Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thế Gian Của Giả Tướng

05 Tháng Tư 202119:28(Xem: 2226)
Thế Gian Của Giả Tướng
THẾ GIAN CỦA GIẢ TƯỚNG
Tác giả cư sĩ LÝ NHẤT QUANG
Việt dịch THÍCH THẮNG HOAN


I.- GIẢ TƯỚNG:

“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta. Còn “Giả Tướng” là cái gì? Chúng ta không phải thường ngày đã thấy đến như: hình tướng vuông, tròn, dài, ngắn; sắc tướng đỏ, xanh, đen, trắng; biểu tướng nhanh, chậm, cười, khóc; cho đến vô biểu tướngkhổ, vui, mừng, lo màkể cả con mắt xem không thể thấy.Đây không phải là  “Tướng” trạng tồn tại nổi bậtđó sao?. Tại sao bảo đây là “Giả Tướng”?Đáp rằng: Nên hỏi “Giả Tướng” là gì?Giả là giả tạo không thật. Cũng chính là nói sự vật trước xem làthế này, sau xem là thế kia, chỗ thấy trước một giây đồng hồ và sau một giây đồng hồ thì không giống nhau; trong mỗi sát na nơi chỗ “Không thời liên tục khu biệt” (nghĩa là nơi không gian, thời gian, liên lục khu biệt)biến hoá lưu chuyển mãi không ngừng. Chúng ta sở dĩ thấy được các tướng dài, ngắn, vuông, tròn..v..v....  đều do khảo sát ngay trong lúc không gianthời gian chưa phát khởi.Giả sử các tướng nói trên đúng là thật tướng thì vĩnh viễn không bị chuyển biến.Khẳng định rằng các hình tướng nhìn thấy được trong thế gian thảy đều thuộc về giả tướng cả, mà chúng ta lại lầm nhận cho là thật tướng.Vì thế chúng ta mới bị rơi vào trong thế gian của giả tướng. Để tránh khỏi sa ngã vào trong thế gian của “Giả Tướng”, chúng ta trước hết phải hiểu rõ giả tướng do đâu phát khởi? “Giả Tướng” chính là do vọng tâm phát khởi. Cũng giống như mắt bệnh mới thấy đóm hoa (không hoa)hiện trong hư không, mắt nếu như không bệnh thìđóm hoa cũng không hiện.Vọng tâm nếu như bị diệt thì thế gian của giả tướng cũng không cơ hội xuất hiện! Nhưng thấy được vọng là việc vi tế khó biết; vì thếchúng ta muốn quán sát giả tướng của các pháp thìcần phải bắt đầu từ ngoại tướng dễ biết. Nếuhiểu rõ các tướng không phải tướng thìđương nhiên bản thể tức là không, khi diệt được cái thấy thì vọng tâm tự nhiên dứt!Cho nên vấn đề căn bản để thảo luận cũng là bắt đầu từ trong “Giả Tướng” dễ thấy liền đi phá “Tướng” để diệt vọng tâm.

II.- PHÂN VỊ GIẢ:

Sao gọi là “Phân Vị Giả”?“Phân” làý nghĩa tách riêng, phân chia, thời gian.“Vị” làđịa vị, vị trí. Cũng chính là nói: một thứ đồ vật do quan hệ nơi thời giankhông gian nên không đồng nhau vàđược sanh ra bởi hình tướng sai biệt. Không khác nào Đồ Hình (1) biểu thị:

Đồ Hình (1) biểu thị:

The Gian Cua Gia Tuong 2

 

Ba chiếc phi cơ trong Đồ Hình (1) biểu thị:chúng bay trước và sau không đồng nhau trên không gian, chúng quan hệ khởi hành bay sớm và muộn trên thời gian, lại hiển hiện ra hình thái lớn và nhỏ của chúng; đây là do “Phân Vị Giả” sanh ra.Chúng cũng dễ dàng giúp chúng ta biết rõ chúng thuộc về phân vị giả trên “hình sắc”.Có một số khó biết được, như “Nhan sắc” thường thấy cũng đều từ Phân Vị Giả sanh ra.Nếu nói đến sự phát khởi nhan sắc thì phải cần bàn đến sự phát khởi từ quang tuyến.Quang tuyến làloại vật kích thích cảm giác của con mắt, quang tuyến nếu như không có thì hoàn toàn không có cảm giác của con mắt.Chúng ta sở dĩ xem thấy được tất cả đều nhờ có nhan sắc.Đồ vật hoàn toàn trong suốt, như không khílàmột trong những đồ vật xem không thấy. Nhân đây trên thực tế con mắt chỉ có khả năng cảm giác được một thứ cảm giác sắc.Từđó một khi nêu ra hình sắc thì cần phải quan hệ với quang tuyến.Là cái gì khi một cây gậy thọc vào trong nước liền hình thành hiện tượng cong quẹo? Là cái gì khi quang tuyến thấu qua ba lăng kính liền phát khởi hiện tượng hình sắc phân tán làm thành màu hồng, màu cam, màu vàng, màu lục, màu xanh, màu lam, màu tím? Những hiện tượng đây nơi trong Vật Lý Học phúc đáp cho làánh sáng tác dụng khúc xạ, màở nơi Phật Pháp thuyết minh cho là “Phân Vị Giả”.Tại sao thế? Cần nói rõ lý do này,  trước hết từ một khoản đường thẳng rất đơn giản đã nói lên như trong Đồ Hình (2) biểu thị:

Đồ Hình (2) biểu thị:

The Gian Cua Gia Tuong 3

Một khoản đường thẳng trong Đồ Hình (2) biểu thị nếu cho di chuyển vị trí thì thành lượnsóng đường cong; hình lượnsóng đường cong đây là “Phân vị giả” của đường thẳng. Căn cứ trên thật tế mà nói: thí dụ như nước cùng lượn sóng, bản thể của lượn sóng là nước, lượn sóng là do vị trí di động của nước mà phát khởi (cũng chính là vị trí vận động dời đổi của Vật Lý Học trình bày, cho đến điều động hình tướng của Vô Tuyến Điện trình bày, cả hai đều thuộc về(Phân Vị Giả). Một thứ hình tướng sản sanh được xưng là lượn sóng. Lìa khỏi nước thì lượn sóng không thể có mặt, cho nên bảo rằng lượn sóng là giả tướng do nước làm thể để xuất hiện. Hình thái của lượn sóng thì có ngàn sai vạn khác như Đồ Hình (3) biểu thị:

Đồ Hình (3) biểu thị:

The Gian Cua Gia Tuong 4

Nước mà làm thể thì tướng Không Tịch hoàn toàn bình đẳng.Từý nghĩa đó chúng ta nương theo“Phân Vị Giả”màquán sát đạo lýthẳng nơi thể của sự vật để tìm ra lý “Không”.Sau  khi chúng ta hiểu rõ “Phân Vị Giả” đơn giản này liền có thể trở lại phân tích “Phân Vị Giả” của ánh sáng.  “Phân Vị Giả” của ánh sáng là cái gì? Nguyên do năng lực cảm giác của mắt thịt con người rất có giới hạn, chỉ có thể xem thấy ba lăng kính phân tích bảng ghi màu sắc ánh sáng mặt trời bắn ra.Đây cũng chính là nói mắt thịt chỉ có thể cảm thọ hạn hẹp một đoạn bảng ghi ánh sáng từ màu hồng đến màu tím mà thôi. Bảng ghi ánh sáng đích thực là đồ biểu phân loại dài ngắn của làn sóng ánh sáng dài. Làn sóng ánh sáng dài chúng ta đã thừa nhận là “Phân Vị Giả” của một đường thẳng; chỗ gọi “Bảng ghi ánh sáng” cũng chính là tướng sai biệt trên “Phân Vị  Giả” của ánh sáng. Thí dụ nhưmột khối sắt đem nungkhi từng bước nóng lên, nó mở đầu phát ra ánh sáng màu hồng, không lâu nó chuyển thành màu hồng nhạt, tiếp tục biến thành màu cam, màu vàng, màu xanh trắng. Sau cùng khi nó biến thành nóng gay gắt liền phát ra ánh sáng trắng mãnh liệt. Những thứ màu sắc kể trên đều là sai biệt của “Phân Vị Giả” ánh sáng và cũng là làn sóng dài thay đổi của ánh sáng. Do nơi làn sóng của bảng ghi ánh sáng mà biến đổibộ mặt nhan sắc của ánh sáng, chúng tathể tham khảo chỗ tường thuật phía dưới:như màu tím là do làn sóng dài của ánh sángchỉ có 4500 Ai (Ai: Angstrom,đơn vịđo lường cực nhỏ, ký hiệu A*)----- vẫn còn một sốkhuyết điểm, cho nên nhan sắc của ánh sáng hiện ra màu tím; giả sử có một ngày làn sóng dài biến đổi thành gần 4500 Ai mà một đường thẳng lạidài đến 5000 Ai thìánh sáng không còn nguyên hình là màu tím nữa và thích ứng theo là màu lam. Giả sử khi đường thẳng tiếp tục biến dài ra từ 5000 Ai đến 5700 Ai thì lànsóng ánh sáng đã không phải là màu lam mà chính là màu xanh.Giả sửkhi đường thẳng lại biến làn sóng dài thêm nữa từ 5700 đến 5900 Ai thì nhan sắc của ánh sáng chuyển thành màu vàng! Một số làn sóng ánh sáng dài đương là màu vàng lại dài thêm nữa, dài đến từ 5900 đến 6100 Ai thìchúng nó mặc áo ngoài màu cam! Nếu như tiếp tục tăng dài thêmthì chúng nó lại sẽ đổi thành áo quần màu hồng! Làn sóng dài trung gian của chúng nó chỉ một Ai sai biệt gần trăm phân thì liền tạo thành sắc thái hình hình sắc sắc không giống nhau trên thế giới. Ngày nay nhan sắc thời trang trên thân người con gái được thấy đến chính là một số làn sóng dài ánh sáng đây hoán chuyển. Liền có một số “ánh sáng” gắn bó trên thân người con gái mà mắt thịt chúng ta đều không thể thấy được: Thí dụ như làn sóng dài của Hồng Ngoại Tuyến từ 8000 Ai đến 3200000 Ai là một điềuquáđáng tiếc, chỉ có thể do nhiệt lực của lớp da cảm giác xuất hiện nhan sắc, lại không thể kích thích võng mô nhìn của con mắt phát sanh tác dụng cảm quang. Làn sóng dài của tử ngoại tuyến tròng con mắt khoảng cách từ 3000 Ai đến 1000 Ai thì lại quá ngắn, cho nên mắt thịt cũng không thể thấy xa; chỉ có thể cảm quang ở nơi phim ảnh chụp lại. Làn sóng dài so sánh “Ánh sáng” xạ tuyến X của tử ngoại tuyến thì lại ngắn, cho nên cũng có thể chỉ cảm quang ở nơi phim ảnh chụp lại, mà mắt thịt chúng ta cũng không thể thấy được. Ví như Làn sóng dài nàyđã là ngắn mà nếu như dùng thêm mã xạ tuyến và vũ trụ xạ tuyến thìlại dài ra giống như làn sóng nhiệt, làn sóng radar, làn sóng vô tuyến điện..v..v.... đều là “Ánh sáng” mà mắt thịt chúng ta không thể thấy được. Những làn sóng dài này so với ánh sáng thì không giống nhau và chỉcónhững làn sóng dài không giống mà thôi; nguyên nhân không giống nhau của làn sóng dài là do nhân tố thời giankhông gian cải biến tạo thành: chỗ gọi vận động di chuyển vị trí của vật lý cũng chính là chỗ gọi “Phân Vị Giả” của chúng ta, khiến chúng ta có thể thấy vàcũng không thể thấy được sự sai biệt của chúng.Nhờđó chúng ta mới thấy được thật thể chung quanh, đều mang hình dáng không đủ phân lượng. Giả sử có một ngày mắt thịt chúng ta thấy đến thật thể giống như một hình dáng xạ tuyến X, thếthìviệc ấy sẽ biến thế gian trở thành thế gian đầu lâu. Do đây có thể biết: chúng ta trước mắt chỗđạt đến được toàn bộ tri thức quan hệ về vũ trụ, chẳng qua chỉ là nương tựa vào chức năng không hoàn thiện của chúng ta đi cảm giác chỗ hình ảnh tàn tật mơ hồcủa ấn tượng.Những thứ hình ảnh tàn tật mơ hồ của ấn tượng đây cũng chính là chỗ phát sanh sai biệt trên phân vị.Vì thế chúng ta thấy được chỗ thật thể của thế gian đều là giả tướng của “Phân Vị”.Cho nên chúng nóđược gọi là “Thế Gian Của Giả Tướng”.

III.-TƯƠNG TỤC GIẢ:

Tất cả pháp hữu vi (gọi chung gồm có con người, sự việc và vật chất), đều là do các nhân các quả tương tục xuất hiện, không có một vật nào có thể ly khai khỏi sự tương tục của nhân quả. Tỷ như chủng tử là nhân; đất, nước, ánh nắng mặt trời, không khí, nhân công..v..v.... là duyên. Xin xem nhân quả của giống đậu thành hạt tương tục quan hệ như Đồ Hình 4 biểu thị:

Đồ Hình 4 biểu thị:

The Gian Cua Gia Tuong 5

      Theo Đồ Hình 4 biểu thị, nhân quả của giống đậu thành hạt tương tục quan hệ như sau:

  1. Hạt giống thành bộ rễ,Mầm non xuống đất,
  2. Giống ra khỏi võ rơi rụng,
  3. Trước tiên ra lá,
  4. Thân cây đứng một mình,
  5. Kết quả thâu hoạch,
  6. Quả lại là nhân thế hệ sau của chủng tử;

Đây là chỗ nhân quả quan hệ tương tục không dứt. Chẳng qua có một sốsựvật thì dễ thấy sự quan hệ nhân quả tương tục của nó, nhưng cũng có một số sự vật không dễgiúp chúng ta nhận thức rõ ràng chỗ nhân trước quả sau của nó.Vì để dễ hiểu rõ hơn, trước hết xin dùng thí dụ trình bày. Thí dụ nhưđem ánh sáng của lửa quay vòng làm thành hình tròn; hình tròn đây thành hình như thế nào? Thực tếhình tròn của ánh sáng lửa đây khiở trạng thái đứng yên bất động thìchỉ có một điểm tia lửa vàchúng ta thấy được cũng chỉ là một điểm sáng đấy thôi mà không có hình tròn xuất hiện. Khi trực tiếp đem nó vào trong nhà tối quay vòng tròn thìánh sáng hình tròn liền hiện bày liên tục không gián đoạn.Trước tình trạngở trong đây, chúng ta có thể truy cứu vết tích của nó: vòng tròn ánh sáng chỉlà do một điểmánh sáng lửa liên tục hiển hiện thành hình, từ một điểm quá khứ nương tựa nhảy lên thêm một điểm và cứ như thế liên tục không ngừng, khiến tế bào thần kinh thị giác của chúng ta không tiếp nhận kịp.Đem điểm thứ nhất, điểm thứ nhì, điểm thứ ba, cho đến rất nhiều điểm ánh sáng lửađi qua thật nhanh thành vòng tròn và không dễ tách riêng ra được;ảnh tượng vòng tròn ánh sáng của điểm lửa còn rớt lại lưu giữ nơi võng mô liền thành một mảnh vụn; cho nên bắt đầu xem chỉ thấy toàn là một vòng tròn màu sáng liên tục. Trên thực tế, bất quá chỉ là một điểm ánh sáng lửa nơi chỗ vòng tròn đang quay liên tục không dứt mà thôi.Sự tướng của thế tục cái nào không phải như thế?Tất cả đều là giả tướng vận động tương tục xuất hiện thấy được. Thí dụ như tương tục giả của điện ảnh rất dễ rõ ràng: các nhà kiến thức đều biết điện ảnh là màn ảnh do mỗi một động tác liên tục của điện hợp thành.Đem những thứ màn ảnh nơi chỗ chiếu ra liên tục rất nhanhnàykhiến ấn tượng mặt tiềnẩn nấpđi không cho xuất hiện nữa thìmột màn ảnh khác lại tiếp tục xuất hiện!Màn ảnh khác xuất hiện nhanh đến nỗi khiến mắt chúng ta không thểtheođuổi kịp. Kết quả, ấn tượng chỗcóđược không phải là hình ảnh từmànảnh này đến màn ảnh kia, mà chính là nhân vật trong đóxuất hiện hoạt động liên tục.Những nhân vật hoạt động đây chính là giả tướng tương tục tạo thành. Chúng ta sau khi hiểu được những thí dụ thực tế này trở lại bắt đầu quán sát cảnh sắc sơn hàđại địa; trong những thứ cảnh sắc sơn hàđại địa giả tướng tương tục đây loại nào thuộc về tướng chân thật? Đúng ra chúng ta không dễgìquán sát thấy đượctướng chân thật này. Nếu như muốn tiến thêm một lớp nữa để tìm hiểu, nghĩa là chúng ta cần phải bắt đầu từ học thuyết nguyên tử để quán sát.Trước hết hỏi rằng, những vật thể hiện tại mà chúng ta xem thấy tạo thành ra sao?Vật chất trong thế giới đây phổ thông đều cho là do phân tử tạo thành; phân tử lại cũng là do nguyên tử hợp thành.Như nước chẳng hạn chứa ba nguyên tử; khác hơn nướcở trên như vật liệu gỗchẳng hạn loại thịt của nó gồm cótừ một trăm cho đến một ngàn nguyên tử tổ hợptrở lên tạo thành. Có thể nói sơn hàđại địa mà chúng ta thấy được đều là do nguyên tử tổ hợp kết thành. Nhưng những nguyên tử này như thế nào? Mỗi trong nguyên tử có ba loại hạt nhân không giống nhau; ba loại hạt nhân đó gồm có: Điện Tử, Chất tử và Trung Tử. Trung tâm của nguyên tử gọi là “Hạch Tử”; hạch tử này nếu đem làm mặt trời thì hành tinh bao vây xoay quanh nương tựa mặt trời chính làđiện tử.Điện tử nương tựa quỹđạo xoay chuyển vòng quanh hạch tử; nó xoay chuyển rất nhanh chóng, mỗi giây đồng hồ cần chuyển mấy trăm vạn quả lắc (tíc tắc) với mấy trăm vạn lần.Nguyên tử vận động rất phức tạp như thế. Khác nào một khối đá trước kia, bắt đầu xem hình dáng của nódường nhưđiện tửđình chỉ bắn ra, cho đến một điểm nhỏ cũng không thấy nóvận động. Nhưng trong nó hiện diện tốc độ vận động của mỗi điện tửở trong nguyên tử quá nhanh khiến con người khó tưởng tượng được.Nguyên nhân tốc độ của điện tử quá nhanh này, khiến chúng ta không có biện pháp để nhìn thấy sự vận động của nó.Từ lý do đây có thể trở lại đem đạo lý xoay chuyển của điểm lửa mà quay tròn tạo thành hình dáng vòng sáng để so sánh xem thử: tốc độ của điểm lửa thì không nhanh, một giây đồng hồ tối đa không nhiều hơn mười vòng tròn,đã vậydáng mạo của điểm lửa xem qua cũng không thấy được, chỗ thấy được chỉ là hình tròn của vòng lửa mà thôi. Nếu đem so sánh với tốc độ của điểm lửa thì tốc độ của điện tửquá nhanh gấp mấy trăm vạn quả lắc với mấy vạn lần không thể nào biết được.Đương nhiên ở trong khối đá trước kiaxem không thấy sự vận động của điện tử và cũng nhận rõđiện tửkhông thấy xuất hiện vận động xoay chuyển tương tục!Nhân đây chúng ta bình thường đem chỗ thấy sự vật đều cho là “Thật có”. Giả sửđiện tử khắp thế giới một ngày đình chỉ không chuyển động, thế thì tất cả vạn vật đều hoàn toàn không tồn tại! Để xác định một lần nữa, ngày nay tất cả sự vật trên thế giớichúng ta có thể xem thấy đều là giả tướng của điện tử “Tương tục” xoay chuyển thành hình.

IV.- HOÀ HỢP GIẢ:

Cái gì hoà hợp giả? Chính là nói mộtđồ vật này cùng một đồ vật hoặc hai đồ vật khác trở lên quan hệ lẫn nhau, vật này và vật kia hoà hợp, chuyển đổi tạo thành một đồ vật khác, gọi là hoà hợp giả.Các nhà khoa học gọi số phần của nó là “Lực tổ chức của tự nhiên giới”. Như các thứ tổ chức của loài người: rất đơn giản là tổ chức gia đình, nhiều gia đình hoà hợp thành vùng láng giềng thôn xóm, châu quận và quốc gia; mở rộng cho đến các quốc gia liên hợp trên thế giới; tất cảđều là tổ chức hợp tác lẫn nhau.Đồng thời nơi xã hội tổ chức và hoà hợp tương đối thấp..v..v.... gồm có ong mật, ong nghệ, con kiến càng, con mối, cho đến tổ chức tầng lớp cao của giới động vật.“Tổ chức lực hoặc tổ chứcđoàn” tồn tại để nương tựa mà Phật Pháp gọi là “Nghiệp lực”. Thứ nhân lực đây ở nơi gia đình gọi là do ái, nơi xã hội gọi là do an toàn. Trong thế giới, nơi vũ trụ nhỏ bé không phải sanh vật cókhuynh hướng tổ chức màchính là tĩnh điện lực. Cơ bản của lạp tử (điện tử, trung tử..v..v...) đầu tiên tổ chức thành nguyên tử, lại do nguyên tử tổ chức thành phân tử và hệ thống phân tử; tinh thể hoặc giao thể (chất keo) kết cấu thẳng một mạch đến phức tạp.Là cái gì có thể hoà hợp giả? Hơn nữa trước hết hãy xem đồ vật thiển cận: thí dụ như một toà nhà là do xi măng, gạch ngói, cây gỗ..v..v..... lại do nhân công xây dựng thành. Giả sửmột số xi măng, gạch ngói, cây gỗ..v..v.... đây khi chưa được nhân công kiến tạo thì xi măng vẫn là xi măng, gạch vẫn là gạch, ngói vẫn là ngói, cây gỗ vẫn là cây gỗ, tất cả trở về vị trí cũ thì không thể cho đólàcái “nhà”; lẽđương nhiên tất cả phải trải qua nhân công kiến tạo thì mới thành cái “nhà” được. Nhà tuy nhiên là có tồn tại, nhưng khi cần tìm kiếm bản lai diện mục của cái “nhà”,rốt cuộc chúng ta chỉđạt được toàn là xi măng, gạch ngói, cây gỗ mà thôi; nhưng xi măng, gạch ngói, cây gỗ..v..v.... đều không phải vốn có của cái nhà.Đồng thời xi măng, gạch ngói, cây gỗ cũng không phải là những vật ban sơ vốn đã có sẵn, chúng nó cũng donơi vật liệu khác hoà hợp tạo thành.Nguyên vì cái “nhà” đây không có bản lai diện mục và cũng không có nguồn gốc, thế nên cho rằng cái “nhà” là hoà hợp giả tướng. Nếu nghiên cứu thảo luận sâu thêm một lớp nữa: nhìn hướng trên, chúng ta thấy hoà hợp giả của vũ trụ to lớn; nhìn hướng dưới, chúng ta thấy hoà hợp giả của vũ trụ nhỏ bé. Nhân đây chung quanh chúng ta cái gì không phải hoà hợp giả?Nơi vụ trụ to lớn trong vương quốc của hành tinh, đầu tiên chúng ta phát hiện rằng, nguyên Tinh Cầu là do hạt bụi kết hợp tạo thành.Tinh Cầu thường xuất hiện hai hoặc ba, đều do năng lực tự nhiên khống chế hiệu quả, khiến chúng nó thay đổi hai ba lần tổ chứcnơi hợp quần đểhình thành Đoàn Tinh(chùm sao) cùng Vân Tinh (Cụm sao). Lại do Đoàn Tinh vàVân Tinh tập hợp làm đơn vị một quần thể to lớn gọi là “Hệ thống Ngân Hà”.Giả sử năng lực khống chế nguyên thể hiệu quả này một khi không có thì không cóTinh Cầu, không cóĐoàn Tinh và Vân Tinh.Danh xưnghệ thống Ngân Hàđây cũng không thể thành lập, cho nên gọi là Hoà Hợp Giả. Tiếp theođem vũ trụ nhỏ bé ra bàn luận: vũ trụ nhỏ bé cũng là chỗ hoà hợp như thế; trong Hoá Học ở trước cho “Nguyên tử” làđơn thể và cũng không thể phân tách, trước mắt đã chấp nhận chính là một tổ chức hoà hợp cao độ.Xem nó chỗ cơ bản lạp tử lại gồm có hoà hợp điện tử, chất tử và trung tử. Mà những cơ bản lạp tửđây đơn thể là như thế nào?Theo điện tử trình bày, đã phát hiện hơn hai mươi thứđiện tử không giống nhau, cũng có thể suy cứu biết rõ nó có kết cấu không giống nhau. Theo Khoa Học: đối với sự nghiên cứu của vũ trụ nhỏ bé có khả năng làm lộ ra kết cấu của điện tử và chất tử; còn trung tửở nơi quán chiếuđã chấp nhận cho là một thứ hợp thể phức tạp. Nhân đó, chúng ta nhận thức được tất cả sự sự vật vật trên thế giới đều là giả tướng hoà hợp! Cho nên có thể xác định rằng thế gian đây chính là giả tướng hoà hợp.

V.-NÓI TỔNG QUÁT VỀ GIẢ PHÁP:

      Ba thứ giả pháp liên quan nơi trên đều không phải đơn phương chỉ cho một sự vật nào đó gồm có giả tướng nào đó để nói, mà chỉ vì để tiện lợi trên sự giải thích, mới suy xét cân nhắc sử dụng thứ giả pháp nào để dễthuyết minh giả tướng của một sự vật.Trên thực tế, quá trình diễn biến của mỗi một sự vật đều đồng thời gồm cóý nghĩa ba thứ giả pháp này. Thí dụ ba chiếc phi cơ của Đồ Hình (1): từ trên không gian xem thấy có vĩ độ X, kinh độ Y, cao độ Z, giao điểm của ba loại không gian trên không giống nhau. Đây tức là biểu thị giả tướng “Phần Vị”. Hơn nữa căn cứ thời gian mà nói gồm có hiện tại, quá khứvị lai;như khởi hành bay, lên cao,bay tới vàđáp xuống, đó lại là một đường cong liên tục xuyên suốt và cũng là chỗ nước chảy cuồn cuộn không ngừng, chỗ tiến hành mãi mãi không thôi. Nhân đây, chiếc phi cơ khởi hành và bay cao là quá khứ, thuộc tương tục giả của “vật đã chuyển biến”.Chiếc phi cơ bay tới vàđáp xuống là vị lai, thuộc tương tục giả của “vật sẽ chuyển biến”. Chỗ thấy phi cơđang bay là hiện tại, thuộc tương tục giả của “vật sát na”.Nếu trở lại dùng sự cấu tạo của phi cơđể nghiên cứu thì tất nhiên có đầy đủ do hai thứ vật hợp thành cụ thể trên, bao gồm hợp kim của nhôm, không bị gỉ thép, thiết bịđiện tử và nguyên liệu ép dầu..v..v.... đều là hoà hợp giả của “vật hợp biến”. Đối với sự vật của thế gian chúng ta sử dụng ba thứ nhãn quangnói trên chiếu soi Quang Tuyến X vào nó và hiểu rõ nó là giả tướng! Từđó chúng ta có thể xác định nó là thế gian của giả tướng.

VI.- GIẢ NGÃ:

Vấn đề giảở trên đãđược thảo luận qua rất nhiều, nhưng nơi đây tối cần thiết chính làxem giả tướng của cái “Ngã” như thế nào.Cái “Ngã” là giả chỗ nào? Phật Pháp giải thích rằng: “Bốn Đại giả hợp gọi là thân, sáu Trần duyên ảnh gọi là tâm”. Bốn Đại giả hợp của thân tức là đất, nước, gió, lửa; cũng tức là hoà hợp giả của phân tử, nguyên tử, điện tử và tương tục giả của chúng chuyển biến, cho đến phần vị giả nơi kiểu hình chiếu trên quang tuyến X; vì thế gọi là bốn Đại giả hợp.Lại nữa tâm của chúng ta tức là giả tướng ảnh duyên của sáu trần; sáu trần chính làảnh thừa ấn tượng lờ mờ của điện tử lưu chuyển, mang hiện trạng phiền não trên tâm lý cho chúng ta.Một lúc nào đó bốn Đại không điều hoà liền phát khởi sự thống khổ sanh già bệnh chết của nhân sanh. Cho nên nói rằng nhân sanh chính là trụ nơi giả tướng trong thế gian!

VII.- KẾT LUẬN:

      Trở lại hỏi: ông nói điều này là giả, cái gìđó cũng là giả, tất cả đều là giả; nhưng bản thân của ông cái gì hoàn toàn không phải là giả?Đương khiông không ăn không uống, cơn đói đến bao tử của ông khó nhịn; lúc đóông biết rằng “Bữa cơm” đây thật rất cần cho ông phải không?!

      Xin trả lời vấn đề này, cũng từ trong tỷ dụnàydùng nóđể chứng minh: Tỷ dụở trong mộng, con người mộng của ông ở trong năm đói kém, bao tửđói đến nỗi khó chịu. Mọi người đều biết “Mộng” là giả, nhưng sự thống khổđói khát trong mộng đều giống nhau khiến ông khó chịu. Như thế xem ra: “Mộng” tuy là giả, sự thống khổ đều là chân. Nhân đấy,từ trên cảm thọ của sự thống khổđi truy cứu, tất nhiên nhất định lĩnh hội được có một sanh tồn của tánh chân thật; bản tánh chân thật đây chính là thật tướng.

      Lại dùng sự việc thật tế đểnhận thức: xin xem quảTần Bà (Apple) trong Đồ Hình biểu thị:

Đồ Hình 5 biểu thị:

 The Gian Cua Gia Tuong 6

Theo Đồ Hình 5 biểu thị, chúng ta đều biết rõ ràng là quảTần Bà trên tranh ảnh, quảTấn Bà trên tranh ảnh đây đương nhiên là giả; sau đó tôi vàông có thểđãđược xem qua, hoặc được người khác nhắc nhở trở lại rằng: đây là quả Tần Bàăn lại ngọt lại thơm tốt biết bao!Khi nghe nói đến không thể cản ngăn được, nước miếng trong miệng tôi vàông liền trào ra. Tình hình cũng giống như thế: Thời đại Tam Quốc, Tào Tháo liền lợi dụng nhược điểm đây của tâm lý, sử dụng “vọng mai” (nhìn trái mơ) để chận đứng ý nghĩ khát nước của binh sĩ. Cho nên trên lịch sử có ghi sự việc “Vọng mai chỉ khát” (Nhìn mơđỡ khát). “Vọng mai” sự thật không có mai hiện hữu, đây chỉ là giả tưởng hiển hiện, mọi người đều công nhận như thế; nhưng nó có khả năng “giải khát”, đó là sự thật vànócũng là giả tướng, thật tếnócó khả năng hiển hiện tinh thần tâm lý; thế nên cho nó là chân tướng.Nhân đây, chúng ta biết rõ một mặt của “Giả” và tất nhiên cũng biết trong đó có một mặt của “Chân”.Nhân đó chúng ta bỏđi cái giả, tìm đến cái chân, liền có thể lìa khổđược vui. Dụ như bệnh khổ trong mộng là giống nhau ở chỗđều cảm nhận thống khổ khác thường, nhưng một khi phát hiệnđây là “Mộng” là giả, lập tức được “Tỉnh” lại ngay, vừa tỉnh chính là chân. Saukhi tỉnh, tất cả mọi vật trong mộng hoàn toàn tiêu mất.Nhân sanh ban ngày khi chưa ngủthìcũng giống như một trường đại mộng; nếu như chúng ta cố gắnggiờ phúc không ngừng “Phát hiện” chỗ thế gian giả tướng đây và nhận thức được nơi giả tướng đólà chỗ phát khởi thống khổ của sanh già bệnh chết; chúng ta một khi có thểđại giác đại ngộ, sau khi giác ngộ so sánh giống nhau tỉnh mộng, thống khổ sanh già bệnh chết của thế gian giả tướng cũng hoàn toàn không còn tồn tại. Lúc đó tất cả đều khôi phục thanh tịnh của bản nhiên!

CHÚ THÍCH: Ai (Angstrom)-đơn vịđo lường cực nhỏ,

ký hiệu A*= 10-10 thước Tây.

 (Nguyệt San Bồ Đề Thọ, kỳ thứ 244 ngày 8 tháng 3 năm Nguyên Tải Dân Quốc 612)

Dịch xong ngày 28 tháng 11 dl năm 2014.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16322)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11778)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12001)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12693)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12604)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10129)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13821)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10137)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13599)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16167)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11880)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12875)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11558)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12581)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10700)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10894)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10862)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11808)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12659)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 10983)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12522)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11232)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12423)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 13979)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10745)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10409)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11078)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11880)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13049)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12273)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15252)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14216)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12004)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15194)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11888)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12334)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11099)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10513)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12469)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13048)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14694)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12565)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16423)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12177)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13412)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11878)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11527)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12667)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14396)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15550)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12786)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 17888)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11057)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12096)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12948)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10219)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant