Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Duy Thức Nhị Thập Luận

15 Tháng Năm 201703:41(Xem: 11767)
Duy Thức Nhị Thập Luận

Duy Thức Nhị Thập Luận
(Xem bản PDF)
Bồ tát Thế Thân soạn, Ngài Huyền Trang dịch sang tiếng Hán, Quảng Minh dịch sang tiếng Việt
---

DẪN NHẬP

 

Duy thức nhị thập luận (唯識二十論, विम्शतिकाविज्ञप्तिमात्रतासिद्धि, Ñi-śu-paḥi ḥgrel-pa, Viṃśatikā-vijñapti-mātratā-siddhi, Twenty Verses on Consciousness Only) có 1 quyển, do bồ tát Thế Thân (世親, Vasubandhu, Dbyig-gñen, 315-395) soạn, ngài Huyền trang (玄奘) dịch vào đời Đường; cũng gọi là Nhị thập duy thức luận (二十唯識論), Tồi phá tà sơn luận (摧破邪山論), được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.  Luận này dẫn dụng câu “Tam giới duy tâm” (ba cõi chỉ do tâm) trong kinh Thập địa để luận chứng ngoại cảnh do thức hiển hiện, nói rõ nghĩa “Duy thức vô cảnh” (chỉ do thức không có cảnh) để bác bỏ sự thiên chấp của Tiểu thừangoại đạo. Duy thức nhị thập luận chủ yếu khai thị về pháp vô ngã, không phải về nhân vô ngã.  Đây là một trong 11 bộ luận của tông Pháp tướng, một trong 10 chi luận của Du già. Luận này được trích dẫn trong Thành duy thức luận như là một luận điểm trọng yếu.

Nội dung sách này gồm có 21 bài tụng thể năm chữ, dựa vào đó mà giải thích ý nghĩa rõ ràng. Trước hết, nói về yếu chỉTam giới duy thức”, kế đó, giải thích bốn vấn nạn do Tiểu thừangoại đạo đặt ra để thành lập lý “Vạn pháp duy thức”. Bài tụng cuối cùng nói về tông nghĩa.  Dựa theo con số kệ tụng mà lấy tên là Nhị thập luận.

Ngoài bản dịch của ngài Huyền trang, luận này còn có hai bản dịch khác nữa, đó là:

1. Đại thừa lăng già kinh duy thức luận (大乘楞伽經唯識論, No. 1588), 1 quyển (cũng gọi Phá sắc tâm luận 稱破色心論), do ngài Bồ đề lưu chi (菩提流支), dịch vào thời Bắc Ngụy.

2. Đại thừa duy thức luận (大乘唯識論, No. 1589), 1 quyển, ngài Chân đế (眞諦) dịch vào đời Trần thuộc Nam triều.

Trong ba bản dịch này, bản của ngài Bồ đề lưu chi văn xuôi nhiều, kệ tụng ít, tất cả có 23 bài tụng; bản của ngài Chân đế văn xuôi ít, kệ tụng nhiều, có 24 bài tụng; bản của ngài Huyền trang văn xuôi, văn kệ bằng nhau, có 21 bài tụng.

Tông chỉ của Duy thức nhị thập luận là phá bỏ quan niệm ngoại cảnh thật hữu, để thành lập giáo nghĩa Duy thức. Duy thức chủ trương tất cả các pháp không có thật thể, sở dĩpháp tướng hiển hiện và có tác dụng là do tâm thức của chúng sinh hữu tình chế tác ra. Rời ngoài tâm thức biến hiện thì không có thực tại nào cả. Nói cách khác, cái mà ta biết về một đối tượng dù thuộc về dạng nào đều không phải tự thân đối tượng, mà chỉ là những hiểu biết ta có về đối tượng đó.  Chấp ngoại cảnh thật hữutư tưởng của thực tại luận. Tư tưởng ấy bao hàm trong sáu phái triết học Ấn Độ, đặc biệt là phái Thắng luận, và những bộ phái Tiểu thừa như Thuyết nhất thiết hữu bộ, Kinh lượng bộ, Độc tử bộ, Chánh lượng bộ, Đại chúng bộ v.v…  Nội dung của Duy thức nhị thập luận có thể tóm tắt trong bảy vấn nạn:

  1. Bốn sự bất thành: Phái Thắng luận, Đại chúng bộ, Độc tử bộ, Chánh lượng bộ, Tát bà đa bộ (Thuyết nhất thiết hữu bộ), Kinh lượng bộ, Thuận chánh lý đưa ra bốn sự để biện bácDuy thức không thể thành lập, đó là: Nếu cho rằng tất cả các pháp toànduy thức, không có ngoại cảnh, thì làm sao ngoại cảnh hiện thấy lại có xứ định, thời định, tương tục bất địnhtác dụng bất định? Luận chủ nêu các thí dụ mộng, quỷ, địa ngục, bàng sinh cõi trời để chứng minh bốn nghĩa đều thành. (Tụng 1 – 14)
  2. Thánh giáo tương vi: Ngoại nhân hỏi, nếu nói tất cả đều là duy thức, không có thật cảnh ngoài tâm, thì lý do gì Phật nói 12 xứ? Luận chủ vạch rõ rằng Phật nói 10 xứ là có mật ý. Ngoại nhân hỏi, Phật nói 12 xứ đối với người nghe có lợi ích gì? Luận chủ nói, sở dĩ Phật nói 12 xứ là để pháp ngã chấp của chúng sinh, khiến cho người học ngộ nhập nhân vô ngã, tức đạo lý số thủ thú vô ngã. (Tụng 15 – 16ab)
  3. Hiện lượng trái với tông chỉ: Tát bà đa bộ, Kinh lượng bộ, Đại chúng bộ chủ trương rằng ngoại cảnh sắc, v.v… rõ ràng là sở chứng hiện lượng của năm thức, vì sao bác bỏ ngoại cảnh không có? Luận chủ đưa thí dụ chiêm bao để ví cho cảnh giới hiện tiền, giải thích cảnh hiện giác chứng thì không phải là thật, nói rõ sự nhớ nghĩ là cảnh chẳng thật, chưa tỉnh thì không biết mình đang chiêm bao. (Tụng 16cd)
  4. Hai thức quyết định: Ngoại nhân hỏi, ngoại cảnh nếu là trống rỗng không thật, thì vì sao Thánh giáo chỉ dạy người rời xa bạn xấu, ác pháp, và thân cận bạn lành, thiện pháp? Luận chủ chỉ ra cái lực tăng thượng xoay vần là do hai loại chủng tử thiện ác khi thành thục thì sinh ra tâm thức quyết định. (Tụng 17ab)
  5. Mộng tác bất thọ: Ngoại nhân hỏi, cảnh hiện tiền nếu giống như cảnh mộng, thì vì sao tỉnh thức tạo nghiệp thiện ác, có quả báo khổ vui, và nếu trong mộng mà tạo nghiệp thiện ác, vì sao không có quả báo? Luận chủ đáp, tâm năng tạo trong mộng đã bị thụy miên làm tổn hoại, không thể tự chủ, cho nên khi mộng và khi tỉnh mà tạo nghiệp thì có quả báo không giống nhau. (Tụng 17cd)
  6. Sát sinh không tội: Ngoại nhân hỏi, nếu duy hữu thức mà không có thân, ngữ nghiệp thì những con vật như dê, v.v… làm sao bị giết? Nếu súc sinh chết không do người giết, thì những người giết mỗ hoàn toàn không có tội sát sinh. Luận chủ cho rằng tội sát sinh hoàn toàn do tâm thức hai bên kết hợp mà thành, không thậtthân mệnh bị giết, xem chừng như do ngoại cảnh hình thành, nhưng kỳ thật bao hàm trong duy thức. (Tụng 18-19)
  7. Tha tâm trí: Ngoại nhân hỏi, nếu chỉ có thức, các tha tâm trí có thể biết tha tâm không?  Nếu không thể biết thì sao gọi là tha tâm trí? Nếu có thể biết tha tâm thì nghĩa “Duy thức vô cảnh” không thể thành lập. Luận chủ cho rằng, cái biết về tha tâm bởi tha tâm trí chỉ là hư vọng không thật. (Tụng 20)

Hai mươi bài kệ tụng cũng được chia thành 12 khoa:

  1. Tụng 1: Vấn nạn sinh khởi.
  2. Tụng 2 và 3: Nói thí dụ xuất mộng để chứng minh “bốn nghĩa được thành”, tức thành lập nghĩa Duy thức.
  3. Tụng 4, 5 và 6: Phủ định tính thật hữu của ngục tốt để thành lập nghĩa Duy thức.
  4. Tụng 7 và 8: Giải thích sự dẫn dụ Thánh giáo bất thành để thành lập nghĩa Duy thức.
  5. Tụng 9: Lược bày nghĩa hai vô ngã.
  6. Tụng 10, 11, 12, 13 và 14: Khái niệm một và nhiều để phá ngoại cảnh thật hữu, để thành lập nghĩa Duy thức.
  7. Tụng 15 và nửa đầu tụng 16: Phá vọng chấp hiện lượng để thành lập nghĩa Duy thức.
  8. Nửa sau tụng 16: Chỉ ra sự ở trong mộng không biết, để thành lập nghĩa Duy thức.
  9. Nửa đầu tụng 17: Nói rõ hai thức chuyển quyết định, để thành lập nghĩa Duy thức.
  10. Nửa sau tụng 17: Hiển thị khi ngủ thì tâm hoại, để thành lập nghĩa duy thức.
  11. Tụng 18 và 19: Dẫn ý phạt là nặng để thành lập nghĩa Duy thức.
  12. Tụng 20: Giải thích tha tâm trí không như thật để thành lập nghĩa Duy thức.

Luận này có rất nhiều sách chú thích.

Ấn độ, bắt đầu là luận sư Cù-ba (瞿波) - đệ tử của bồ tát Thế thân - có hơn 10 nhà chú thích, trong đó, Thành duy thức bảo sinh luận (成唯識寶生論), 5 quyển, của ngài Hộ pháp (護法) là quan trọng hơn cả. (No. 1591, Đời Đường – pháp sư Nghĩa Tịnh 義淨 dịch ra chữ Hán)

Tại Trung quốc thì có: Nhị thập duy thức luận thuật ký (唯識二十識論述記, No. 1834), 2 quyển, do ngài Khuy cơ (窺基) soạn vào đời Đường; Duy thức nhị thập luận sớ (唯識二十論疏), 2 quyển, do ngài Viên Trắc (圓測) người Tân La soạn. Nhị thập duy thức luận thuật ký là sách chú thích Duy thức nhị thập luận của ngài Thế thân (bản dịch của ngài Huyền trang). Nội dung sách này, trước hết nói về lý do soạn luận, kế đến chia làm ba môn để giải thích rõ nghĩa “an lập Đại thừa tam giới duy thức” và giải thích “phi nhất thiết chủng”, bác bỏ quan niệm “hữu tính”, v.v… Duy thức nhị thập luậnThành duy thức luận là những bộ sách căn bản của Pháp tướng tông, bởi thế, Duy thức nhị thập luận thuật ký và Thành duy thức luận thuật ký trở thành sách nhập môn cơ bản của Duy thức học.

Việt Nam có cuốn Triết Học Thế Thân của Giáo sư Lê Mạnh Thát, được Đạo Sinh chuyển dịch từ nguyên tác Anh ngữ: The Philosophy of Vasubandhu (Luận án tiến sĩ, University of Wisconsin - Madison, 1974). Sự tri nhận và đối tượng tri nhận, sự tự tri và cơ cấu tự tri trong Duy thức nhị thập luận được Lê Mạnh Thát khảo sát rất khúc chiết và sâu sắc ở chương 5 và chương 6.

Về Phạn bản của Duy thức nhị thập luận, có 2 bản:

  1. S. Lévi, Vijñāpti-mātratā-siddhi, Deux traités de Vasubandhu, Viṃśatikā (La Vingtaine) accompagnée d’une Explication en Prose et Triṃśika (La Trentaine) avec la commentaire de Sthiramati. (Paris 1925).
  2. K.S Chatterjee, Vasubandhu’s Vijñaptimātratā-siddhi with  Sthiramati’s  Commentary,  Text  with  English  Translation Varanasi: Kishor Vidya Niketan, 1980.

Tạng bản thì có Duy thức nhị thập luận thích sớ (唯識二十論釋疏), do học giả Ấn Độ Vinītadeva (調伏天 Điều Phục Thiên/律天 Luật Thiên, Dul ba’i lha) chú giải. Phạn bản của thích sớ này đã thất lạc, chỉ còn Tạng bản với tựa đề Rab-tu-byes-pa ñi-śu-paḥi ḥgrel-bśad (No. 4065, Prakaraṇaviṁśakaṭīkā). Tạng bản của Duy thức nhị thập tụng (Ñi-su-paḥi tshig-leḥur-byas-pa) và Duy thức nhị thập luận (Ñi-śu-paḥi ḥgrel-pa) của Thế Thân mang số hiệu No. 4056 và No. 4057.

Duy thức nhị thập luận là văn bản triết học dễ đọc, phân giải rõ ràng nhất của Thế Thân, và nó có sự thu hút và mức độ quan tâm đặc biệt bởi các học giả hiện đại, qua các văn bản bằng Phạn ngữ, Tạng ngữ, Hoa ngữ và Anh ngữ. Vì vậy, có rất nhiều bài nghiên cứu, sách khảo sát của các học giả phương Tây về Thế Thân qua hai tác phẩm nổi tiếngDuy thức nhị thập tụngDuy thức tam thập tụng

Duy thức nhị thập luận là một môn học của Phân khoa Tôn giáo học của các trường Đại học lớn trên thế giới như The University of Chicago Divinity School, The University of Melbourne, University of Calgary (Canada), Stanford University, Oxford University, National Taiwan University, v.v… Học viện Phật giáo Việt Nam cho tới nay vẫn chưa đưa Duy thức nhị thập luận vào chương trình giảng dạy như là một môn học nghiên cứu triết học và văn bản của Thế Thân.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12200)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15317)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12218)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11483)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14272)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 24608)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10692)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12501)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10382)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12347)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11646)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 12052)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13010)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11445)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 17447)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21398)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10679)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19240)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12408)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26047)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14382)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 13730)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16847)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17586)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13131)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12534)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11610)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11618)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 20487)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18996)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19569)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18654)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 15030)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15037)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13995)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15524)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 14557)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 15853)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12885)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18423)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15781)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11083)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53666)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13000)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16533)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15411)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19948)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15563)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15360)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15153)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 10394)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20356)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 15499)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13044)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20156)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13296)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29032)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11716)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18310)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant