Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tìm Hiểu Ý Nghĩa Bát Nhã Ba-la-mật Đa Tâm Kinh

21 Tháng Mười Hai 201513:15(Xem: 17365)
Tìm Hiểu Ý Nghĩa Bát Nhã Ba-la-mật Đa Tâm Kinh

Tìm Hiểu Ý Nghĩa
BÁT NHÃ BA-LA-MẬT ĐA TÂM KINH

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

 
Tìm Hiểu Ý Nghĩa Bát Nhã Ba-la-mật Đa Tâm Kinh

DẪN NHẬP

Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông được nhiều người đọc thuộc, nhưng về ý nghĩa thì cũng có nhiều gút mắc vì kinh được tụng đọc bằng âm Việt nhưng phải hiểu theo nghĩa tiếng Hán. Nhân 3 tháng an cư Kiết Đông 2015 tại Tổ Đình Thiền Tánh Không, Perris, California, chúng tôi được giảng dạy và ôn tập lại bài kinh này và hôm nay có ý muốn ghi lại chia sẻ cùng các bạn có nhu cầu muốn nghiên cứu tìm hiểu. Đây chỉ là một đóng góp nhỏ nhoi ở một góc cạnh nào đó của bài kinh theo cái nhìn của Thiền Tánh Không.  Cũng xin thưa cùng độc giả, với kiến thức thô thiển của người chập chửng trên con đường tu học nên chắc chắn chưa nêu lên hết những nghĩa lý thâm sâu của chư Tổ muốn truyền dạy. Nếu có điều gì sơ sót đó là lỗi của người viết, chứ không phải lỗi của người dạy. Kính thỉnh chư tôn thiền đức từ bi hoan hỷ, và dạy dỗ để chúng con có cơ hội học hỏi thêm về nền minh triết bao la của đạo Phật. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

BÁT NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA TÂM KINH

Ma-Ha Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinh,

            Quán-Tự-Tại Bồ-Tát hành thâm Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

            "Xá-Lợi-Tử, Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị."

            Xá-Lợi-Tử!  thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô Sắc, vô Thọ, Tưởng, Hành, Thức;  vô Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý; vô Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp; vô Nhãn giới, nãi chí vô Ý Thức giới, vô Vô Minh diệc, vô Vô Minh tận, nãi chíLão Tử, diệc vô Lão Tử Tận;  vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo, vô Trí, diệc vô Đắc, dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề-tát-đoả y Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa cố tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật y Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa cố, đắc A-Nậu-Đa-La Tam-Miệu Tam-Bồ-Đề.

            Cố tri Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chơn thiệt bất hư.

            Cố thuyết Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa chú. Tức thuyết chú viết: " Yết-đế, Yết-đế, Ba-la-yết-đế, Ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề Tát-Bà-Ha" (3 lần)

NGUỒN GỐC

            Vào khoảng thế kỷ thứ 7, ngài Trần Huyền Trang là một cao tăng đời nhà Đường, Trung Hoa đã vượt biên giới sang Ấn Độ thỉnh kinh. Khi trở về nước, ngài viết quyển "Tây Du Ký" ghi lại những chi tiết xảy ra trong suốt thời gian 12 năm chu du khắp Ấn Độ từ Bắc xuống Nam và qua tới Tích Lan. Trong đó, có sự kiện trên đường đi ngài đã trải qua nhiều gian nan khổ cực, tưởng như đã mất mạng khi bị lạc vào sa mạc bảo cát, may nhờ gặp một người áo trắng dạy bài Bát Nhã Tâm Kinh bằng tiếng Ấn Độ, ngài đã tụng đọc và thoát chết. Sau cùng đến được Ấn Độ bình an. Qua sự kiện này, người ta đoán vị áo trắng đó là Đức Quan-Thế-Âm Bồ Tát.

            Bài Bát-Nhã Tâm Kinhbài kinh thuộc hệ Phát Triển, viết bằng tiếng Sanskrit là bài kinh quan trọng chủ yếu nên người ta gọi là trái tim (Tâm Kinh), được dịch sang Hoa văn rồi lan truyền khắp các nước Đông Nam Á, tính đến nay đã trải qua gần 19 thế kỷ.

            Xem lại nguồn gốc lịch sử chúng ta thấy rằng hệ thống kinh Bát Nhã rất đồ sộ, hơn 600 quyển gồm nhiều bài thi kệ nhưng không đề tên tác giả. Người ta chỉ biết rằng hệ thống kinh Bát Nhã Ba-La-Mật phát xuất từ miền Nam Ấn trước Công Nguyên.

            Trong lịch sử Phật giáo có một sự kiện có thể cho chúng ta một chút suy đoán về nguồn gốc của hệ Bát Nhã Ba-La-Mật.

            Khoảng 236 năm, sau khi Đức Phật nhập diệt, nước Ấn Độ dưới sự cai trị của vua A-Dục, là vị vua rất sùng mộ đạo Phật, đã hỗ trợ rất nhiều cho sự phát triển Phật giáo cũng như nhiều tôn giáo khác.

            Vào thời đó có một vị cao tăng là ngài Đại Thiên, trụ trì tại một ngôi chùa lớn ở kinh đô rất giỏi Phật pháp. Một lần trong buổi thuyết pháp có đông đảo người tham dự, ngài Đại Thiên đã tuyên bố: "Những ai thuyết pháp giỏi đúng với chân ý Đức Phật thì người đó có quyền viết kinh!".  Lời công bố này được một số người trẻ tán thành, nhưng cũng có nhiều người phản đối. Rốt cuộc vấn đề này không được giải quyết ổn thoả, ngay cả vua A-Dục và Hoàng Hậu, dù hết sức ủng hộ ngài Đại Thiên cũng bó tay, không thể giải quyết được vấn đề trọng đại này. Sau đó, ngài Đại Thiên cùng đệ tử xuống miền Nam Ấn giáo hoáthành lập nên hệ Bát-Nhã. Đó là lý do tại sao hệ thống kinh Bát Nhã Ba-La-Mật xuất phát từ miền Nam Ấn. Hệ thống kinh này trải qua nhiều thời đại, kéo dài mấy trăm năm, các vị Tổ đã lần lượt sáng tác các bộ kinh được xếp vào hệ thống kinh Bát Nhã nhưng không có bộ kinh nào đề tên tác giả.

            Nhìn chung hệ thống kinh Bát Nhã đề cao tư tưởng KHÔNG và CHÂN NHƯ. Các vị Tổ lấy TÁNH KHÔNGCHÂN NHƯ làm nền tảng để tu tập, tiến đến thể nhập KHÔNG và thể nhập CHÂN NHƯ. Ngoài ra trong hệ thống kinh Bát Nhã cũng đề cao một chủ đề nữa là Huyễn. Tựu trung ba chủ đề CHÂN NHƯ, KHÔNG và HUYỄN xem như là 3 gốc độ của Trí Tuệ Bát Nhã nhìn về hiện tượng thế gian trong đó có con người.

            Trong hệ thống kinh Bát Nhã, tác phẩm cuối cùng được dịch ra là "Bát Nhã Tâm Kinh" hay là "Bát Nhã Ba-La-Mật Đa Tâm Kinh". Đó là dịch theo âm Hán Việt. Bài này gồm 262 chữ, là bài kinh ngắn nhất trong hệ thống kinh Bát Nhã Ba-La-Mật.

NỘI DUNG BÁT NHÃ TÂM KINH

            Bài Bát Nhã Tâm Kinh được nhiều vị tôn đức dịch ra tiếng Việt. Nhưng bài viết này dựa trên bản Hán Việt ở trên. Trước hết chúng ta tìm hiểu sơ lược về một số từ ngữ hầu giúp chúng ta hiểu ý từng đoạn kinh quan trọng.   

            - Maha: Đại, lớn, ý nói đến trí huệ rộng lớn sâu sắc.

            - Bát Nhã: Tiếng Pàli là Pañña, tiếng Sanskrit là Prajnà, nghĩa là trí huệ đầy đủ.  Người Trung Hoa âm ra là Bát Nhã, nghĩa là trí huệ sâu sắc hơn trí thông thường. Trí huệ này chỉ có nơi người tu tập kinh nghiệm định sâu, và qua sự kích thích của phản xạ thụ động huệ tự phát, chứ không qua sự học hỏi thế gian cóp nhặt của người khác. Đây là trí huệ tâm linh, trí huệ siêu vượt, là tuệ giác, là Phật tánh hay là tiềm năng giác ngộ có sẵn trong mỗi người chúng ta.

            - Ba-La-Mật: Âm từ chữ Paramita, tức là "qua bờ bên kia". Người Trung Hoa dịch là "đáo bỉ ngạn" nghĩa là "đã tới bờ bên kia". Ba-La-Mật ra ngoài chân lý quy ước, nó thuộc chân lý tối hậu. Chúng ta hiểu một cách tổng quát đó là: Sự kiện toàn của Trí Tuệ, Trí Tuệ hoàn hảo, Trí Tuệ cao nhất... gọi là Bát Nhã Ba-La-Mật.

             - Kinh: Lời dạy của Đức Phật thường gọi là Kinh. Kinh dạy chúng ta tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát. Lời Tổ chú thích về Kinh thường gọi là Luận. Sau này, các vị Tổ viết ra những bộ Luận vẫn ghi là Kinh. Ví dụ như: Ngài Thần Hội, đệ tử trẻ nhất của ngài Lục Tổ Huệ Năng ghi lại những lời dạy của Lục Tổ đề là "Kinh Pháp Bảo Đàn". Cũng như những bộ Kinh của hệ Phát Triển như: Kinh Pháp Hoa, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Duy Ma Cật, Kinh Kim Cang v.v... cũng đề là Kinh, nhưng thực ra chỉ là những bộ Luận thôi!

            - Tâm Kinh:  Hiểu theo hữu vi pháp, thì tâm đây là trái tim, trái tim giới hạn sự sống chết của con người, trái tim động là sống, không động là chết. Trái tim trong đạo Phật thường được hiểu qua các từ ngữ như "mạng mạch" là sinh mạng của giáo pháp nhà Phật. Nói về chân đế, Bát Nhã Tâm Kinh là trái tim sống hoài của đạo Phật, có nghĩa là Trí Tuệ siêu việt. Nói về tục đế, Bát Nhã Tâm Kinh là trái tim của giáo pháp.

            Nghĩa chung, Bát Nhã Ba-La-Mật Đa Tâm Kinh là Kinh quan trọng nói về Trí Tuệ Bát Nhã. 

TÁNH KHÔNG

            "Quán-Tự-Tại Bồ-Tát hành thâm Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa, thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách"

            - Quán-Tự-Tại Bồ-Tát: Danh hiệu Đức Quán Thế Âm (Avalokitésvara). Bồ-Tát là âm của chữ Bodhisattva, có khi người ta đọc dài hơn là Bồ-đề-tát-đoả. Quán Thế Âm theo niềm tin là vị Bồ-Tát đã tu tập Tánh Nghe, ngài đã nghe tiếng sóng biển tức Hải Triều Âm, vào được định và sáng đạo. Đức Quán Âm sống với hạnh từ bi, nguyện đời đời độ chúng sanh không thành Phật. Đây là nhân vật hư cấu, nghĩa là trong sử liệu, ngài không có thật như Đức Phật Thích Ca và các đệ tử của ngài. Truy nguồn gốc, ngài là nam thần trong đạo Bà-La-Môn. Khi lan truyền đến Trung Hoa, Việt Nam, ngài trở thành người nữ, là vị Bồ-Tát có nhiều hoá thân trong niềm tin dân gian thuộc về tín ngưỡng tôn giáo.

            Trong Phật học, Bồ-Tát là danh xưng gọi những người tu tập, có mục tiêu muốn đạt tới quả vị Phật. Ở trong kinh Đức Phật cũng tự xưng mình là Bồ-Tát khi ngài đang tu tập khổ hạnh.

            Về sau, danh xưng Bồ-Tát đòi hỏi 2 giai đoạn: Tự giác - Giác tha,  hay Tự độ - Độ tha, nghĩa là chính mình phải giác ngộ sau đó phát tâm giúp đỡ người khác, cho nên con đường tu tậpgiáo hoá chúng sanh gọi là Bồ-Tát đạo.

            - Hành thâm: Thực hành ở trong định, sâu sắc trong Trí tuệ kiện toàn.

            - Bát-Nhã Ba-La-Mật: Là Huệ tới bờ bên kia, nghĩa là ngài đã đi qua hết chặng đường tu tập, bây giờ đã tới mức cuối cùng, nghĩa là đã qua tới bờ giải thoát, và kết quả là ngài đạt Trí Tuệ siêu vượt, nhận ra bản thể của Ngũ uẩn là trống không. 

            - Chiếu kiến: Kiến là thấy. Chiếu kiến là cái thấy soi sáng, thông hiểu vấn đề. Cái thấy này không phải là thấy bằng mắt thường, mà thấy bằng trí huệ, nhận thức rõ ràng Ngũ uẩn đều là trống không, tức là thấy trong Nhận thức cô đọng, Bồ Tát nhận biết rõ ràng bản thể của năm nhóm này là trống không.

            - Giai không: Giai là tất cả. Giai không là tất cả đều trống không.

             - Độ: Con đò đưa mình qua sông, cứu vớt, giúp đỡ...

            - Nhất thiết: là tất cả

            - Ách: Là cái gông buộc ngang đầu con bò, những đau khổ đè nặng lên mình gọi là khổ ách.

             - Ngũ uẩn giai không: Con người hay Ngũ uẩn gồm: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Khi phân tích con người do Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức kết hợp mà thành, Đức Phật giảng rằng mỗi khối đó không thường hằng, không thực chất cố định nên nó trống không, gọi là Vô Ngã. Trong bài kinh Vô Ngã Tướng, Đức Phật đưa ra ba đặc điểm của con ngườihiện tượng thế gianVô Thường, Khổ, Vô Ngã gọi chung là Tam Pháp Ấn. Về sau các vị Tổ lập thêm Vô Thường, Khổ, Vô Ngã, Không gọi là Tứ Pháp Ấn. "Không" trong Tứ Pháp Ấn dùng để khai triển về cái Ta, đó là: Không Ta, không cái của Ta, không tự ngã của Ta. Sau cùng các ngài rút gọn lại chỉ còn một pháp gọi là Nhất Pháp Ấn là Không. "Không" này bao trùm khắp pháp giới.

            Ngũ uẩn không thực chất, không thường hằng cho nên bản thể của nó trống không.  Đó là ý nghĩa của "Ngũ uẩn giai không".

            Khi kết luận "Ngũ uẩn giai không", không có nghĩa là phủ nhận không có Ngũ uẩn. Cái nhìn vạn vật trống không là cái nhìn của Trung đạo. Trung đạo tức là không rơi vào hai cực đoan: Có và Không.

            Nhắc lại ý nghĩa Trung đạo của "Không", chúng ta cần hiểu nó không có nghĩa phủ định. Và chữ "Không" ở chỗ "Ngũ uẩn giai không" là chữ "Không" trong tiếng Hán Việt có nghĩa là "trống không" chứ không phải chữ "Không" trong ý nghĩa tiếng Việt là "không có".

            Ban đầu Đức Phật chọn con đường Trung đạo để tu tập, là không rơi vào cực đoan của lợi dưỡng, hay rơi vào cực đoan của khổ hạnh thái quá. Cực đoan của lợi dưỡngnếp sống hưởng thụ vật chất xa hoa trong thời kỳ còn là Thái Tử sống trong hoàng cung. Còn cực đoan của khổ hạnh là trong thời gian Đức Phật tu khổ hạnh khốc liệt 6 năm ở trong rừng. Cả hai cực đoan này không đưa tới giác ngộ giải thoát, cho nên Đức Phật chủ trương Trung đạo, là ăn uống vừa đủ để có sức khoẻ mà tu tập. Đó là ý nghĩa Trung đạo trong bước đầu.

            Về sau Trung đạoý nghĩa là không rơi vào hai cực đoan: Có và Không. "Có" tức là có mặt, có hiện hữu, thuật ngữ gọi là "Thường kiến". Còn "Không" là phủ nhận hoàn toàn không có hiện hữu, thuật ngữ gọi là "Đoạn kiến".

            Chủ trương "Thường kiến" thì cho rằng mọi vật hay con người, hay thế gian này là thường hằng bất diệt, tức là trong con người có cái Ngã trường cửu, còn gọi là linh hồn trường cửu. Còn chủ trương "Đoạn kiến" thì cho rằng thế gian này chấm dứt là hết,  con người chết là hết, là xong, không có luân hồi sinh tử, không có tương quan nhân quả, không có nghiệp báo.

            Đó là hai cái nhìn Đức Phật cho là sai lầm. Đức Phật chủ trương KHÔNG hay TÁNH KHÔNG, TÁNH HUYỄN là nó nằm trong cái nhìn Trung đạo. Ngài không phủ nhận hoàn toàn về sự hiện hữu của con người hay là không có hiện tượng thế gian ở trên cõi đời này. Ngài không nói con người thường hằng hay là thế gian này thường hằng, mà Ngài nói rằng hiện tượng thế gian cũng như con người có mặt, nhưng sự có mặt đó thay đổi luôn luôn, do đó bản thể của hiện tượng thế giancon người là trống không. Cho nên quan điểm về Tánh Không nằm trong Trung đạo không rơi vào hai cực đoan của triết thuyết thời bấy giờ.

            Huyễn cũng thế. Huyễn ở đây là ám chỉ con người hay hiện tượng thế gian có, vì với mắt thường chúng ta đều thấy, nhưng những cái có đó là tạm bợ, giả dối, giống như là ảo thuật, có đó rồi mất đó, nó như mộng, như ảo, như giọt sương ban mai, như điện chớp rồi tắt, cho nên nói Huyễn Có chứ không Thực Có. Do đó Huyễn cũng là Trung đạo. Trong kinh Kim Cangbài kệ nổi tiếng. Đó là:

                        Nhất thiết hữu vi pháp

                        Như mộng, huyễn, bào, ảnh

                        Như lộ, diệc như điện

                        Ưng tác như thị quán.

                        (Tất cả pháp hữu vi

                        Như mộng, huyễn, bọt, sóng

                        Như sương và như chớp

                        Nên quán sát như thế)

            - ... độ nhất thiết khổ ách: Trở lại bản thể của con người là trống không vì do nhiều duyên, nhiều nhân mà thành, khi nhân duyên tan rã thì con người đó không còn, do quy luật biến dịch, luôn luôn lưu động, luôn luôn chuyển hoá, khi gặp duyên khác phù hợp, kết lại thành một hình thể khác. Nhưng tại sao khi nhận ra con ngườiVô ngã, là Vô thường, là trống không, thì không còn đau khổ nữa? "Ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách". Đó là vì chúng ta nghĩ có cái ngã thật nên mới khổ. Trong bài kinh Tứ Thánh Đế, Đức Phật nâng Khổ đế lên hàng thứ nhất. Theo Đức Phật thì Khổ chia ra làm năm nhóm:

            - Nhóm thứ nhất: Bốn khổ lớn là Sanh, Già, Bệnh, Chết.

            - Nhóm thứ hai: Xa cách người thân yêu là khổ.

            - Nhóm thứ ba: Sống gần gũi hay sống chung với những người, vật, cảnh mình không ưa thích là khổ.

            - Nhóm thứ tư: Không toại nguyện những điều mình mong cầu là khổ.

            - Nhóm thứ năm: Chấp trước vào thân suy thịnh của mình là khổ. Trong kinh gọi là chấp trước Ngũ uẩn hay Thủ Ngũ uẩn. Đây mới chính là nguồn gốc của khổ đau. Vì chấp cái thân có thật nên mình luyến ái nó, lo lắng, phục vụ nó, lúc nào cũng mong muốn nó tươi trẻ hoài không già, không bệnh, không chết. Nhưng ở đời có ai trẻ hoài, không bệnh và không chết, vì thế mà con người luôn chìm đắm trong biển khổ triền miên của cuộc đời.   

            Chấp ngã là thật, là thường hằng, cũng bị xem là lậu hoặc. Trong tầng định thứ tư, vào canh ba Đức Phật chứng Lậu Tận Minh biết rõ nguồn gốc khổ đau, luân hồi sanh tử chính là lậu hoặcĐức Phật xếp lậu hoặc gồm 4 nhóm: Vô minh lậu, dục lậu, hữu lậu, kiến lậu.  Bốn cái lậu này có liên quan đến ngã. Vì chấp ngã nên dục lậu gồm "tài, danh, sắc, thực, thuỳ" đua nhau phục vụ cho cái ngã.  Khi sống mà muốn sống mãi thì đó là hữu lậu. Như vậy bên dưới cái ngã luôn có 4 thứ lậu hoặc kể trên. Xưa kia, năm anh em Kiều Trần Như khi được nghe Đức Phật giảng bài kinh Vô Ngã Tướng, sạch hết lậu hoặc vì không còn chấp ngã nữa, nên đắc quả A-La-Hán.

            Tóm lại, nguyên do đau khổ là do chúng ta thấy thân tâm chúng ta có thật. Muốn nắm chặt những gì đang có và muốn sẽ có thêm những cái khác. Khi biết nguyên nhân khổ của con ngườichấp ngã, khát ái, ích kỷ... nên Đức Phật cho toa thuốc để trị. Toa thuốc để trị bệnh khổBát Chánh Đạo gồm 8 vị thuốc. Đầu tiên của Bát Chánh ĐạoChánh Kiến sau cùng là Chánh Định. Khi thực hànhthể nhập cả 8 phương thức này thì sẽ hết khổ. Toa thuốc của Đức Phật đưa ra cái nhìn đúng là Chánh Kiến giúp bệnh nhân nhận ra bản thể của hiện tượng thế giancon người thật sự là trống không. Cái Ta là trống không, cái Ta là Huyễn có, cái Ta là giả danh. Có mà thay đổi không trường tồn, không có thật, bởi cái Ta chỉ là sự kết hợp của Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức; mà Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức thay đổi từng phút từng giây không có gì cố định để gọi là cái Ta thường hằng. Nhận ra điều này và chấp nhận điều này thì đó là Chánh kiến hay Chánh trí. Hiểu rõ điều đó rồi thì còn cái gì để khổ nữa!

            Như vậy, mọi vật hay mọi sự kiện trên đời, nói chung đều trống không, cho nên những lời nói nặng nhẹ hay từ ái, những cử chỉ nhẹ nhàng, lịch sự hay thô bạo, bản thể của nó cũng trống không. Ý nghĩa của chủ đề KHÔNG là ở chỗ đó! Nhận ra rồi, thì không còn dính mắc vào những thăng trầm của cuộc đời. Cho nên trong đoạn thứ nhất của Bát-Nhã Tâm-Kinh nêu lên một phương thức tu tập hay một cái nhìn Chánh Kiến. Đó là phải nhận ra TÁNH KHÔNG của Ngũ uẩn, cũng như tất cả hiện tượng thế gian đều trống không thì không còn cái gì đau khổ nữa!

            - Xá Lợi Tử: Âm từ chữ Sārīputta. Sàrì là Xá Lợi. Putta là Phất, cũng có nghĩa là con, nên  chúng ta thấy trong kinh có lúc gọi ngài là Xá Lợi Tử, có khi gọi ngài là Xá Lợi Phất. Ngài là đệ tử lớn trong số 10 vị đệ tử khác của Đức Phật, được Đức Phật tán thán là đệ nhất trí huệ.

            - Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc: Hiểu theo Khoa học, Sắc là vật chất, chúng ta tưởng là nó cứng cỏi, vững bền, nhưng thực ra nó có là do nhiều nguyên tử kết hợp. Qua kính hiển vi với độ phóng đại 5 ngàn lần nhỏ hơn 1 ly (microns), chúng ta sẽ thấy từng yếu tố cực nhỏ nữa. Những yếu tố đó được các nhà Khoa Học Vật lý gọi là: Protons, Neutrons, Electrons, Mesons, Hadrons và nhỏ nhất là Quarks. Quark chỉ là tên gọi để chỉ đơn vị nhỏ nhất của vật chất, chẳng có một hình dáng hình thể gì cả. Nó chỉ là một sự trống không. Tuy nhiên trong sự trống không của nó có những sức đẩy từ bên trong nó phóng ra. Sức đẩy này làm vận chuyển các hạt hay đơn vị khác như Protons, Neutrons, Electrons, Mesons và Hadrons. (*) Như vậy Sắc không khác gì Không và ngược lại.

            Còn hiểu theo giáo lý nhà Phật "Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc" chữ Không của vế đầu là tỉnh từ trống không, trống rỗng (śūnya). Chữ Không của vế thứ nhì là danh từ Sự Trống Không, Sự Trống Rỗng (śūnyatà) có nghĩa là "Vật chất không khác với Không, Không cũng không khác với Vật chất",bản thể của vật chất là trống không.

            - Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc: Bằng trí tuệ chúng ta nhìn thấy: "Vật chất, bản thể của nó trống không và sự trống không này chính là vật chất". Từ sự nhìn thấy này chúng ta có thể hiểu: "Thân con người bản thể trống không cho nên con người là không. Và sự trống không này chính là con người". Để cho rõ nghĩa ở vế thứ hai chúng ta có thể hiểu con người sanh ra do tinh Cha huyết Mẹ kết hợp mà thành. Tinh Cha, Huyết Mẹ, bản thể cũng là trống không, nên trống không đích thị là con người

            Tóm lại, từ thế giới vật chất, chúng ta phải nhận ra bản thể của nó trống không "Sắc tức thị Không", nhưng chính từ trạng thái trống không đó, nó mới kết hợp lại để trở thành thế giới vật chất "Không tức thị Sắc". Ở mặt này, chúng ta biết KHÔNG, tự nó có một năng lượng. Đó là năng lượng biến dịch còn gọi là quy luật biến dịch. Quy luật này giải thích sự biến dịch chuyển hoá trong vũ trụ, đồng thời giải thích con người từ đâu mà có, đó là từ nhân từ duyên mà có, vũ trụ cũng thế! Nó có mặt rồi biến đổi theo nhân duyên để trở thành cái khác theo nhân duyên khác. Như vậy dòng sống của con người hay vũ trụ không có nhân đầu và nhân cuối cùng. Dòng sống đó vô thuỷ vô chung, không có bàn tay Thượng đế hay thần linh can thiệp vào.

            - Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị: Khi nói bản thể của Sắc trống không, thì bản thể của bốn khối: Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng trống không. Do đó, kết luận bản thể của Ngũ uẩn tức 5 khối đều trống không. Nhưng không phải Ngũ uẩn hoàn toàn không có, nó có nhưng mà vì nó di động, biến dịch luôn nên gọi là Huyễn Có. 

            Hai câu đầu trong bài kinh nói về TÁNH KHÔNG. Khi chúng ta nhận ra bản thể trống không của con ngườivũ trụ, chúng ta sẽ không còn dính mắc, không còn nắm chặt quan niệm cũ cho cái thân này mãi mãi trường tồn nữa... thì đó là Trí Tuệ Ba-La-Mật. Trong kinh dùng chữ "chiếu kiến" không có nghĩa là suy gẫm, suy tư hay là quán chiếu, mà là cái thấy rõ ràng sáng tỏ, do Trí Huệ đã nhận ra bằng Nhận Thức Không Lời cái Tánh Không của con ngườivũ trụ. Ngay đây, hành giả đã  thể nhập vào KHÔNG rồi, nên nhận ra Ngũ uẩn là Không thì tất cả những điều đau khổ, những chướng ngại ở trên đời thực ra bản thể của chúng cũng là Không.
  

TÁNH NHƯ / CHÂN NHƯ

            - Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm: Phần ở trên bàn về bản thể, về cái tánh của hiện tượng thế gian. Bây giờ nói đến cái tướng. Tướng là những cái gì biểu lộ ra bên ngoài gọi là tướng. Chữ tướng hiểu theo tục đế là dấu hiệu bề ngoài, giác quan có thể nhận ra.  

            Câu "thị chư pháp không tướng" này, đã chuyển qua khía cạnh khác của con ngườivũ trụ, đó là nói đến "cái tướng bề ngoài của vạn pháp là trống không, không có gì bên trong nó, tức là nói đến Tánh Như của vạn pháp". Muốn nhận ra Tánh Như hay còn gọi là Chân Như, phải nhận ra bằng Nhận Thức Không Lời. Chỗ này gọi là trạng thái Atakkàvacara, mà hệ Phát Triển diễn tả"trạng thái bất khả tư, bất khả thuyết, bất khả tư nghì" nghĩa là không thể suy nghĩ, không thể nói bằng lời, không thể nghĩ bàn. Nhưng không nói ra thì không ai hiểu được, cho nên tạm dùng ngôn ngữ tương đối để diễn tả chỗ Atakkàvacara là chỗ hoàn toàn yên lặng không lời. Đây cũng là nguyên do sau khi Đức Phật thành đạo ngài không muốn đi giảng pháp là vì chỗ ngài chứng ngộ khó thấy, khó chứng, siêu lý luận... không thể dùng lời để giảng giải. Trong kinh Thánh Cầu, Đức Phật mô tả chỗ này như sau:

            "Này các Tỷ-Kheo, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận (atakkàvacara), vi diệu, chỉ người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục. Đối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý Idapaccayatà Paticcasamuppada (Y Tánh Duyên Khởi Pháp); sự kiện này thật khó thấy; tức là sự tịnh chỉ tất cả hành (sabbe-sakhàra-samtho), sự từ bỏ tất cả sanh y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết Bàn (Nibbana).

            Rồi này các Tỷ-Kheo, với những suy tư như vậy, tâm của Ta hướng về vô vi thụ động, không muốn thuyết pháp"

            Như vậy chúng ta biết chỗ đó là chỗ Atakkàvacara, là Tâm Tathà hay Tâm Như, là Bát-Nhã Ba-La-Mật, là chỗ vắng lặng, tịch tịnh nhưng vô cùng sáng suốt, phải tự mình dụng công tới chỗ Nhận Thức Biết Không Lời mới nhận ra mà thôi. Khi Đức Phật quyết định đi giáo hoá, lúc đầu ngài tạm dùng lời để hướng dẫn tới chỗ không lời. Sau này các Tổ tạm phân biệtTục Đế Bát Nhã còn dùng lời để  giảng dạy các chân lý của Đức Phật dần dần đưa tới các chủ đề siêu vượt Tánh KhôngChân Như là chỗ không lời gọi là Chân đế Bát Nhã.

            Định nghĩa đầu tiên của Chân Như"cái bề ngoài khách quan của hiện tượng thế gian". Bề ngoài là tướng. Khách quan là không có những chủ quan trên nó. Chủ quan là những cái mà người đời gán ghép lên cho nó, như tên tuổi, màu sắc, đẹp xấu v.v... gọi là tướng thế gian.  

            Lấy hết những cái tướng chủ quan đó ra, còn lại "cái tướng khách quan" là cái của chính nó, là tướng thật của nó. Nhưng mà tướng thật của nó là trống không, là không có tướng gì hết, nên mới có thành ngữ "Thực Tướng Vô Tướng" để chỉ Chân Như, nghĩa là cái tướng thực sự của Chân Như là không có tướng gì hết. Đó là cái "khách quan tánh tuyệt đối" của hiện tượng thế gian gọi là Chân Như, tạm gọi là Như Vậy!

            Bởi vì, khi nào "có tướng" thì mới có như thế này, như thế khác, thay đổi luôn luôn, gọi là có tướng sanh, có tướng diệt.  Còn "không tướng" trong câu "thị chư pháp không tướng" nghĩa là thật tướng của nó là KHÔNG. Không này là "trống không". Mà nói "cái tướng trống không" thì lại có nghĩa là "không có tướng", tức là "cái tướng của nó trống không". Cho nên ở đoạn này nói đến cái "không tướng" là nói Tánh Như, chứ không phải nói Tánh Không như ở đoạn kinh trên nữa! 

            Trong trạng thái Chân Như không có cái gì trong đó hết, nó khách quan, không tên tuổi, không dấu vết và nó yên lặng bất động, cho nên nó không có tướng sanh, tướng diệt. Nó cũng không có tướng dơ, tướng sạch. Nó cũng không có tăng lên, cũng không có giảm xuống.

            - Thị cố không trung vô Sắc, vô Thọ, Tưởng, Hành, Thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp;..... Chúng ta nhìn thấy, biết rằng ở "trong cái chỗ trống không" đó, hay là "trong giữa cái trống không" (không: trống không; trung: ở trong hay ở giữa) tức là trạng thái Chân Như không có chứa đựng cái gì hết. Nó chỉ Như vậy thôi!  Chân Nhưtrạng thái khách quan của hiện tượng thế gian, chứ nó không phải là hiện tượng thế gian, cho nên ở đây mới nói phủ định là không có Sắc, không có Thọ, không có Tưởng, không có Hành, không có Thức, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, tức là giác quan không có trong đó, cho nên không có nhãn giới, không có ý thức giới, không có vô minh cũng không có chấm dứt vô minh, không có lão tử cũng không có chấm dứt lão tử, không có cả Tứ Diệu Đế, Bát Chánh đạo, không có Trí cũng không có đắc... nghĩa là trong Chân Như  không có cái gì hết, nó chỉ Như vậy là Như vậy thôi!

            Còn như chúng ta nói con người có thân, có già, có bệnh, có chết... là dùng lời ở trong quy ước tục đế. Nhưng khi ở trong trạng thái Tâm Như, không còn dùng lời, không định danh, không gọi tên đối tượng, thì không nói thân này già, thân này bệnh, thân kia chết. Già, bệnh hay chết cũng có cái Chân Như của nó. Tâm bất động nên thấy mọi thứ đều bất động. Cái gì cũng bất động thì không ảnh hưởng tới mình, nên mình thoát khổ, mình sống thong dong trong cuộc đời, đạt được trạng thái Niết Bàn, là trạng thái tâm vắng lặng tịch diệt, là trạng thái Tâm Như.

            Như vậy trong Tâm Như không có cả Tứ Thánh đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Tứ Thánh Đế là do Đức Phật bày ra làm phương tiện để hướng dẫn con người, đó là Tục đế Bát Nhã. Đức Phật tạm đứng trong thế gian giảng Tứ Thánh Đế, vì con ngườicảm thọ, có khổ, phải tu tập để đi đến Chánh ĐịnhChân đế Bát Nhã.

            - Vô Vô Minh diệc vô Vô Minh tận, nãi chílão tử, diệc vô lão tử tận: Là nói tới 12 nhân duyên. Vô Minh sanh Hành, Hành khởi Thức, Thức khởi Danh Sắc, Danh Sắc khởi Lục Nhập, Lục Nhập khởi Xúc, Xúc sanh Thọ, Thọ sanh Ái, Ái sanh Thủ, Thủ sanh Hữu, Hữu khởi Sanh, Sanh khởi Lão Tử. Vô minhnhân thứ nhất, nhân cuối cùngLão tử. Nhưng đây là một vòng tròn khép kín nên cũng không nói mắt xích nào là đầu, mắt xích nào là cuối. Đó là cái nhìn của con người mới học đạo, thấy tất cả đều thật, là tại vì con ngườicảm thọ qua giác quan nên thấy 12 mắt xích là thật. Đây là chỗ đứng của Tục đế Bát Nhã.

            Bây giờ qua cái nhìn của Chân đế Bát Nhã, trạng thái Chân Như không có khái niệm gì hết, không chứa gì trong đó hết, nó hoàn toàn bất động cho nên không có 12 nhân duyên trong đó, không có Vô minh, không có không Vô minh, không có già, cũng không có không già, không có chết.... Vì thế 12 nhân duyên cũng là pháp phương tiện, Đức Phật bày ra để dẫn dắt chúng sanh tu, chứ bản thể của mỗi mắt xích liên kết với nhau đều là trống không, đều là Huyễn Có và mỗi mắt xích có cái Chân Như của nó. Và cuối cùng trong Chân Như cũng không có trí, mà cũng không có đắc.

            - Vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo: Cũng không có Tứ Diệu Đế. Tứ Diệu Đế có là đặt trên quan điểm thế gian, đứng trên cái nhìn giống như cái nhìn của người thế gian.     

            - Chân lý đầu tiên nói cuộc đời là biển khổ, đó là cái nhìn theo Tục đế Bát Nhã, là tại vì con ngườicảm thọ thật, nên thấy mình khổ thật, cho nên Đức Phật đồng ý với mọi người rằng là: " có khổ" và ngài kể ra 8 loại khổ. Đây là cái nhìn Tục đế Bát Nhã có sức thuyết phục của Đức Phật đối với con người bình thường sống ở thế gian này, ngài không giảng dạy những gì xa xôi, mà nói thẳng đến cuộc sống thiết thực của con người là Khổ. Trên đời này bất cứ là ai, dù nghèo, dù giàu, dù đẹp, dù xấu... dù là vua chúa, tổng thống hay thường dân... đều có nỗi khổ riêng của họ, cho nên mọi người dễ dàng chấp nhận Chân lý Khổ do Đức Phật đưa ra.   

            - Tới chân lý thứ hai là Tập đế, tìm hiểu nguyên nhân sâu xa vì đâu mà có tới 8 loại khổ (hay 13 loại khổ)? Đó là vì khát ái từ cái Ngã ý thức mà sinh ra, như vậy là nói có thật khát ái, có thật lậu hoặc. Đây cũng còn là cái nhìn của Tục đế Bát Nhã.

            - Qua tới chân lý thứ ba, thứ tư của Tứ Thánh Đế mới nằm trong Chân Đế Bát Nhã. Bản thể của Khổ là trống không, cho nên cần tu tập Bát Chánh đạo để thoát khổ.

            Hai đế trên Khổ là có thật. Có thật tức thường hằng bất biến, có nghĩa là cứng chắc kiên cố. Qua đế thứ ba thì nỗi Khổ nào cũng do nhân do duyên hợp hết. Khi nhận ra duyên hợp tức bản thể trống không thì thuộc về mặt Chân đế, Đức Phật đưa ra bài thuốc gồm 8 vị, đó là Bát chánh đạo tu tập để hết Khổ.

            Trở lại bài Bát Nhã Tâm Kinh, hoàn toàn nói về Chân đế Bát Nhã, không có nói Tục đế, thì ngay cả Khổ, Tập, Diệt, Đạo cũng không có, bởi vì bản thể của nó trống không. Những nỗi Khổ là do duyên sanh, do quy luật nhân quả, nó có trong cái nhìn Tục đế, nhưng trong cái nhìn giác ngộ thì nó không thật có, mà là Huyễn Có vì nó là trống không. Cho nên cả 4 chân lý Khổ, Tập, Diệt, Đạo cũng không thật sự có trong cái nhìn Chân Đế, nó là phương tiện để dắt dẫn con người đi tới thoát khổ thôi! Vì thế ở trong trạng thái Chân Như không có những pháp phương tiện này.

             - Vô trí diệc vô đắc: Trí là trí tuệ, cũng không có đạt được cái gì. Nếu nói đạt được cái gì là còn nằm trong Tục đế. Bởi vì khi nói có cái Trí đạt, tức là chưa đạt, là vì còn Ta và đối tượng, còn năng sở, còn cái Ngã, thì làm gì có đạt.

            Trong kinh có ghi lời Đức Phật: "Nếu ai nói Như Lai đạt quả Vô Thượng Bồ Đềphỉ báng Như Lai", ở chỗ này nếu có quả vị thật để mình chứng đạt thì có nghĩa là mình chưa chứng đạt, mà nếu nói không chứng đạt thì cũng không đúng. Tại sao? Vì nói ra lời là rơi vào quy ước rồi! Cho nên Đức Phật  chủ trương Trung đạo, mà Trung đạo bây giờ chỉ Thầm Nhận Biết, hay là Nhận Thức Biết Không Lời thôi, mở miệng nói ra lời, là rơi vào quy ước, rơi vào Tục đế, rơi vào nhị nguyên liền.   

            Trong kinh dùng chữ "bất" và chữ "vô", nó có nghĩa là phủ định. Tại sao lại phủ định? Nếu không nói thì không ai hiểu, mà hễ dùng lời là quy ước, cho nên phải dùng phủ định để dẫn dắt tới chỗ không có gì trong Chân Như.

            Thí dụ: Tâm Như là chỗ không lời, Atakkàvacara, nhưng nếu không nói ra làm sao người ta biết chỗ này phát huy Trí huệ, thành ra phải nói. Bài kinh này các vị Tổ dùng lời để giảng chỗ không lời. Chỗ nào không có gì hết thì dùng chữ "bất", dùng chữ "vô" nghĩa là phủ định. Như không tăng không giảm, không cấu, không tịnh, không già, không chết v.v... tức là không có gì hết. Đó là phải tạm dùng lời, vì lời cho nên phải phủ định. Trừ hay loại những phủ định đó ra, thì cái còn lại cái tinh tuý của nó. Cái tinh tuý này tạm gọi là Chân Như, là nó đó, là Atakkàvacara. Chỉ là phương tiện thôi, cho nên những "lời này" cũng giống như "ngón tay" chỉ "mặt trăng" hay "mặt trời". Phương tiệnlời nói, chữ viết, kinh điển... là quy ước, không phải là "nó". Nó ở đây là kho báu của mình, là mặt trời trí huệ của mình, là viên ngọc Như Ý trong búi tóc hay trong chéo áo của mình. Nó phát triển tới vô lượng vô biên. Đức Phật gọi là Tathatà, là cái Như vậy. Chúng ta cũng tạm gọi nó là cái Như vậy, cái Như thế!

            Nói vô Trí là không có trí tuệ cũng không đúng, mà nói có cũng không đúng. Có trí tuệ thì mới gọi là kho báu, là viên ngọc như ý, tức là lúc đó hoàn toàn an vui không còn khổ nữa và mình có những phương tiện thiện xảo để giúp đời, nhưng mà khi nói có trí tuệ là đã dính mắc, đã rơi vào cái nhìn của thế gian. Mà nói không thì cũng không đúng.

            Kinh nói "vô đắc vô trí" là không có đạt gì. Mà thực sự có đạt gì không? Hễ dùng phương tiện thì nói là có đạt, nhưng khi mình hoàn toàn không khởi niệm gì hết thì mình không vướng vô 2 cực đoan Có và Không, là ở trong Trung đạo.

            - Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề-tát-đoả y Bát Nhã Ba-La-Mật Đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết Bàn: Tâm có ngăn ngại là tâm còn có ranh giới vì còn cái Ngã, còn giới hạn, hay là khi còn có Ý thức thì còn phân biệt còn ngăn ngại. Còn bây giờ tâm Bồ-Tát hoàn toàn ở chỗ Như Như bất động, nên không còn ngăn ngại, chướng ngại gì cả. Nếu là người vẫn còn sống trong cuộc đời, còn lăn lộn giữa bao nhiêu cảnh trái ngang, phiền toái của đời thường, thì những thứ phiền não kể trên chẳng ảnh hưởng gì, chẳng ngăn ngại gì trên bước đường tu tập của họ hay cản trở con đường hoằng pháp của họ. 

            Tâm không còn chướng ngại nên không còn sợ hãi. Đối với người đời khó có ai nói là mình  không sợ gì hết. Thực sự, chúng ta sợ đủ thứ, trong đó sợ chết là cái sợ kinh khủng nhất. Bây giờ tu tập rồi mình cũng bớt lo, bớt sợ, bằng cách phải tỉnh thức, phải có Trí tuệ hiểu tất cả bản thể đều trống không. Khi mình không tác ý, thì mình không nói đó là chết, đó là sanh, đó là già. Khi mình tác ý ra, mình gán cho cái tên, từ cái tên đó kéo theo những hình ảnh già, bệnh, chết... khiến cho mình lo âu sợ hãi.

            Bằng Trí tuệ, cái gì mình cũng thấy đó là quy luật khách quan, muốn hay không đều phải chịu, và khi mình hiểu bằng Trí tuệ thì mình không khổ, không sợ, thì đó là mình đã thoát ra khỏi quy luật sinh tử rồi. Khi không còn sợ hãi nữa thì "xa rời mộng tưởng", mình sợ là tại vì mình mộng tưởng, tưởng tượng thôi. Có nhiều khi nỗi sợ của mình không có thật, mà mình cứ tưởng ra, hay vẽ ra, rồi mình sợ hãi. Nên khi tu tậpTrí huệ mình sẽ vượt qua cái sợ, trong kinh gọi là Vô uý. Khi không tác ý tưởng tượng vẽ vời hay tác ý về những hiện tượng thế gian, lúc đó không còn xử dụng tâm thế gian nữa, thì mình đang ở chỗ Tâm Như rồi gọi là Niết Bàn.

            Cứu cánh là ở chỗ cuối cùng, mình chứng nghiệm được trạng thái tâm vắng lặng, tịch diệt gọi là Niết Bàn, cho nên trạng thái Niết Bàn chính là trạng thái Tâm Như, Như Như bất động. Khi còn sống gọi là Hữu Dư Y Niết Bàn. Khi ra đi không còn thân nữa thì gọi là Vô Dư Y Niết Bàn. Như vậy mình hiểu Niết Bàn không phải là nơi chốn nào xa xôi, nó là trạng thái Tâm Như của mình thôi.

            - Tam thế chư Phật, y Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa cố, đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-Đề: A-nậu-đa-la Tam-Miệu Tam-Bồ-Đề phiên âm từ Anuttara-Sammà-Sambodhi. Có ý nghĩaVô Thượng Chánh Đẳng Giác (sự giác ngộ không ai hơn). Bodhi là Giác ngộ, là Bồ đề, tức là quả vị Phật, mà Đức Phật tự xưng mình là Như Lai (Tathagatà). Do danh xưng Tathagatà, chúng ta biết rằng, muốn đạt được quả vị toàn giác phải đi qua Tâm Như, phải kinh nghiệm Tâm Như. Từ đó các vị Tổ thuộc hệ Phát Triển chủ trương mười phương thế giới chư Phật, đồng thời các vị Phật đều có danh hiệu Như Lai. Qua câu này mình biết phần quan trọng của bài kinh là nói đến Chân Như.

            Tam thế chư Phật là Phật đời quá khứ, hiện tạivị lai đều y theo Trí tuệ siêu vượt này đạt được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Giác.

            - Cố tri Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chơn thiệt bất hư: Như vậy phải biết Trí tuệ kiện toàn này giống như linh chú vĩ đại nhất, sáng suốt nhất, cao thượng nhất, không có cái nào cao hơn. Nó trừ tất cả mọi thứ Khổ trong đời, và nó là cái thực tại tối hậu không hư dối.

            Như vậy bài Bát Nhã Tâm Kinh muốn nói đến 2 chủ đề lớn là KhôngChân Như. Chủ đề Không đưa đến thoát khổ. Chủ đề Chân Như đưa tới Trí huệ kiện toàn. Đó là căn cứ nơi sự kiện lịch sử của Đức Phật Thích Ca. Ngài đã chứng ngộ cái Chân Như. Từ đó Trí huệ phát sinh giải thích tất cả những bí ẩn thầm lặng của con ngườivũ trụ.

            Còn đoạn cuối cùng với câu thần chú, thật ra cũng không phải là thần chú, đó chỉ là một câu tiếng Phạn bày tỏ niềm vui tán thán của người đã đạt được sự giác ngộ, đã tới được bến bờ bên kia: Yết-đế, Yết-đế, Ba-La yết-đế, Ba-La-Tăng yết-đế, Bồ-Đề Tát-Bà-Ha (Gate Gate paragate parasamgate Bodhi svara) , chỉ vì câu này viết sau mấy chữ thần chú...  nên vô tình người ta tưởng nó huyền bí, chứ nó không có ý nghĩa huyền bí, nó chỉ có nghĩa là: "Đã tới rồi, đã tới rồi, tới bờ bên kia, tới bờ Giác ngộ rồi!"

CỐT LÕI CỦA BÁT NHÃ TÂM KINH

            Chúng ta đã biết nhân vật Quán-Tự-Tại Bồ-Tát là nhân vật huyền thoại. Bài kinh này sáng tác sau thời Đức Phật. Sau khi nghiên cứu tìm hiểu chi tiết từng chữ, từng câu, từng đoạn của bài kinh, chúng ta nắm được cốt lõi bài kinh mà chư Tổ muốn gửi gắm cho hàng hậu học. Còn cấu trúc của bài kinh, các Tổ thuộc hệ Phát Triển mượn danh xưng ngài Xá-Lợi-Phất để trao truyền. Nếu tính thời gian theo trong Sử ghi lại thì ngài Xá-Lợi-Phất đã viên tịch trước Đức Phật, mà kinh này thì xuất hiện sau thời Đức Phật! Chúng ta chỉ Thầm Nhận Biết tới đây thôi.... Điều quan trọng của chúng ta là rút ra những điểm mấu chốt cần thiết của bài kinh này để học hỏi và tu tập!

            Đọc kinh chúng ta thấy các vị Tổ đã trình bày ngay cái chỗ cuối cùng, ngay nơi đến của người tu tức là trong trạng thái Tâm Không và Tâm Như. Hai trạng thái cùng giống nhau ở chỗ Atakkàvacara, là chỗ không lời.

            Khi trình bày về Tánh Không, chúng ta nhận thấy văn kinh rất là ngắn gọn, hàm xúc, minh bạch, không mơ hồ. Các Tổ đã đứng trong chỗ đứng của Đức Phật để trình bày cái nhìn Phật Giáo, nói về con người, đó là nói bản thể của con người trống không. Và từ cái nhìn này, sẽ có cách đưa con người thoát ra khỏi mọi khổ đau ở trên đời.

            Mục tiêu giảng dạy bài này của chư Tổ nói lên được mục tiêu giảng dạy của Đức Phật khi ngài nói: "Tất cả nước trong đại dương có một vị mặn, đạo của Ta cũng có một vị thôi, đó là vị thoát khổ".  Trong cái nhìn này, Phật giáo không mơ hồ, viễn vông, mà giúp con người ngay khi còn sống chứ không hứa hẹn ở tương lai xa vời. Bài Bát Nhã Tâm Kinh này quả thật xứng đáng để chúng ta học hỏi vì đã nói đúng theo chân ý của Đức Phật là:

            - Đưa con người thoát khỏi khổ đau triền miên, đó là cái nhìn của Tánh Không. Cái nhìn Không là cái nhìn Trung đạo của Phật giáo không rơi vào cực đoan Thường kiếnĐoạn kiến. Con người có thật nhưng bản thể trống không, nghĩa là Vô ngã phá tan xiềng xích của Chấp Ngã.

            - Các vị Tổ khai triển Trí tuệ rốt ráo tới bờ bên kia là khai triển tới Chân Như. Chân Như cũng nằm trong Trung đạo, nó cũng tương tự như Không, như chỗ đứng của Huyễn. Đó là thế chân vạc, thế đứng vững chắc để phát huy Trí huệ kiện toànBát Nhã Ba-La-Mật.

            - Chủ đề Không được trình bày trước với dụng ý đưa kết quả giúp thoát khổ. Sau đó mới trình bày Chân Như. Đây là phương tiện giúp con người phát huy Trí huệ kiện toàn, bằng chứng là Đức Phật đã thành đạo qua Chân Như.

            - Các chư Phật ba đời cũng qua Chân Như mà phát huy Trí huệ siêu vượt.

KẾT LUẬN

            Con đường tâm linhcon đường dài thăm thẳm, trơn trợt nhiều hơn là bằng phẳng.  Nhờ có phước báo lớn lao mới gặp được Minh Sư dẫn dắt, nếu không sẽ lạc vào khu rừng âm u tăm tối, không biết đến đời nào kiếp nào mới thấy được ánh sáng Phật pháp. Bước đầu chúng ta còn ở "bờ bên này". Muốn đến được "bờ bên kia" thật là gian nan vô cùng. Nếu không khó khăn, thì Tổ đã không nói phải mất đến 3 A-Tăng-Kỳ kiếp mới đạt đạo.  Nhưng mà đã quyết chí đi trên con đường tâm linh thì mình phải tuân theo một số điều kiện của bậc Thầy Tổ đưa ra.

            Điều kiện đầu tiên là tỉnh ngộ để hướng cuộc đời đi vào ngã tâm linh. Tỉnh ngộsức mạnh cần thiết để quyết định mục tiêu mình sẽ đến, nhưng phải có quyết tâm tinh tấn để không chùn bước bỏ cuộc trên đường đi. Cả hai điều kiện này cũng chưa đủ, vì ngay như Đức Phậtý chí sắt đátỉnh ngộ, nhưng ngài cũng đã hai lần thất bại trên con đường tầm đạo. Lần thứ nhất từ giả thầy Alàra Kàlàma, lần thứ hai từ giả thầy Uddaka Ràmaputta, lý do là pháp thiền định của 2 vị thầy này không giúp ngài đạt được mục tiêu mà ngài nhắm đến.     

            Theo kinh nghiệm của Đức Phật thì điều kiện thứ ba cần thiết nhất, chính là Pháp tu hay Pháp môn tu. Đã chọn Pháp tu rồi, nó dẫn mình đi đâu thì mình phải biết. Không phải đặt chân lên con đường đã chọn là bảo đảm mình đã đi đúng.

            Phải lấy bài học của Đức Phật mà rút kinh nghiệm cho bản thân mình, đó là Pháp tu rất là quan trọng. Sau khi Đức Phật thành đạo, ngài nhận ra sự thành đạo của ngài là nhờ Pháp. Pháp đó là Chân Như. Ngài đã đảnh lễ và tôn Pháp là vị thầy của ngài.

            Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật đã dặn dò đệ tử: "Sau khi ta diệt độ, các ông lấy Chánh Pháp làm Thầy". Đức Phật dạy nhiều Pháp lắm, Pháp nào cũng đúng, chúng ta  làm sao biết Pháp nào mà chọn? Trong bài kinh này chúng ta thấy các Tổ đã hướng dẫn chúng ta Chánh PhápChân Như. Phật và Tổ đã dạy: "Y Pháp bất y Nhân", không vì tình cảm chủ quan đối với một vị Thầy, mà phải chọn Pháp tu. Trên đường tu, phải học vừa giáo lý vừa thực hành, phải tu Huệ và tu Định. Phải kinh nghiệm cái Biết Không Lời của Tánh Giác để tâm được tĩnh lặng, đồng thời phải thực hành trong 4 oai nghi để đi đến cuối cùngkinh nghiệm Nhận Thức Biết Không Lời tức đạt được trạng thái Tâm Như.

            Để biết mình tu sai hay đúng? Mình hãy tự quan sát kết quả trên Thân, Tâm và Trí Huệ tâm linh của mình. Tu đúng là càng ngày mình càng nhận ra thân thể khoẻ mạnh, đi đứng nhẹ nhàng khoan thai, thần sắc trong sáng... Tâm không còn dính mắc, phiền muộn, mà thanh thản, an vui, bao dung, tha thứ... Về Trí tuệ tâm linh thì nhận ra Tánh Giác kiến giải nhiều điều giúp mình hành xử đúng đắn, thành công, và hài hoà trong cuộc sống hằng ngày. Trí tuệ tâm linh sẽ phát huy từ thấp đến cao tuỳ theo sự dụng công của mình.

            Đó là những tiến trình tu tập đòi hỏi thời gian, hãy khép mình vào kỷ luật, kỷ luật của mình là an trú thường xuyên trong Tánh Giác, lúc nào cũng có cái Biết Không Lời qua nghe, thấy, xúc chạm. Trong kinh gọi là Chánh Niệm. Thực hành miên mật trong 4 oai nghi sẽ đưa đến Chánh Niệm Tỉnh Giác, và khi đó mình sẽ kinh nghiệm trạng thái Tâm Như.

            Có điều quan trọng, chúng ta nhận ra trong bài Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinh, các Tổ muốn gởi gắm mục đích tu tập là phải "qua bờ bên kia" tức đạt "Trí tuệ kiện toàn" bằng 2 chủ đề Tánh KhôngChân Như, nhưng không thấy các ngài đưa ra phương pháp thực hành hai chủ đề này để kinh nghiệm được Không ĐịnhChân Như Định, mà các ngài chỉ bày ra kết quả "tới bờ bên kia" tức "Trí Tuệ kiện toàn". Bây giờ chúng ta phải làm sao? Hành thiền để kinh nghiệm Không hay Chân Như đâu thể thực tập theo kinh sách vì kinh sách đâu phải dễ hiểu, dễ ngộ, hay là thực tập theo những bài chỉ dẫn đăng tràn ngập trên internet? Thực tập như thế, khi gặp trở ngại hay trục trặc thì biết hỏi ai để gỡ rối giúp mình? Câu giải đáp chính xácan toànchúng ta phải tìm cầu học đạo với một vị Thầy thực sự có kinh nghiệm, có thực chứng về thiền định, để hướng dẫn chúng ta từng bước từ thấp lên cao, theo đúng lời dạy của Đức Phật. Ngày xưa các Tổ cầu Thầy học đạo không phải dễ. Như Tổ Huệ Khả đã quỳ ngoài sân giữa trời bảo tuyết, phải chặt một cánh tay để bày tỏ tấm lòng tha thiết cầu đạo mới được Tổ Bồ Đề Đạt Ma nhận làm đệ tử. Ngày nay chúng ta cũng phải học bài học kiên trì tìm kiếm đó, nhưng không phải chặt tay chặt chân như người xưa.

            Tóm lại, khi Trí năng đã tỉnh ngộ đã chọn lối sống theo con đường tâm linh. Sau khi trạch pháp, chọn pháp tu thích hợp với căn cơ của mình, có Thầy bổn sư đỡ đầu, thì phải chuyên cần tinh tấn. Pháp học và Pháp hành cần đi đôi thì mới có thể dần dần đi đến mục tiêu thoát khổ giải thoát giác ngộ. Mình cứ vững tâm tu tập không mong cầu (tham lam), vì nếu đời này tu chưa xong, chưa tới, thì đời sau tiếp tục tu tập nữa. Đức Phật đâu phải chỉ tu có một đời hay một kiếp mà "trọn thành Phật đạo".

            Trước khi ngưng bài viết "Tìm hiểu Ý Nghĩa bài kinh Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinh".   Chúng con kính dâng lòng biết ơn đến Ân Sư Thông Triệt đã hết lòng chăm chút dắt dìu chúng con trên con đường Về Nhà. Đường tuy còn xa lơ xa lắc, nhưng phía trước đã có ngọn đèn soi sáng là Thầy, chúng con không ngại lạc vào vũng tham vọng khát ái, quyết theo con đường mòn của Đức Phật để lại, và theo dấu chân Ân Sư cũng như các bậc tôn túc trưởng lão chân chánh để từng bước đến được bờ bên kia. Chúng tôi cám ơn quý độc giả dành thời giờ đọc bài viết khô khan này, và kính chúc quý vị luôn được thân tâm thường an lạc.

            Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

            THÍCH NỮ HẰNG NHƯ   (15/11/2015)


Tài liệu
:

* Luận Giảng Vấn Đáp về "Tiến Trình Tu ChứngThành Đạo của Đức Phật" Thiền Sư Thích Thông Triệt biên soạn phát hành năm 2014.

* Khoá Tu Học trong 3 tháng An Cư Kiết Đông (2015) tại Tổ Đình Tánh Không, CA, do Thiền Sư Thích Thông Triệt và Ni Sư Triệt Như giảng dạy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22384)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21675)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23243)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21071)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 21651)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22074)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23506)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20276)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 19930)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21828)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24627)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18873)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 30846)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23853)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27657)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26394)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 37948)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18708)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18333)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19825)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 18905)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23026)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 22816)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 18603)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15741)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18725)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19530)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20026)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19822)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18006)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 16310)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16820)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 38963)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 25873)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 19990)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18680)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 23936)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 28971)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22810)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30780)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20893)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26701)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20543)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26122)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23206)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19703)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 15723)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 19698)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28781)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20561)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19298)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30295)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36270)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33032)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35340)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20849)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21786)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25098)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25675)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31076)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant