Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

A Hàm - Mưa Pháp Chuyển Hóa Phiền Não

23 Tháng Năm 201614:40(Xem: 12031)
A Hàm - Mưa Pháp Chuyển Hóa Phiền Não
A HÀM
MƯA PHÁP CHUYỂN HÓA PHIỀN NÃO

Thích Nữ Giới Hương
(Trọn Bộ Hai Tập) Tái bản lần thứ 3
Nhà xuất bản Hồng Đức 2016

A Ham

LỜI GIỚI THIỆU

 Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20. Đây là một bộ Đại Tạng Kinh của Bắc truyền được tổng hợp cũng như sự giảo chánh của các nhà học giả Phật Giáo Nhật Bản lúc đương thời qua các bộ Minh Đại Tạng, Càn Long Đại Tạng v.v… Tổng cộng gồm 100 quyển, dày mỏng khác nhau, mỗi quyển độ 1.000 đến 1.500 trang khổ lớn. Cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh đã cho phiên dịch hoàn toàn sang tiếng Việt tại Đài Loan thành 203 cuốn(đã in được 93 cuốn), mỗi cuốn từ 800 đến 1.500 trang. Tổng cộng các bản dịch về Kinh, Luật, Luận của Đại Thừa không dưới 250.000 trang sách.

Riêng Tạng Nam Truyền, Cố Hòa Thượng Thích Minh Châu - Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh đã dịch gần xong trước khi Ngài viên tịch từ tiếng Pali sang tiếng Việt. Tổng cộng Kinh, Luật, Luận có 13 quyển, mỗi quyển từ 700 trang đến 1.500 trang. Đây là tạng bằng tiếng Pali được chính thức viết thành văn tự năm 85 trước Dương Lịch. Điều ấy cũng có nghĩa rằng Tạng Nam Truyền cũng đã trải qua khẩu truyền của các vị Thánh Tăng trên dưới 500 năm như vậy. Cả hai bộ Nam và Bắc Truyền đều là những Pháp Bảo quý giá nhất của Phật Giáo Việt Nam nói riêng cũng như Phật Giáo thế giới nói chung. Người học Phật dẫu cho ở truyền thống nào đi chăng nữa thì trước sau cũng phải đi vào Đại Tạng mới có chiều sâu về Pháp được.

Nay Ni Sư Giới Hương đã tổng hợp được chỉ riêng phần A Hàm của Bắc Truyền và Kinh Tạng Nikaya qua Nam Truyền để xâu nên những chuỗi ngọc ma ni lấp lánh, đẹp tuyệt vời qua lời dạy của Đức Phật bằng văn phong dịch thuật, trong sáng cũng như chú giải của Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ và Hòa Thượng Thích Đức Thắng, là những nhà học giả của Phật Giáo Việt Nam đương đại, thì còn quý giá nào hơn nữa. Vả lại suốt những năm học tại Học Viện Phật Giáo Việt Nam, vốn là hậu thân của Đại Học Vạn Hạnh, được trực tiếp do Cố Hòa Thượng Thích Minh Châu hướng dẫn, giảng dạy thì chắc rằng Ni Sư đã thâu thập được rất nhiều, kể cả hai truyền thống Nam Bắc nầy. Cô lại cất công tổng hợp, phân loại và đặc biệt là theo thứ tự A, B, C…để độc giả dễ nhận biết khi đọc cũng như tra cứu qua các bản Kinh Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A HàmTăng Nhất A Hàm. Ở phần đầu và phần cuối của tập 1 và tập 2 là những sự nghiên cứu của Tác Giả đã dày công tổng hợp lại. Đây là một cách làm việc mới mẻ của những thế hệ Tăng Ni trẻ sau nầy.

Riêng tôi chỉ có một lời nguyện là những ngày còn lại của cuộc đời nầy sẽ đọc hết tất cả 3 Tạng Kinh, Luật, Luận của Bắc truyền nầy và cho đến hôm nay cũng đã đọc xong 8 cuốn trong 203 cuốn, mỗi cuốn độ 800 trang đến 1.500 trang về 4 chủ đề A Hàm bên trên. Do vậy khi đọc lại lần nầy những phần trích dẫn của Cô Giới Hương thì tôi cũng đã quen đi rồi. Xin cảm ơn Cô cũng như mọi người đã cho tôi thêm nhiều cơ hội để ôn lại những lời dạy nhiệm màu của Đức Phật, qua tác phẩm “A Hàm- Mưa Pháp chuyển hóa phiền não” nầy. Đọc để chiêm nghiệm, tu tập cũng như luyện tâm, vì tâm không Tu thì Trí không sáng, mà Trí không sáng thì sự hiểu biết về giáo lý của Đức Phật vẫn còn nằm ngoài tầm tay của hành giả học Phật.

Cứ dành thật là nhiều thời gian để đi vào Đại Tạng. Ví dụ như trong Trường A Hàm thuộc Kinh Du Bộ số 2 có tán thán ca ngợi về công đức việc hành hương các Thánh Tích sau khi Phật nhập diệt. Trường A Hàm, Kinh Thế Ký, Phẩm 4, nói về Địa Ngục thứ 30. Trường A Hàm phần nói về người nữ và Đức Phật dặn dò Ngài A Nan nên bỏ những giới cấm nhỏ nhặt ở phần Kinh Du Bộ số 2. Nói về Đức Phật Di Lặc, Đức Thích Ca Mâu Ni cũng đã dạy cho cặn kẽ trong Trường A Hàm, Kinh Chuyển Luân Vương Tu Hành, số 6. Phần quỷ thần, Đức Phật cũng đã nói trong Trường A Hàm, Kinh Thế Ký, Phẩm 8 thuộc Đao Lợi Thiên số 30. Đến phần Sáu Tư Niệm hay Thập Niệm của Nam Truyền, Đức Phật cũng đã nói trong Trường A Hàm, Kinh Tam Tụ số 12. Rồi đến Bát Kính Pháp, Đức Phật cũng đã nói trong Trung A Hàm, Kinh Cù Đàm Di, Phẩm 10, số 116. Kế tiếpTạp A Hàm, Đức Phật đã nói về ba lọai Hương Thơm cho Ngài A NanĐại chúng nghe. Phần thứ tư là Tăng Nhất A Hàm, Đức Phật cũng đã nói về Bát Quan Trai Giới, Ba Pháp, 24, Phẩm Cao Tràng, Kinh số 6. Cũng trong Tăng Nhất A Hàm nầy, Đức Phật đã nói về việc báo ân cha mẹ trong Hai Pháp 20, Phẩm Thiện Tri Thức, Kinh số 11. Phần Tâm như khỉ chuyền cành thì có thể tìm trong Tăng Nhất A Hàm, Một Pháp 9, Phẩm Con Một, Kinh số 3 và cuối cùng”Những chủ đề chung trong A Hàm” là những nhận định của Tác Giả qua phần Kinh Tạng này.

Chỉ những ai muốn có đời sống ẩn cư, nhàn tịnh để hành trì lời Phật dạy thì mới có thời gian thiền tập, tụng Kinh, Lễ bái, niệm Phật và từ đó mới có thể thẩm thấu được lời Phật dạy qua hằng trăm ngàn vạn lời ở vào thưở quá khứ xa xôi trong hơn 2.600 năm về trước. Còn những vị Pháp Sư nào đứng trên quan điểm của mình thuyết giảng mà nói cái nầy Đức Phật nói, cái kia không phải Đức Phật nói hay kinh điển Bắc truyền là do các vị Tổ Trung Hoa soạn ra thì cũng nên xem lại những Kinh Điển căn bản nầy để thấy rằng tại sao sự thăng hoa của Phật Giáo Đại Thừa phải có và từ Kinh nào trong tiếng gốc Pali mà chư Tổ Ấn Độ, Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật BảnViệt Nam đã thể hiện như vậy. Thật ra thì tinh thần Thượng TọaĐại Chúng Bộ đã manh nha sau kỳ kết tập Kinh Điển lần thứ hai tại Ấn Độ cũng như tinh thần Trung QuánBát Nhã là do các Ngài Vô Trước, Thế Thân, Mã Minh, Long Thọ gốc người Ấn Độ đã hình thành hệ tư tưởng nầy sau Đức Phật nhập diệt 1.000 năm, chứ không phải hoàn toàn biến dạng từ Trung Quốc hay Nhật Bản. Điều quan trọng của các vị Pháp Sư khi giảng pháp thì nên nói rằng: theo sự hiểu biết của tôi hay theo quan niệm của tôi là như vậy v.v.. thì người nghe sẽ không thắc mắc, nếu bảo chắc nịch rằng: Đức Phật không nói như vậy hay nói như vầy theo sở học, sở kiến của mình thì chưa hẳn đã hoàn toàn đúng.

Vậy điều căn bảncần thiết cho việc Tu và Học Phật là phải Hành Trì cũng như nghiên tầm giáo điển qua những trang Kinh trên, qua đó chúng ta sẽ thẩm thấu được lời Phật dạy và xin đừng nhân danh bất cứ cái gì để chúng ta xa dần những lời dạy căn bản của Đức Thế Tôn. Mong được như vậy và xin trân trọng giới thiệu với các độc giả tác phẩm giá trị này của Ni Sư Thích Nữ Giới Hương.

 

 Viết xong lời tựa này
vào lúc 7 giờ sáng ngày 29 tháng 12 năm Ất  Mùi (nhằm ngày  6 tháng 2 năm 2016)
tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover.
Thích Như Điển,
Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7574)
Lâu nay mình đã sống trọn vẹn hết thời giờ chưa? Mình có để lãng phí thời giờ hay không? Và bằng cách nào để chúng ta sống một cách có ý nghĩa?
(Xem: 8603)
Hai chữ “Sinh Tử” đã khiến cho biết bao nhiêu người bất kể trí ngu giàu nghèo từ xưa đến nay đều phải lưu ý tới và khổ tâm vì nó.
(Xem: 7140)
Những gì có mang một tính chất riêng (svalakṣaṇa) đều được gọi là pháp (dharma): “svalakṣaṇadhāraṇād dharmaḥ”[1], tức do duy trì yếu tính của tự thân nên nó được gọi là Pháp.
(Xem: 8413)
Đối với Phật giáo mỗi người làm chủ lấy vận mạng của chính mình. Mỗi chúng ta đều mang trong mình một tiềm năng ngang nhau...
(Xem: 7702)
Đạt được cơ sở con người, cơ sở đó giống như một cái bình thật quý và hiếm hoi, giúp ta có thể giải thoát tất cả kẻ khác và cho cả chính ta
(Xem: 7001)
Như Lai hay Như Khứ là dịch nghĩa của từ Sanskrit: Tathāgata, được ghép từ hai yếu tố là tathā và Agata hoặc tathā và gata.
(Xem: 8219)
TA THƯỜNG NGHE NÓI rằng thật khó tìm được một thân người. Không phải là bất kỳ thân người nào mà là một thân người “quý báu” có nối kết với Giáo pháp – đó chính là điều khó đạt được.
(Xem: 9235)
Đọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, người ta thường thấy câu thành ngữ “Buông đao đồ tể, lập tức thành Phật”.
(Xem: 7931)
Thuật từ Uẩn 蘊, ngữ nguyên Sanskrit là skandha, Pāli là khandha, Hán phiên âm, Tắc-kiện-đà 塞健陀, dịch là tích tụ, loại biệt, tức là năm loại khác nhau về các pháp hữu vi.
(Xem: 8420)
“Bạn có nghĩ rằng hôm nay chỉ là một ngày nữa của đời mình chăng? Thật ra hôm nay không phải chỉ là ‘một ngày nữa’ thôi, mà nó là một ngày được riêng dâng tặng cho bạn.
(Xem: 8059)
Phật dạy chúng ta hãy đem chánh niệm vào tất cả những việc mình làm trong đời sống hằng ngày. Ngài không bỏ ra ngoài bất cứ một việc làm nhỏ nhặt nào hết...
(Xem: 9611)
Những lời khuyên thiết thực, thâm sâutrong sáng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, chỉ cho ta cách tu tập giúp biến cải tâm linh ta, biến ta thành một con người cao cả hơn...
(Xem: 6775)
Trong cuộc sống, chúng ta thường dùng lời nói để trao đổi thông tin, để diễn đạt ý tưởng hoặc để bày tỏ, biểu lộ tâm tư tình cảm của mình…
(Xem: 6806)
Đức Phậtlòng từ bi mà thương xót chúng sinh, nên đã chỉ ra nỗi khổ, niềm đau, chỉ dạy phương pháp dứt khổ, để chúng ta cùng được sống trong bình yên, hạnh phúc.
(Xem: 7027)
Hộ trì các căn (Indriyesu guttadvàro) hay phòng hộ các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) là một trong các biện pháp tu tập căn bản của đạo Phật.
(Xem: 6663)
Tăng quan luận (僧官論) là một trong những bộ luận do ngài Thích Ngạn Tông (557-610)1 trước tác, nhằm thuyết minh và lý giải các chức vụ do chư Tăng đảm nhiệm (廣明僧職)
(Xem: 7206)
Chưa có tài liệu nào về niên đại của đức Phật lịch sử, vị sáng lập đạo Phật, được truyền thừa nhất quán trong các tông phái chính của Phật giáo cũng như được các học giả cùng công nhận.
(Xem: 6846)
Kinh Hoa Nghiêm, như các kinh điển Đại thừa, lấy tánh Không làm nền tảng. Tánh Không trong kinh này là Pháp thân của Phật bổn nguyên Tỳ-lô-giá-na, và toàn thể vũ trụhiện thân của Ngài.
(Xem: 16241)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
(Xem: 7539)
Con đường Bồ tátcon đường lý tưởng nổi tiếng của Phật giáo Đại thừa – không phải là pháp tu để thành thánh, thành tiên, mà là một lối sống ai cũng có thể ước mong thành tựu được.
(Xem: 6482)
Sau kiến đạo, các pháp hữu lậu không thuộc kiến sở đoạn (darśana-prahātavya). Tức các pháp hữu lậu còn lại, trừ kiến chấp ô nhiễm khởi lên do tà phân biệt.
(Xem: 6957)
Đa số người xưng là Phật tử mà không biết rõ đường lối tu hành, ai bày sao làm vậy, trở thành mê tín sai lầm, khiến người đời phê bình đạo Phật là huyền hoặc, là vô ích.
(Xem: 7281)
Tánh "không" (S. 'Suunyataa, P. Su~n~nataa) là một trong các học thuyết quan trọng bậc nhất của Phật giáo và cũng là học thuyết bị người khác đạo hiểu sai lầm nhiều nhất.
(Xem: 6366)
Tánh Khôngbản tánh của tất cả mọi sự vật, mọi hiện tượng, mọi hành động của thân khẩu ý, nên ở đâu trong không gian nào thời gian nào chúng ta cũng có thể nhận ra nó...
(Xem: 6723)
Nói đến Bát-nhã (Trí huệ), các luận thường phân làm ba: Bát-nhã văn tự, Bát-nhã quán chiếu, và Bát-nhã thật tướng.
(Xem: 5578)
Người Phật tử chân chính chớ nên dòm ngó lỗi người, chúng ta chỉ nên nhìn lại hành động của mình, xem đã làm được điều gì tốt đẹp hay chưa.
(Xem: 8900)
"Vậy nên này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình (atta-dipà viharatha), hãy tự mình y tựa chính mình (attàsaranà) chớ y tựa một cái gì khác.
(Xem: 7392)
Tổ Quy Sơn dạy: "Nếu mình chưa là bậc thượng lưu, vượt thẳng lên thềm vô thượng giác thì hãy để tâm vào giáo pháp, ôn tầm kinh điển, rút ra nghĩa lý tinh hoa, truyền bá tuyên dương tiếp dẫn hậu lai, trả ơn đức Phật".
(Xem: 22297)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 7790)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 6855)
Bài Pháp này nhắc nhở các bạn về một số điều Phật dạy, như một cách để sách tấn, khuyến khích các bạn chăm chỉ thực hành đúng theo lời Phật dạy.
(Xem: 15032)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 8613)
Sự hình thành và phát triển tâm lý học Phật giáo là một quá trình vừa diễn dịch vừa xây dựng kéo dài suốt hàng thế kỷ trong lịch sử truyền thừa Phật giáo kể từ thời Đức Phật.
(Xem: 13088)
Giáo lý Duyên khởi (Cái này sinh, nên cái kia sinh, cái này diệt nên cái kia diệt) là nguyên tắc chung giải thích về sự hình thành hay hủy diệt của các pháp.
(Xem: 18956)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 6004)
Phật Thích Ca sau 49 năm thuyết pháp cũng bảo những lời ta nói là thuyết lại lời cổ Phật. Khổng Tử thì nhắn nhủ hậu thế: ông chỉ truyền lời Thánh hiền không thêm bớt không sáng tạo...
(Xem: 6235)
Ở đời cái gì cũng vậy, không phải ngẫu nhiên có được, mà đòi hỏi mỗi con người chúng ta phải tự nỗ lực, tự tầm cầu, tự suy tư để tìm đến con đường giải thoát cho tự thân và tha nhân.
(Xem: 6999)
Chân lý tương đối là những sự thật còn nằm trong đối đãi đối trị nhau. Những sự đối đãi ấy là...
(Xem: 7310)
Sanh tử sự đại là một đề mục lớn của Thiền Tông, và sanh tử luân hồi là một chủ đề phổ thông của Phật Giáo. Nói đến sanh tử luân hồi thì người Phật tử nào cũng nghĩ đến việc thoát ly sanh tử luân hồi.
(Xem: 8368)
Nghiệp báo đóng một vai trò rất quan trọng trong giáo lý nhà Phật.
(Xem: 5670)
Người ta thường tìm đủ mọi cách để gán một nhãn hiệu nào đó lên các lời giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 5871)
Đã lâu, đa số thanh niên quan niệm giải thoát của đạo Phật là siêu hình huyền hoặc đâu đâu, để dành riêng cho những người chán thực tại cầu vào chốn hư vô tịch diệt.
(Xem: 5512)
Sự hiện hữu của mỗi chúng ta hiện giờ và ở đây là do, từ, bởi, nhiều nguyên nhânđiều kiện.
(Xem: 6500)
Đồng Mông Chỉ Quán là một trước tác rất hàm xúc và có hệ thống, nếu hành giả cố gắng thực hành theo "Pháp yếu tọa Thiền tu tập Chỉ Quán" này chắc chắn sẽ đạt được kết quả lớn lao.
(Xem: 5919)
Đạo Phật chủ trương giác ngộ mang ánh sáng trí tuệ soi rọi cho thế gian. Mọi lẽ thật đều hiện bày dưới ánh sáng giác ngộ,
(Xem: 7506)
Mọi chúng sinh dù là người hay là thú , dù giầu hay nghèo, già hay trẻ, không ai là có thể tồn tại lâu dài mãi mãi trong một tình trạng , mọi thứ đều sẽ phải thay đổi và xa rời đi.
(Xem: 5804)
Bốn dấu ấn tiếng Phạn gọi là caturlaksana, tiếng Pa-li là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 6721)
Đại thừa (Mahāyāna) phát triển một nhận thức mới về bản chất lịch sử của Đức Phật Śākyamuni.
(Xem: 6788)
Khi chúng ta tự gọi mình là những Phật tử, có nghĩa là chúng ta là những người đi theo Phật.
(Xem: 5724)
Phật Giáo là một tôn giáo xây dựng trên trí thông minh, khoa học và sự hiểu biết. Mục đích của tôn giáo ấy là để giúp loại trừ khổ đau và các nguyên nhân mang lại khổ đau.
(Xem: 6223)
Chúng ta học Phật, Phật dạy chúng ta hồi đầu, quy y tự tính giác. Tự tính giác tức là Phật tính. Phát Bồ đề tâm, tu Bồ Tát hạnh...
(Xem: 5510)
Phật pháp là những điều đức Phật chứng kiến được sau khi giác ngộ, đem chỗ chứng kiến ấy nói lại để cho mọi người hiểu biết để dứt sạch mê lầmgiác ngộ
(Xem: 7131)
Ý niệm về nghiệp hữu lý trên nhiều phương diện, nhưng một số người đã hiểu lầm về nghiệp.
(Xem: 6099)
Khả năng thích ứng tuyệt vời của Phật giáo đã giúp Phật giáo hội nhập với các nền văn hoá khác.
(Xem: 7920)
Bụt là thầy chỉ đạo Bậc tỉnh thức vẹn toàn Tướng tốt đoan trang Trí và bi viên mãn.
(Xem: 6083)
Người có tuệ giác biết nhìn thẳng vào sự thậtchấp nhận sự thật ấy dù đau thương rồi nỗ lực chuyển hóa, thăng hoa.
(Xem: 7113)
Đạo Phậtđạo từ bi và hành động thiết thực của nó mang đến sự an vui, bình yên cho tất cả chúng sinh.
(Xem: 6958)
Ai có thể hàng phục được mười tám giới: sáu căn, sáu trần, và sáu thức, khiến chúng đừng tạo phản thì người đó chính là Bồ Tát.
(Xem: 7015)
Trong Phật giáo, các từ ngữ "cầu nguyện," "cầu xin" hay "ước nguyện" được hiểu đồng nghĩa với thuật ngữ "pràrthanà" (Sanskrit) hay "patthanà" (Pali).
(Xem: 6776)
Hai chữ quy y có nghĩa là : quay về hay hồi chuyển. Y là nương tựa hoặc dựa vào, những hành vi hồi chuyển nương tựa hoặc quay đầu dựa dẩm tin tưởng.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant