Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kệ Ca Ngợi Pháp Giới

27 Tháng Chín 201620:20(Xem: 12028)
Kệ Ca Ngợi Pháp Giới

KỆ CA NGỢI PHÁP GIỚI



   Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển 32, thuộc Luận Tập Bộ toàn, Kinh văn số 1675.

Thánh Long Thọ Bồ Tát tạo, Tây Thiên, nước Điểu Điền, chùa Đế-Thích Cung, Tam Tạng Truyền Pháp Đại Sư Sắc Tử Sa môn Thần Thí Hộ dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán.

Sa-môn Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác, Đức quốc dịch Hán- Việt, mùa An cư kiết hạ, Phật lịch 2551, nhằm ngày 09/08/2007 tại thư phòng chùa Viên Giác.

Tỳ Kheo Thích Hạnh Nhẫn góp phần hiệu đính xong lần thứ nhất ngày 22/9/2016



Quy mạng mười phương Phật

Pháp, Báo và Hóa Thân

Nguyện cùng các chúng sinh

Chóng thành Pháp giới tính.


Luân hồi ba đường ác

Lý pháp giới không động,

Xưa nay thường thanh tịnh

Các tướng chẳng thể đổi.


Tịch tĩnh như hư không

Trọn khắp  ở mọi chỗ

Thể đều lìa đây, kia

Không sâu cũng chẳng cạn.


Khi sữa chưa chuyển đổi

Chẳng thấy tô, đề-hồ,

Phiền não chưa hàng phục

Pháp giới do đâu hiển?


Như tô ở trong sữa

Tô vốn diệu quang minh,

Phiền não che pháp giới

Thể thanh tịnh viên mãn.


Như đèn bị ngăn che

Không thể chiếu vật khác,

Vô minh hằng che tâm

Pháp giới không sáng tỏ.


Như đèn lìa chướng ngại

Chiếu được vật khắp nơi,

Khi phá tan phiền não

Chân như thường hiển hiện.


Đầu, giữa và cuối cùng

Hai chướng không thể nhiễm,

Như châu lưu ly sạch

Ánh sáng thường tỏa chiếu.


Ánh sáng bị vật ngăn

Bị chướng chẳng thấy sáng,

Phiền não che pháp giới

Chân như khó hiện.


Thể viên tịch sáng sạch

Luân hồi không thể nhiễm,

Cần cầu đến pháp giới

Luân hồi chẳng thể che.


Như gạo trong vỏ trấu

Thể của gạo chẳng không,

Phiền não che Chân như

Phiền nãoChân như.


Như lột bỏ vỏ kia

Thể gạo tự nhiên hiện,

Nếu lìa vỏ phiền não

Lý pháp giới mới hiển.


Vọng chấpthế gian

Vỏ chuối rốt chẳng thật,

Pháp giới không thế gian

Hư vọng cũng không thấy.


Như người uống Cam-lộ

Nhiệt não trọn đều dứt,

Nếu chứng pháp giới tính

Nóng phiền não đều hết.


Diệt trừ diễm phiền não

Cam-lộ pháp giới hiện

Trong tất cả hữu tình

Cao, thấp đều bình đẳng.


Thể thật quả không sinh

Quả loại chấp không có,

Khi trí huệ sinh ra

Hữu vi không pháp giới.


Pháp giới vốn không nơi

Rốt ráo mới chứng được,

Thanh tịnh hằng sáng sạch

Nhật nguyệt đều sáng sạch.


Pháp giới không cấu nhiễm

Như bụi, đêm rồng mưa

Sánh tợ mặt La-hầu

Quang minh hằng xán lạn.


Ví như lửa tẩy vải

Chỗ lửa lìa được nhiễm,

Trừ bẩn chỉ còn vải

Quang minh chuyển sáng sạch.


Tham ái khiến tâm nhiễm,

Hư vọngluân hồi

Cũng như lửa tẩy vải

Chân không không có vọng.


Ba độc gốc sinh tử

Lửa trí tuệ thiêu được

Thể pháp giới thường có

Sáng trong thường chiếu diệu.


Nhiễm phiền não gọi nhơ

Thường được Thế Tôn nói,

Diệt nhơ, Chân như hiện

Như suối dẫn từ đất.


Nếu trừ sạch phiền não

Sáng sạch lớn khó lường,

Pháp giới vốn vô ngã,

Không nhị hình, nam, nữ.


Thể không, chấp hư vọng

Chỗ nào thêm nghĩ suy?

Pháp giới lìa yêu, ghét

Căn, trần, cảnh vốn không.


Chấp hư vọng làm nhân

Khác nhau sinh từ đây,

Chân không không khổ não

Tham ái – nhân khổ não.


Đắm nhiễm do vọng tưởng

Bèn luân hồi ba cõi,

Hoài thai ở trong bụng

Hài nhi chưa thể thấy


Hai chướng che Chân như

Không thể chứng pháp giới,

Sinh đủ loại nghi ngờ

Kiến, mạn và sân, si


Vọng chấpchân thật,

Chân thật - chấp không có,

Thể sừng thỏ không có

Vọng chấp khiến thành thật.


Pháp giới lìa vọng chấp,

Vọng chấp thực chẳngcó,

Như sắc ắt phá hoại

Vi trần khá biết được.


Pháp giới không phá hoại

Trong ba thời chẳng được,

Có sinh ắt có diệt,

Vinh nhục cũng đều theo.


Pháp giới không sinh diệt

Làm sao nói: Được biết?

Sừng thỏ vốn không có

Nghĩ được trong ba thời?


Chân không không sừng thỏ

Tư lự chẳng thể biết

Chân không gọi Thiện Thệ

Sắc tướng trọn đều mất.


Đáng độ, tùy duyên có

Tu nhân lìa chấp không,

Viên thông như nhật nguyệt

Nước hiện ảnh đều đồng.


Sắc, thanh cùng dứt sạch

Khác nhau có thế nào?

Ba thời khá tìm nghĩ

Khi sinh duyên quyết định.


Nếu ngộ pháp tự thân

Tự thân làm sao có?

Như nước ở chỗ nóng

Chỗ nóng giác ngộ không.


Chỗ lạnh cũng như thế

Viên thông đều như vậy

Phiền não hằng che tâm

Mê hoặc chẳng thể rõ.


Nếu lìa trói phiền não

Giác ngộ thời không có,

Như mắt quán các sắc

Lìa chướng được chiếu diệu.


chân không cũng thế

Chiếu diệu lìa sinh diệt,

Nhĩ thức nghe âm thanh

Lìa vọng và phân biệt.


Tính pháp giới cũng vậy

Vọng phân biệt không có,

Mũi ngửi được các hương

Tính vọng chấp không có.


Sắc tướng cả hai mất

Chân không cũng như thế

Tự tính thiệt căn không,

Vị giới hằng viễn ly.


Thể thức không cũng vậy

Lý pháp giới như thế,

Tự tính thân căn tịnh

Xúc lạnh, nóng không có.


Lý pháp giới cũng thế

Xúc xứ thường viễn ly,

Ý duyên pháp gọi nhất

Tự tính thường viễn ly.


Tính chư pháp vốn không

viên thông như vậy,

Thấy nghe và giác biết

Pháp tương ưng cũng không.


Liễu tuyệt các vọng tưởng

Lý: Thấy nghe cũng không,

Căn- trần, khởi vọng chấp

Thể thanh tịnh vốn không.


Mê chấp, có căn – trần

Lý: Căn trần không có,

Thế gianxuất thế

Tính không vốn chẳng khác.


Ngã, pháp do mê khởi

Chấp khắp, tự luân hồi,

Lý pháp giới thanh tịnh

Tham, sân, si vốn không.


Mê, ngộ từ tâm khởi

Pháp tam độc giả danh,

Mê chấp tự trói buộc

Trí- liễu đạt giả danh.


Bồ-đề chẳng xa gần

Lý: Ba thời không có,

Lồng phiền não mê chấp

Kinh Thế Tôn đã nói.


Trí sinh- hoặc nhiễm diệt

Vọng chấp- vật trói buộc,

Đi lại chấp tối thắng

Thể không còn khá nghĩ


Bồ-đề không vọng chấp

Chứng chính cũng biết không,

Nước, sữa cùng một chỗ

Ngỗng uống sữa không nước.


Sinh không lìa phiền não

Hai chướng cũng không tạp

Vọng chấp ngã chẳng không,

Liễu đạt vốn không có.


Niết-bàn thanh tịnh

Hai ngã cùng không lập

Tam đàn trai tu thí

Trì giới lìa lỗi lầm.


Nhân Nhẫn – quả đoan chính

Nương tinh tấn, dũng cần,

Tĩnh lự khiến tâm định,

Bát-nhã dụng vô ngại


Nguyện kèm lực phương tiện

An trụ thắng Bồ-đề,

Bồ-đề khó vọng chấp

Chân không chẳng sinh diệt.


Liễu đạt bản tính không

Hai tướng cùng không có,

Sữa đường lìa cây mía,

Lìa mía, không có đường.


Giữ gìn hạt lúa mạch

Mầm nhánh ắt được sinh,

Gìn giữ giống Bồ-đ

Bồ-đề từ đây sinh.


Ví như trăng trong ám

Còn chưa thấy ánh sáng,

Phiền não trói hữu tình

Chân như chưa thể thấy.


Trăng non tuy có sáng

Từ từ mà tăng trưởng,

Sơ địa chứng Bồ-đề

Bồ-đề chưa viên mãn;


Mười lăm trăng tròn đầy

Nơi nơi ánh sáng chiếu,

Giải thoát hiển pháp thân

Lý Pháp thân không khuyết.


Ý tương ưng nhiễm ô

Trói buộc cùng sinh diệt,

Giải thoát tất cả chướng

Ngộ ba thời không có.


Đủ a-tăng- kỳ đầu

Tam đàn tu khắp cả

Đoạn trừ chướng phân biệt

Trí Hoan h khó sánh.


Ba nghiệp lầm kiêm phạm

Phòng lỗi nặng và nhẹ

Thi-la giới viên mãn,

Ly- cấu độc nêu danh.


Hai chướng hằng thời nhiễm

Đao tuệ trừ, đều không,

Phát Quang được chiếu diệu

Phá diệt lần không sót;


Lìa xa căn tùy nhiễm

Dần tăng uy Diễm Tuệ

Bồ- đề xưng tối thắng

Thiêu chiếu chuyển sáng chói.


Hai đế gọi Chân, Tục

Tương ưng, nếu mâu thuẫn

Hợp lại khiến không ngại

Nan Thắng sự hằng thời


Mười hai duyên sinh trí

Đường về lý tuần hoàn,

Tối thắng thâm sâu nhất

Bát-nhã hiện ở trước.


Hành thế gian, Nhị thừa

Đạo tu lâu đã tỏ

Đủ tướng Vô công dụng

Sau rốt gọi Viễn Hành.


Dụng trí vô phân biệt

Tùy duyên tự nhiên thành,

Hàng chúng ma thối tán
Bất Động danh rực rỡ.


Thiện Tuệ gọi vô ngại

Mười phương diễn pháp hiếm

Thân trút mưa Cam lộ,

Hiện chỗ nương tối thắng.


Các đức giống như nước,

Thân dụ như hư không,

Thô nặng đều che lấp

Đại Pháp Trí-gọi Mây.


Xét kỹ việc luân hồi

Ai tránh được nghiệp dẫn?

Phải biết không khổ não

Tịnh độ chớ nghĩ: Phiền.


Quy mạng chân Phật tử

Lên vị Mây Trí Tuệ

Tế vi đều đoạn sạch

Vượt khổ, lìa các trần.


Quán đỉnh các quang chiếu

Thân khắp các căn, trần

Đại định Kim Cang tịch

Các khổ chẳng theo thân;


Tòa Đại Bảo Hoa Vương

Thành bởi vô lượng diệu

Khắp phổ biến trang nghiêm

Công đức thật khó nghĩ;


Mười phương đều vô úy

Đủ ba thân, bốn trí,

Sáu thông luôn tự tại

Ứng vật độ cơ duyên;


Chiếu diệu như trăng tròn

Lửa hừng hực cháy luôn

Mười phương đâu chẳng khắp

Xán lạn chuyển rực rỡ.


Vĩnh viễn dứt duyên nhiễm

Nơi chỗ luôn Niết-bàn

Gọi Bồ-đề tối thắng

Hóa vật lợi tình vui.


Dụng trí sâu như biển

Theo cơ hiện Ứng thân

Nước trong trăng ảnh hiện

Khắp chốn độ mê tân.


Giống như báu Pha-chi

Tùy duyên hiện ảnh đồng

Căn tình vật có cảm

Biến khắp sự vô cùng.


Ngạ quỷ luôn đói khát

Chẳng thấy được suối nước,

Chúng sinh không chút tín

Nghiệp xưa tự trói buộc.


Hóa hiện các tướng thân

Ánh sáng đều rực rỡ,

Phật tuy luôn tại thế

Không gặp vì không duyên;


Biết rõ trần sa giới

Căn theo nhiễm chưa lâu,

Hai Không trí thù thắng

Diệu dụng độ ngu mông.


Thanh tịch sạch các nhơ

Thân tự, tha thọ dụng

Thường ở Sắc Cứu Cánh

Lợi ích người năm thừa.


Cứu vớt khổ chúng sinh

Thọ mạng dài vô lượng

Hai nghiêm không cùng tận

Công đức lớn khó lường.


Phật diễn pháp Nhất thừa

Tùy cơ hiểu nông sâu

Hoa sen không nhiễm dơ

Ngọc vốn sạch vết khuyết.


Ngợi ca một phần nhỏ

Nói rộng lý mầu nhiệm

Nguyện đem các công đức

Khắp thí lợi Trời, Người.



KỆ XƯNG TÁN PHÁP GIỚI.



Phật Tử Thanh Phi sửa lại lỗi chính tả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16650)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13254)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12715)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 13554)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11726)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14253)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17749)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22607)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13456)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 15542)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 16067)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11362)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15677)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13154)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 21923)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 16159)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19126)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24796)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 17642)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17082)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 18572)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19004)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18824)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 14384)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 23076)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28505)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15172)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 13677)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16417)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 143486)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 16313)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 17409)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 47383)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39094)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15780)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23084)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 16730)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 14284)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 13873)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17206)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 14347)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16900)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 27930)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 50148)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38448)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 28516)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52140)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35805)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32829)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50740)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 63633)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 49650)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 56965)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47480)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39370)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38418)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 36554)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32189)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 46654)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 40023)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant