng chẳng phải sông biển so bì.

 Nếu tính cha mẹ của một người

 Vượt quá thế gian số cây cỏ.

 Tuy hưởng năm dục vui trên trời

 Rốt trở lại đọa ác thú khổ,

 Chư thiên thọ mạng cực lâu dài

 Thọ lạc khoảng ấy khó tuyên nói,

 Hát xướng ca múa dòng diệu thanh

 Ai âm hoà nhã rất trong xa,

 Kỳ-bà diệu sắc cực đoan nghiêm

 Vây quanh hầu vệ cùng hoan lạc,

 Cỗ bàn trăm vị đều đầy đủ

 Tùy theo ý thích đến tự nhiên,

 Ao báu hương, nước tịnh tràn đầy,

 Khắp nơi giăng phủ hoa vi diệu,

 Các chim sắc lạ tụ bên trên

 Hót hòa nhau phát xa diệu âm,

 Chư thiên du hí, tắm trong ấy

 Vui thích như thế chẳng thể nói.

 Hết phúc lâm chung năm suy hiện

 Bấy giờ ngồi khổ nhớ vui trước.

 Cho nên tuy có vui thiên nữ

 Người trí thấy đó đã sinh chán.

 Tuy ở trân bảo lên lầu quán

 Cũng ắt thối đọa nơi thối bẩn,

 Tuy trong vườn Nan-Đà trên trời

 Cũng lại phải vào rừng đao kiếm,

 Tuy tắm ao Mạn-Đà chư thiên

 Rốt ắt rơi vào ngục sông tro,

 Tuy ở địa vị vua Chuyển Luân

 Rốt là đồng bộc bị truy đuổi,

 Tuy thọ vui lìa dục Phạm Thiên

 Lại rơi vô gián khổ thiêu đốt,

 Tuy ở thiên cung đầy ánh sáng

 Sau vào trong địa ngục hắc ám,

 Gọi là địa ngục Hoạt, Hắc-Thằng,

 Thiêu, cắt, chém, đâm và vô gián ,

 Tám địa ngục này thường thiêu đốt

 Đều là nghiệp báo chúng sinh ác.

 Hoặc chịu khổ lớn như ép dầu,

 Hoặc nghiền thân thể như bụi phấn,

 Hoặc phanh chi tiết cho phân tán,

 Hoặc lại chém cắt và thiêu nấu,

 Hoặc lấy đồng sôi đổ vào miệng

 Hoặc lấy móng sắt xé thân hình,

 Chó sắt tranh nhau lại ăn nuốt,

 Chim sắt tụ lại cùng mổ xé,

 Các loại trùng  độc đều gặm nhắm,

 Hoặc cột đồng cháy xuyên qua thân,

 Lửa lớn hừng hực cùng đỗng nhiên

 Vì nhân tội nghiệp không trốn thoát.

 Vạc dầu sôi sục đến cao vọt

 Tội nhân điên đảo choàng nhảy vào.

 Mạng người nguy ngập cực nhanh chóng 

 Ví như khoảng hơi thở chư thiên,

 Nếu ai với mạng ngắn như thế,

 Nghe các khổ trên không kinh sợ,

 Phải biết tâm ấy rất kiên cố

 Giống như kim cương khó bẻ gãy.

 Nếu thấy tranh vẽ, nghe người nói,

 Hoặc theo kinh sách tự nhớ nghĩ,

 Khi biết như thế đã khó nhẫn

 Huống lại thân mình tự trải qua?

 Địa ngục lớn không ngừng, không cứu  

 Trong đó các khổ không cùng tận.

 Nếu lại có ai trong một ngày

 Bị ba trăm giáo đâm thân thể

 So một niệm khổ ngục A-Tì

 Trăm nghìn vạn phần chẳng được một.

 Chịu khổ lớn này trải một kiếp,

 Duyên tội nghiệp hết lại được miễn.

 Khổ não như thế từ ai sinh?

 Đều là ba nghiệp bất thiện khởi.

 Tuy nay Đại Vương không nạn ấy

 Nếu không tu nhân, rốt đoạ lạc,

 Ở trong súc sinh khổ vô lượng

 Hoặc bị  trói buộc hoặc đòn roi.

 Vì không có Tín, Giới, Đa Văn

 Luôn với ác tâm ăn nuốt nhau,

 Xương, lông, da, thịt đến tàn hại, 

 Hoặc là minh châu, lông, sừng, răng,                                                                                                                    

 Bị người đóng cưỡi không tự tại

 Thường chịu khổ ngói đá dao gậy.

 Trong đường ngạ quỷ khổ cũng vậy

 Các sự mong cầu chẳng tùy ý,

 Đói khát bức bách, khốn lạnh nóng,

  Các khổ thiếu, mệt nhiều vô lượng,

  Bụng lớn như núi, họng như kim

  Phẩn uế máu tanh, không thể nói,

  Loã hình phủ tóc cực xấu ác

  Như cây đa-la bị đốt, chặt

  Đêm miệng ắt bị lửa lớn đốt,

  Các trùng cùng đến tranh ăn hút,

  Phân tiểu cấu uế các bất tịnh

  Trăm nghìn vạn kiếp chẳng thể được,

  Nếu lại tìm cầu được ít phần

  Lại cướp đoạt nhau cùng tan mất.

  Trăng mát đêm thu như nạn lửa,

  Ôn hoà ngày xuân hoá khổ lạnh,

  Nếu đến vườn rừng, quả hết sạch,

  Nếu đến dòng trong biến cạn khô.

  Vì duyên tội nghiệp thọ lâu dài,

  Trải qua một vạn năm nghìn năm,

  Chịu các khổ độc không chỗ khuyết

   Đều là quả báo của ngạ quỷ.

  Chính Giác nói nhân khổ não này

  Gọi là nghiệp xan tham, tật đố.

  Nếu phúc trời hết còn sót thiện

  Nhân đó được làm vua cõi người,

  Sau nếu giải đãi, phúc đều hết

  Ắt đoạ ba ác chẳng chút nghi.

  Hoặc sinh Tu-la khởi cống cao

  Khuể, tật, tham, hại tăng các não.

  Chư thiên tuy có báo thiện hành

  Vì xan tật kia mất lợi lạc.

  Cho nên phải biết kết tật đố

  Là pháp nhiễm, ác phải vứt bỏ.

  Đại Vương, ngài nay đã biết đủ

  Sinh tử lỗi ác nhiều các khổ,

  Phải nên chăm tu thiện xuất thế

  Như khát muốn uống, cứu cháy đầu,

  Nếu thêm tinh tiến dứt các Hữu

  Trong các thiện là vô thượng nhất.

  Phải chăm trì giới, tu thiền, trí

  Điều phục tâm kia, cầu niết-bàn.

  Niết-bàn vi diệu tuyệt các tướng

  Không khổ sinh, lão, bệnh, não sầu,

  Cũng không sông núi với nhật nguyệt

  Cho nên phải nên chóng chứng biết.

  Nếu muốn chứng được trí Vô Sư

  Phải nên chuyên tu Thất Giác pháp,

  Nếu ai ngồi thuyền Giác phần này

  Dễ vượt thoát biển sinh tử lớn.

  Mười bốn pháp chẳng được Phật nói

Chỉ sinh tâm tin, chớ nghi hoặc,

Chỉ phải chính niệm chăm tinh tiến

Quyết định tu tập các pháp thiện.

Vô minh duyên hành, thức, danh sắc,

Sáu nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu,

Hữu ắt duyên sinh, sinh duyên tử

Nếu hết sinh tử, nhân duyên diệt,

Như thế chính quán mười hai duyên

Người này ắt thấy Thánh Sư Tử.

Nếu muốn lần lượt thấy Tứ Đế

Phải chăm tu tập Bát Chính Đạo.

Tuy ở chỗ tôn vinh, năm dục

Cũng được Thánh Đạo dứt các kết.

Quả này chẳng thể cầu người khác

Ắt phải tự tâm mới chứng được.

Ta nói các khổ và niết-bàn

Vì muốn lợi ích cho Đại Vương,

Không nên khởi sinh tâm kinh sợ,

Chỉ chăm tụng tập, hành các thiện.

Tâm là căn bản của các pháp

Nếu trước điều phục các việc vui.

Ta nói pháp yếu, lược phân biệt

Vua chẳng nên sinh tâm nhàm đủ,

Nếu bậc trí lớn nói rộng thêm

Cũng phải lắng tâm chăm nghe nhận.

Vua nay gọi là Pháp Khí Lớn

Nếu rộng nghe pháp ắt nhiều ích.

Nếu thấy ai tu ba nghiệp thiện

Phải sinh tâm tùy hỉ, giúp sâu,

Tự mình hành thiệntùy hỉ

Công đức như vậy trọn hồi hướng.

Vua phải ngưỡng học các hiền thánh

Như đức Quán Âm ...độ chúng sinh,

Vị lai ắt sẽ thành chính giác

Cõi không sinh, lão, ba độc hại.

Đại Vương nếu tu trên các thiện

Ắt danh xưng đẹp rộng lan truyền,

Sau đó dùng đây giáo hoá người

Khiến khắp tất cả thành chính giác.

Sông xiết phiền não trôi chúng sinh

Vì sâu kinh sợ khổ hực cháy,

Muốn diệt các trần lao như thế

Phải tu chân thật giải thoát đế.

Lià các pháp thế gian giả danh

Ắt được chỗ bất động thanh tịnh.

Nếu có người vợ tâm độc hại

Người vợ như thế nên lìa xa,

Nếu trinh lương, hoà ái, kính chồng

Khiêm hạ, chăm chỉ như nô tì  

Hằng nghĩ đến thân hữu, di mẫu  

Nên tôn kính như thần trong nhà.

Pháp  được ta nói là như vậy

Vua nên ngày đêm chăm tu hành.


BỒ-TÁT LONG THỌ VÌ VUA THIỀN-ĐÀ-CA NÓI KỆ PHÁP TRỌNG YẾU
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6143)
Niềm tin sâu xa nhất trong giáo lý nhà Phật là tất cả mọi người đều có thể tự cải biến mình trong từng giây phút một. Chẳng có gì gọi là định mệnh cả.
(Xem: 6476)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn.
(Xem: 7730)
Nhẫn nhục là chịu nhịn những điều sỉ nhục xấu hổ, nhục nhã, chịu đựng tổn thương trước những cảnh, sự việc không vừa lòng, nghịch ý, trái tai gai mắt;
(Xem: 6232)
Nền giáo dục hòa bình của Đạo Phật là một con đường đạo đức nhân bảnthiết thực, là căn cứ trên chân lý từ bi, công bằng và...
(Xem: 6549)
Chúng ta chỉ có thể nhìn thấy mọi sự vật, hiện tượng trong phạm vi giới hạn của đôi mắt mình, nhưng...
(Xem: 5672)
Tôi đến với Phật pháp vì … quá khổ.
(Xem: 5545)
Phải luôn luôn có tâm tùy hỷ đến tất cả mọi người, nếu chưa được giải thoát thì sau khi chết, năng lực tùy hỷ sẽ đẩy mình đến những cảnh giới tốt.
(Xem: 5626)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 6745)
Chúng ta biết tu là chúng ta biết sống. Một thứ tài sản không bao giờ bị mất. Ai muốn giàu, muốn sung túc thì hãy ráng nhớ giữ gìn tài sản này.
(Xem: 6017)
Thuyết bốn Đế, tức bốn Chân lýcăn bản, là cốt lõi tinh túy của đạo Phật, là nội dung bài thuyết pháp đầu tiên của Phật ở Vườn Nai (Bénarès).
(Xem: 7025)
Đạo Phật thường quán niệmsuy tưởng về khổ đau vì đó là kinh nghiệm chung của toàn thể nhân loại.
(Xem: 6158)
Chúng ta chẳng cần tìm Phật ở đâu xa, ngài luôn luôn ở ngay trong cuộc đời, nhưng chúng ta không thấy, vì ...
(Xem: 6084)
Chúng ta có thể tìm ra chánh pháp của Phật, nghĩa là chân lý, ở khắp mọi nơi, chứ không bắt buộc chỉ tìm trong kinh điển.
(Xem: 6539)
Chúng ta đã tìm Phật và tìm Pháp, nay phải đi tìm Tăng cho đủ Tam Bảo, nói cho đủ là Tăng già, phiên âm chữ Phạn Sangha.
(Xem: 5840)
Dù là xuất gia hay tại gia, thường niệm pháp Quy Y trong đời sống, lấy Tam Bảo làm mục đích làm lợi ích cho Dân Tộc và cho cả chúng sinh.
(Xem: 6007)
Kinh sách và Đạo Pháp của Phật không phải giúp để góp nhặt sự hiểu biết mà phải dùng để tự biến cải lấy chính ta.
(Xem: 6392)
Tâm chúng sinh và Phật vốn không khác. Tất cả đều do tâm tạo. Mười cõi cũng do tâm tạo.
(Xem: 5614)
" Nầy các Tỳ kheo Như Lai nói tác ý tức là nghiệp vì có ý muốn làm mới có hành động thân khẩu ý ". Như vậy mười nghiệp lành là 10 điều giúp cho con người thực hiện trong sạch hoá thân khẩu và ý .
(Xem: 6764)
Khái niệm về sự tái sinh không phải là một khái niệm đặc thù của Phật Giáo mà đấy chỉ là một học thuyết chủ trương sự « đầu thai »
(Xem: 5937)
Có những niềm tin gây mê lầm, tội lỗi, gieo tai họa cho chính những người mang niềm tin đó mà họ không hay không biết, hoặc gieo tai họa lên nhiều người...
(Xem: 5813)
Theo kinh Lăng-già, Bồ-tát vì muốn độ tất cả chúng sanh đạt đến Niết-bàn nên phát nguyện ở lại thế giới nhiều khổ đau này để làm lợi ích cho chúng sanh.
(Xem: 6501)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ,
(Xem: 5428)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ,
(Xem: 5499)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(Xem: 7982)
Mười nghiệp lành không những ngăn giữ chúng sanh khỏi bị đọa lạc vào bốn con đường đau khổ, mà còn mở cánh cửa thênh thang hạnh phúc an vui của phước báu nhân thiên sang cả.
(Xem: 6083)
Theo tâm lýkinh nghiệm, việc chọn lựa một tông phái để theo, phần lớn tùy thuộc vào sở thích và môi trường sinh sống của từng người.
(Xem: 5644)
Tất cả các hệ thống giáo lý phong phú của đạo Phật chỉ có một mục đích duy nhất là trình bày phương pháp và đường lối giải thoát,
(Xem: 8784)
Một người đã tin ở luật nhân quả trong đời hiện tại thì cũng phải tin ở luật nhân quả các đời quá khứ, và vị lai.
(Xem: 6461)
Thực tế cho chúng ta thấy, người học đạo thì nhiều, nhưng để sửa tâm tánh thì không bao nhiêu, đó là kết quả do việc không chịu lắng nghe.
(Xem: 5824)
"Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra; nghiệp là quyền thuộc, là nơi nương tựa" .
(Xem: 5733)
Ngày nay phong trào nghiên cứu Phật học không còn bị thu hẹp trong giới Phật giáo mà đã phổ biến vào mọi tầng lớp của xã hội, không phần biệt Tôn giáo.
(Xem: 5241)
Học Phật là học con đường trở về với chân tâm, với Phật tánh—vốn hàm tàng nơi chính mình và tất cả chúng sinh.
(Xem: 6658)
Phật giáo nguyên thủy, xuất phát từ miền nam Ấn Độ, rồi được truyền sang Tích Lan, từ Tích Lan truyền qua Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào...
(Xem: 6893)
Sám hối không có nghĩa là hết tội nhưng nó có mãnh lực làm cho tâm mình thanh thản, nhẹ nhàng vì vậy nó giúp ngăn hay chận bớt những ác nghiệp mà mình đã tạo ra.
(Xem: 10991)
Tứ đếgiáo nghĩa cơ bản dùng để giải thích mọi hiện tượng nhân sinh vũ trụ được quy nạp từ thập nhị nhân duyên, là con đường trung đạo duy nhất giải thoát sinh tử luân hồi.
(Xem: 7957)
“Những Điều Phật Đã Dạy” là một trong những quyển sách nói về Phật học bán chạy nhất ở các nước phương Tây, được dịch ra nhiều thứ tiếng...
(Xem: 5995)
Tham sống sợ chết, đó là sự thật của người đời. Thế nhưng tại sao lại giết hại, cắt đứt sự sống của chúng sanh khác?
(Xem: 5350)
Theo nguyên tắc chung, tôi nghĩ rằng tôn giáo của cha mẹ mình là tôn giáo thích nghi nhất cho mỗi người.
(Xem: 7000)
Quan niệm về cái gọi là "đời cha ăn mặn đời con khát nước" cho rằng có một cái gì vô hình lưu truyền cái nhân xấu do đời cha tạo ra và chuyển giao cái quả xấu do nhân xấu mang lại cho con cái.
(Xem: 5950)
Học Phật không phải chỉ biết được lời Phật dạy, biết qua kiến thức suông để đàm luận, lý luận, mà cần phải thực tập, áp dụng vào cuộc sống của mỗi người trong sự nghe thấy, tư duy và hành động.
(Xem: 6386)
Trong Phật Pháp, đức Phật đã chỉ sẵn một phương pháp, một nghệ thuật hay còn gọi là một bí quyết để có một đời sống hạnh phúc, đó là gìn giữ năm giới.
(Xem: 20973)
Vô thườngtính chất căn bản của đời sống; tất cả mọi sự vật sinh ra có điều kiện đều có tính chất của bốn giai đoạn “thành, trụ, hoại, diệt”
(Xem: 5776)
Mỉm một nụ cười, trở về với một hơi thở, bước một bước chân thảnh thơi... cũng có thể là những phép lạ giữa một cuộc sống căng thẳng và quá bận rộn.
(Xem: 7108)
Về phương diện đạo lý, Phật giáo cao hơn các hệ thống đạo đức khác, nhưng đạo đức chỉ là bước đầu chứ không phải cứu cánh của Phật giáo.
(Xem: 8539)
Bát Chánh Đạogiáo lý căn bản của Đạo đế (trong Tứ Đế) gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đây là những phương tiện hành trì phổ biến sâu rộng chung cho Ngũ thừa Phật giáo.
(Xem: 6834)
Chữ Không của Bát Nhã đứng vững là dựa trên lý nhân duyên, nếu lý nhân duyênchân lý thì chữ Không cũng sẽ là chân lý.
(Xem: 7689)
Đây là 4 pháp, 4 nguyên tắc sống mà tiền thân chư Phật, tức chư Bồ-tát thường áp dụng để nhiếp hóa, cảm hóa chúng sanh...
(Xem: 5327)
Có những người sinh trưởng ở những nơi mà niềm tin về tái sinh là một thành phần trong nền văn hóa của họ.
(Xem: 18497)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14302)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13453)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13443)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11725)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13159)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13570)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13839)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13155)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 14919)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16067)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 10990)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant