Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Duy Thức Nhị Thập Luận

15 Tháng Năm 201703:41(Xem: 11663)
Duy Thức Nhị Thập Luận

Duy Thức Nhị Thập Luận
(Xem bản PDF)
Bồ tát Thế Thân soạn, Ngài Huyền Trang dịch sang tiếng Hán, Quảng Minh dịch sang tiếng Việt
---

DẪN NHẬP

 

Duy thức nhị thập luận (唯識二十論, विम्शतिकाविज्ञप्तिमात्रतासिद्धि, Ñi-śu-paḥi ḥgrel-pa, Viṃśatikā-vijñapti-mātratā-siddhi, Twenty Verses on Consciousness Only) có 1 quyển, do bồ tát Thế Thân (世親, Vasubandhu, Dbyig-gñen, 315-395) soạn, ngài Huyền trang (玄奘) dịch vào đời Đường; cũng gọi là Nhị thập duy thức luận (二十唯識論), Tồi phá tà sơn luận (摧破邪山論), được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.  Luận này dẫn dụng câu “Tam giới duy tâm” (ba cõi chỉ do tâm) trong kinh Thập địa để luận chứng ngoại cảnh do thức hiển hiện, nói rõ nghĩa “Duy thức vô cảnh” (chỉ do thức không có cảnh) để bác bỏ sự thiên chấp của Tiểu thừangoại đạo. Duy thức nhị thập luận chủ yếu khai thị về pháp vô ngã, không phải về nhân vô ngã.  Đây là một trong 11 bộ luận của tông Pháp tướng, một trong 10 chi luận của Du già. Luận này được trích dẫn trong Thành duy thức luận như là một luận điểm trọng yếu.

Nội dung sách này gồm có 21 bài tụng thể năm chữ, dựa vào đó mà giải thích ý nghĩa rõ ràng. Trước hết, nói về yếu chỉTam giới duy thức”, kế đó, giải thích bốn vấn nạn do Tiểu thừangoại đạo đặt ra để thành lập lý “Vạn pháp duy thức”. Bài tụng cuối cùng nói về tông nghĩa.  Dựa theo con số kệ tụng mà lấy tên là Nhị thập luận.

Ngoài bản dịch của ngài Huyền trang, luận này còn có hai bản dịch khác nữa, đó là:

1. Đại thừa lăng già kinh duy thức luận (大乘楞伽經唯識論, No. 1588), 1 quyển (cũng gọi Phá sắc tâm luận 稱破色心論), do ngài Bồ đề lưu chi (菩提流支), dịch vào thời Bắc Ngụy.

2. Đại thừa duy thức luận (大乘唯識論, No. 1589), 1 quyển, ngài Chân đế (眞諦) dịch vào đời Trần thuộc Nam triều.

Trong ba bản dịch này, bản của ngài Bồ đề lưu chi văn xuôi nhiều, kệ tụng ít, tất cả có 23 bài tụng; bản của ngài Chân đế văn xuôi ít, kệ tụng nhiều, có 24 bài tụng; bản của ngài Huyền trang văn xuôi, văn kệ bằng nhau, có 21 bài tụng.

Tông chỉ của Duy thức nhị thập luận là phá bỏ quan niệm ngoại cảnh thật hữu, để thành lập giáo nghĩa Duy thức. Duy thức chủ trương tất cả các pháp không có thật thể, sở dĩpháp tướng hiển hiện và có tác dụng là do tâm thức của chúng sinh hữu tình chế tác ra. Rời ngoài tâm thức biến hiện thì không có thực tại nào cả. Nói cách khác, cái mà ta biết về một đối tượng dù thuộc về dạng nào đều không phải tự thân đối tượng, mà chỉ là những hiểu biết ta có về đối tượng đó.  Chấp ngoại cảnh thật hữutư tưởng của thực tại luận. Tư tưởng ấy bao hàm trong sáu phái triết học Ấn Độ, đặc biệt là phái Thắng luận, và những bộ phái Tiểu thừa như Thuyết nhất thiết hữu bộ, Kinh lượng bộ, Độc tử bộ, Chánh lượng bộ, Đại chúng bộ v.v…  Nội dung của Duy thức nhị thập luận có thể tóm tắt trong bảy vấn nạn:

  1. Bốn sự bất thành: Phái Thắng luận, Đại chúng bộ, Độc tử bộ, Chánh lượng bộ, Tát bà đa bộ (Thuyết nhất thiết hữu bộ), Kinh lượng bộ, Thuận chánh lý đưa ra bốn sự để biện bácDuy thức không thể thành lập, đó là: Nếu cho rằng tất cả các pháp toànduy thức, không có ngoại cảnh, thì làm sao ngoại cảnh hiện thấy lại có xứ định, thời định, tương tục bất địnhtác dụng bất định? Luận chủ nêu các thí dụ mộng, quỷ, địa ngục, bàng sinh cõi trời để chứng minh bốn nghĩa đều thành. (Tụng 1 – 14)
  2. Thánh giáo tương vi: Ngoại nhân hỏi, nếu nói tất cả đều là duy thức, không có thật cảnh ngoài tâm, thì lý do gì Phật nói 12 xứ? Luận chủ vạch rõ rằng Phật nói 10 xứ là có mật ý. Ngoại nhân hỏi, Phật nói 12 xứ đối với người nghe có lợi ích gì? Luận chủ nói, sở dĩ Phật nói 12 xứ là để pháp ngã chấp của chúng sinh, khiến cho người học ngộ nhập nhân vô ngã, tức đạo lý số thủ thú vô ngã. (Tụng 15 – 16ab)
  3. Hiện lượng trái với tông chỉ: Tát bà đa bộ, Kinh lượng bộ, Đại chúng bộ chủ trương rằng ngoại cảnh sắc, v.v… rõ ràng là sở chứng hiện lượng của năm thức, vì sao bác bỏ ngoại cảnh không có? Luận chủ đưa thí dụ chiêm bao để ví cho cảnh giới hiện tiền, giải thích cảnh hiện giác chứng thì không phải là thật, nói rõ sự nhớ nghĩ là cảnh chẳng thật, chưa tỉnh thì không biết mình đang chiêm bao. (Tụng 16cd)
  4. Hai thức quyết định: Ngoại nhân hỏi, ngoại cảnh nếu là trống rỗng không thật, thì vì sao Thánh giáo chỉ dạy người rời xa bạn xấu, ác pháp, và thân cận bạn lành, thiện pháp? Luận chủ chỉ ra cái lực tăng thượng xoay vần là do hai loại chủng tử thiện ác khi thành thục thì sinh ra tâm thức quyết định. (Tụng 17ab)
  5. Mộng tác bất thọ: Ngoại nhân hỏi, cảnh hiện tiền nếu giống như cảnh mộng, thì vì sao tỉnh thức tạo nghiệp thiện ác, có quả báo khổ vui, và nếu trong mộng mà tạo nghiệp thiện ác, vì sao không có quả báo? Luận chủ đáp, tâm năng tạo trong mộng đã bị thụy miên làm tổn hoại, không thể tự chủ, cho nên khi mộng và khi tỉnh mà tạo nghiệp thì có quả báo không giống nhau. (Tụng 17cd)
  6. Sát sinh không tội: Ngoại nhân hỏi, nếu duy hữu thức mà không có thân, ngữ nghiệp thì những con vật như dê, v.v… làm sao bị giết? Nếu súc sinh chết không do người giết, thì những người giết mỗ hoàn toàn không có tội sát sinh. Luận chủ cho rằng tội sát sinh hoàn toàn do tâm thức hai bên kết hợp mà thành, không thậtthân mệnh bị giết, xem chừng như do ngoại cảnh hình thành, nhưng kỳ thật bao hàm trong duy thức. (Tụng 18-19)
  7. Tha tâm trí: Ngoại nhân hỏi, nếu chỉ có thức, các tha tâm trí có thể biết tha tâm không?  Nếu không thể biết thì sao gọi là tha tâm trí? Nếu có thể biết tha tâm thì nghĩa “Duy thức vô cảnh” không thể thành lập. Luận chủ cho rằng, cái biết về tha tâm bởi tha tâm trí chỉ là hư vọng không thật. (Tụng 20)

Hai mươi bài kệ tụng cũng được chia thành 12 khoa:

  1. Tụng 1: Vấn nạn sinh khởi.
  2. Tụng 2 và 3: Nói thí dụ xuất mộng để chứng minh “bốn nghĩa được thành”, tức thành lập nghĩa Duy thức.
  3. Tụng 4, 5 và 6: Phủ định tính thật hữu của ngục tốt để thành lập nghĩa Duy thức.
  4. Tụng 7 và 8: Giải thích sự dẫn dụ Thánh giáo bất thành để thành lập nghĩa Duy thức.
  5. Tụng 9: Lược bày nghĩa hai vô ngã.
  6. Tụng 10, 11, 12, 13 và 14: Khái niệm một và nhiều để phá ngoại cảnh thật hữu, để thành lập nghĩa Duy thức.
  7. Tụng 15 và nửa đầu tụng 16: Phá vọng chấp hiện lượng để thành lập nghĩa Duy thức.
  8. Nửa sau tụng 16: Chỉ ra sự ở trong mộng không biết, để thành lập nghĩa Duy thức.
  9. Nửa đầu tụng 17: Nói rõ hai thức chuyển quyết định, để thành lập nghĩa Duy thức.
  10. Nửa sau tụng 17: Hiển thị khi ngủ thì tâm hoại, để thành lập nghĩa duy thức.
  11. Tụng 18 và 19: Dẫn ý phạt là nặng để thành lập nghĩa Duy thức.
  12. Tụng 20: Giải thích tha tâm trí không như thật để thành lập nghĩa Duy thức.

Luận này có rất nhiều sách chú thích.

Ấn độ, bắt đầu là luận sư Cù-ba (瞿波) - đệ tử của bồ tát Thế thân - có hơn 10 nhà chú thích, trong đó, Thành duy thức bảo sinh luận (成唯識寶生論), 5 quyển, của ngài Hộ pháp (護法) là quan trọng hơn cả. (No. 1591, Đời Đường – pháp sư Nghĩa Tịnh 義淨 dịch ra chữ Hán)

Tại Trung quốc thì có: Nhị thập duy thức luận thuật ký (唯識二十識論述記, No. 1834), 2 quyển, do ngài Khuy cơ (窺基) soạn vào đời Đường; Duy thức nhị thập luận sớ (唯識二十論疏), 2 quyển, do ngài Viên Trắc (圓測) người Tân La soạn. Nhị thập duy thức luận thuật ký là sách chú thích Duy thức nhị thập luận của ngài Thế thân (bản dịch của ngài Huyền trang). Nội dung sách này, trước hết nói về lý do soạn luận, kế đến chia làm ba môn để giải thích rõ nghĩa “an lập Đại thừa tam giới duy thức” và giải thích “phi nhất thiết chủng”, bác bỏ quan niệm “hữu tính”, v.v… Duy thức nhị thập luậnThành duy thức luận là những bộ sách căn bản của Pháp tướng tông, bởi thế, Duy thức nhị thập luận thuật ký và Thành duy thức luận thuật ký trở thành sách nhập môn cơ bản của Duy thức học.

Việt Nam có cuốn Triết Học Thế Thân của Giáo sư Lê Mạnh Thát, được Đạo Sinh chuyển dịch từ nguyên tác Anh ngữ: The Philosophy of Vasubandhu (Luận án tiến sĩ, University of Wisconsin - Madison, 1974). Sự tri nhận và đối tượng tri nhận, sự tự tri và cơ cấu tự tri trong Duy thức nhị thập luận được Lê Mạnh Thát khảo sát rất khúc chiết và sâu sắc ở chương 5 và chương 6.

Về Phạn bản của Duy thức nhị thập luận, có 2 bản:

  1. S. Lévi, Vijñāpti-mātratā-siddhi, Deux traités de Vasubandhu, Viṃśatikā (La Vingtaine) accompagnée d’une Explication en Prose et Triṃśika (La Trentaine) avec la commentaire de Sthiramati. (Paris 1925).
  2. K.S Chatterjee, Vasubandhu’s Vijñaptimātratā-siddhi with  Sthiramati’s  Commentary,  Text  with  English  Translation Varanasi: Kishor Vidya Niketan, 1980.

Tạng bản thì có Duy thức nhị thập luận thích sớ (唯識二十論釋疏), do học giả Ấn Độ Vinītadeva (調伏天 Điều Phục Thiên/律天 Luật Thiên, Dul ba’i lha) chú giải. Phạn bản của thích sớ này đã thất lạc, chỉ còn Tạng bản với tựa đề Rab-tu-byes-pa ñi-śu-paḥi ḥgrel-bśad (No. 4065, Prakaraṇaviṁśakaṭīkā). Tạng bản của Duy thức nhị thập tụng (Ñi-su-paḥi tshig-leḥur-byas-pa) và Duy thức nhị thập luận (Ñi-śu-paḥi ḥgrel-pa) của Thế Thân mang số hiệu No. 4056 và No. 4057.

Duy thức nhị thập luận là văn bản triết học dễ đọc, phân giải rõ ràng nhất của Thế Thân, và nó có sự thu hút và mức độ quan tâm đặc biệt bởi các học giả hiện đại, qua các văn bản bằng Phạn ngữ, Tạng ngữ, Hoa ngữ và Anh ngữ. Vì vậy, có rất nhiều bài nghiên cứu, sách khảo sát của các học giả phương Tây về Thế Thân qua hai tác phẩm nổi tiếngDuy thức nhị thập tụngDuy thức tam thập tụng

Duy thức nhị thập luận là một môn học của Phân khoa Tôn giáo học của các trường Đại học lớn trên thế giới như The University of Chicago Divinity School, The University of Melbourne, University of Calgary (Canada), Stanford University, Oxford University, National Taiwan University, v.v… Học viện Phật giáo Việt Nam cho tới nay vẫn chưa đưa Duy thức nhị thập luận vào chương trình giảng dạy như là một môn học nghiên cứu triết học và văn bản của Thế Thân.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16319)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11775)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 11999)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12691)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12603)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10125)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13815)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10137)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13596)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16162)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11872)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12873)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11557)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12579)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10699)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10891)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10859)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11805)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12657)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 10981)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12519)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11231)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12423)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 13971)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10740)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10406)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11075)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11869)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13045)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12269)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14213)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11999)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15189)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11885)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11098)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10509)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13046)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12562)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16415)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19480)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13408)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11868)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11522)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12663)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12521)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12779)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 17882)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12093)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12939)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant