Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lược Khảo Áo Hậu Trong Tăng Phục Phật Giáo Bắc Truyền

30 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 13704)
Lược Khảo Áo Hậu Trong Tăng Phục Phật Giáo Bắc Truyền

LƯỢC KHẢO ÁO HẬU
TRONG TĂNG PHỤC PHẬT GIÁO BẮC TRUYỀN

Thích Tâm Mãn

Tăng Già Đạo Phật với “Tam Y Nhất Bát” hoằng hóa muôn phương, từ hơn 2000 năm trước cho đến ngày nay không nơi nào trên thế giới mà không có dấu vết hoằng pháp của Tăng già. Bắc truyền hay Nam truyền Phật Giáo cũng cùng chung một tâm nguyện “Thượng hoằng hạ hóa” tuy nói là Nam Bắc bởi do phương hướng và địa vực, cộng thêm vài điểm không tương đồng và một chút dị biệt do theo hoàn cảnh, địa lý, phong tục tập quán, lễ chế của từng vùng miền địa phương ảnh hưởng tạo thành.

Có những phương pháp Bắc truyền Phật Giáo cần phải có để thuận duyên trong việc truyền giáo thì đối với Nam truyền Phật Giáo không có pháp đó cũng có thể hoằng pháp được, vì vậy cho nên không thấy pháp ấy trong Phật Giáo Nam Truyền và ngược lại cũng vậy. Nên sự khác biệt này có tính cách chủ quan trong quan niệm “Tùy Duyên” của Đạo phật và chỉ làm đẹp thêm cho Phật Giáo chứ không có một mảy may nào làm ảnh hưởng đến Đạo Lý của Phật Gia.

Nói đến Bắc Truyền Phật Giáo là đàn hậu tấn chúng ta không thể không phủ phục năm vóc sát đất đảnh lễ Đấng Điều Ngự Thế Tôn và chư liệt vị Tây Thiên, Đông Độ, Việt Nam truyền giáo, truyền giới, khai tông lập giáo, khai sơn tạo tự lịch đại Tổ Sư. Trong Kinh [Diệu Pháp Liên Hoa] dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên, khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến.”

Chúng ta là người sinh ra trong đời mạt pháp, Tổ Thật Hiền trong [Phát Bồ Đề Tâm Văn] nói: “tội gì mà sanh vào thời mạt pháp, phước gì mà được dự vào hàng xuất gia, chướng duyên gì mà ra đời không thấy Kim Thân của Đức Phật, hạnh lành gì mà ngày nay được lễ Xá Lợi Phật.” những gì chúng ta có được như hôm nay, phải chăng đều do công lao của chư liệt vị Tổ Sư Tiền Bối.

Đối với sự nghiệp hoằng pháp của Phật Giáo Bắc truyền mà nói, khi các vị truyền giáo Cao Tăng đem Phật Giáo đến với Đông Phươngđại diệnTrung Quốc hết sức khó khăn, nói về phương diện văn hóa thì Ấn ĐộTrung Quốc đều là hai cái nôi văn hóa của thế giới, văn minh, văn hóa, triết học, nghệ thuật, đều có thể nói là tương đương nhau. Về phương diện Tôn Giáo khi Đạo Phật chưa truyền vào Trung Quốc thì Đạo Giáotôn giáo của người Trung Quốc đã có cả gần 1000 năm lưu truyền, cộng thêm học thuyết của Nho Gia và cả trăm học thuyết khác.

Để chinh phục cũng như hòa mình vào tôn giáo tín ngưỡng của dân bản địathuyết phục tất cả những học thuyết truyền thống của người Trung Quốc, đưa Phật Giáo hòa nhập đến được với người bản địa và từng bước nâng vị thế của Phật Giáo lên địa vị ngang bằng nhiều khi còn cao hơn các Tôn Giáo, tín ngưỡng và các học thuyết của Trung Quốc. Chư Liệt Tổ không thể không tính đến những điều kiện sẵn có để hòa mình vào sự chi phối của chính quyền, Tôn Giáo sở tại, dùng những tập tục, tín ngưỡng của địa phương lồng vào Phật Giáo để truyền đạo. Vay mượn các học thuyết đương thời để diễn nói giáo nghĩa của Phật Đà. Chính vì vậyPhật Giáo Bắc Truyền có phần phong phú về nội dung và hình thức hơn Phật Giáo Nam Truyền.

Nói đến Tăng phục Phật Giáo trước tiên chúng ta nên tìm hiểu về những lý do căn bản, ý nghĩa thậm thâm của Tăng phục. Trong Kinh [Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa] chép: “Vì cũng như thế gian, cho nên có ba y. Vì sao vậy? tâm vui biết đủ, cho nên không đa cầu, tức là ít muốn. Không cầu xin, cho nên không chứa đựng; không chứa đựng, cho nên không bị thất mất; không thất mất, cho nên không phải bị sầu khổ; không gì sầu khổ, thế nên xa lìa phiền não; lìa phiền não, cho nên không còn chấp trước; không còn chổ chấp trước, cho nên đã lậu tận.”. Trong [Hành Sự Sao] chép mười điều lợi ích của ba y:

1/ Ngoài ba y ra không tham cầu cho nên không thọ khổ.

2/ Không bị khổ đau ràng buột.

3/ Không chứa nhiều đồ.

4/ Chỉ đủ dùng cho chính mình.

5/ Hành trì giới cẩn thận.

6/ Đến đi không vướng mắc.

7/ Thân thể nhẹ nhàng.

8/ Tùy xứ tùy nơi đều có thể an trụ.

9/ Đến hay đi chổ nào cũng không có gì lưu luyến.

10/ Tùy thuận để hành đạo.

Những ý nghĩa lợi ích của Tăng phục Phật Giáo, là nói về phương tiện ích lợi trong việc tu hành của Tăng Già, chứ Phật không có ý dạy tu hành phải khổ hạnh như một số người học Phật thường nghĩ.

Đức Phật trước khi thành đạo dã từng có sáu năm tu khổ hạnh, và Ngài chưa từng cho rằng khổ hạnh là pháp tu duy nhất để có thể thành đạo. Đức Thế Tôn thành Đạo Bồ Đề sau khi Ngài quyết định không tu khổ hạnh nữa. Đời sống của Tăng lữ chỉ cần đơn sơ đạm bạc là đủ, trọng tâm vấn đề là làm thế nào để đoạn trừ với dục vọngphiền não của thế gian, thân tâm luôn hướng về vô thượng giải thoát Bồ Đề.

Một hành giả học Phật, nếu như quá độ đè nén những nhu cầu thiết yếu về cuộc sống, làm cho thân tâm sinh ra những trạng thái không ổn định về tinh thần cũng như thể chất, cho nên khả năng đạt đến trạng thái an lạc giải thoát là điều không thể được, mà còn làm trái đi mục đích của sự tu hành. Trong Kinh [Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm] quyển 14 chép:

 “Bỏ đi đồ thế tục, nguyện cho chúng sanh, cần tu thiện căn, bỏ các tội ách. Cạo bỏ râu tóc, nguyện cho chúng sanh, vĩnh ly phiền não, cứu cánh tịch diệt. Mặc áo Cà Sa, nguyện cho chúng sanh, tâm không chổ nhiễm, đều đắc Phật đạo.” Tất cả đoạn kinh trên nói về người đi xuất gia, như mục đích của việc đi xuất gia, mặc Tăng phục, cạo bỏ râu tóc cho đến đắp y đều có ý nghĩa hết sức rõ ràng, cho nên có cần tu khổ hạnh hay không đối với giải thoát giác ngộ đều không quá quan trọng.

Trong Kinh [Trung A Hàm] Phật dạy: “Ta nói không được cất chứa tất cả y, rồi cũng nói được cất chứa tất cả y, thế nào là y mà ta nói không được cất giữ ? nếu giữ y mà tăng trưởng ác pháp hoặc bất thiện pháp, hay làm suy thoái thiện pháp, nếu là y như vậy thì Ta nói không được cất giữ.

Y như thế nào mà ta nói được cất giữ? nếu như giữ y làm tăng trưởng thiện pháp, làm suy thoái ác bất thiện pháp, nếu là y như vậy, Ta nói được phép giữ.”. như vậy là rõ ràng Đức Phật cũng chỉ chú trọng vào việc làm thế nào để thoát khỏi phiền não đạt đến thiện pháp, còn là y gì chỉ là phương tiện thôi, cho nên “Độ thân cho nên có y, cất giữ biết đủ là vậy”. 

Phật Giáo khi truyền đến Đông Phương, như đã lược nói từ những hoàn cảnh địa vực, khí hậu, tập tục, lễ giáo, truyền thống văn hóa cho đến tín ngưỡng đều không đồng, cho nên nảy sinh một số vấn đề hiện thựcPhật Giáo nếu muốn truyền Đạo tại Đông Phương cần phải thực hiện, chính vì thế mà một loạt giải pháp được các vị truyền giáo cao Tăng Ấn Độ cũng như Đông Độ đứng trên tinh thần “Tùy Duyên Bất Biến” của Đạo Phật, hoặc chế ra phép mới, hoặc vay mượn những gì đã có, hoặc dung hợp các pháp của Đạo Giáo hoặc Nho Gia để diễn bày Diệu Pháp, hoặc dùng luôn những gì của thế gian đã có chuyển hóa thành “Phật Gia Phong Phạm”. Áo Hậu của Phật Giáo được hình thành trên phương thức này.

blank

Việt Nam gọi áo tràng tay rộng của chư Tăng là Áo Hậu, vì có nghĩa là áo mặc ở trong rồi mới đắp Y bên ngoài. Thật ra áo Hậu của Tăng già Bắc Truyền có nguồn gốc từ “Tăng Kỳ Chi” của Tăng Y. Trong [Thích Thị Yếu Lãm] chép: “các vị Tăng xưa theo Luật chế, chỉ có Tăng Kỳ Chi (đây gọi áo che tay, còn gọi áo che nách), áo này dài che từ vai bên trái cho đến nách bên phải, nên thường gọi là áo trong của tam y vậy, đây là nghĩa của Thiên Trúc vậy. Trong [Ngụy Lục] ngài Trúc Đạo Tổ nói rằng: “Người trong Cung Ngụy thấy Tăng để trần một cánh tay vào cung cho như vậy là không được hay, bèn chế thêm Thiên Đãn” may phía trên của Tăng Kỳ Chi, từ đây có áo Thiên Sam trong Tăng phục. Nay áo có cổ cao che đến gáy là được chế từ thời Ngụy vậy.”

Ngài Đạo Tuyên Luật Sư trong [Chương Phục Nghi] nói: “Đức Đại Thánh gốc chỉ chế có ba y, ở p Tây Vực cũng có y này, ngoài ra không còn y nào khác, cho nên gọi là ba y vậy. Sau có áo Phú KiênTăng Kỳ Chi vậy…

Nay Tăng phục có áo dài từ trên vai xuống gót là sự kết hợp của các y này vậy.” Trong [Trụ Pháp Đồ Tán] chép: “Hình thức của Tăng phục ngày nay có tay rộng, là sự kết hợp của áo Phú Kiên và áo Tăng Kỳ Chi thành áo Thiên Sam. Áo Thiên Sam nối với quần thành áo Trực Chuyết.” và sự ra đời của áo Trực Chuyết trong [Truyền Thông Ký Nhữu Sao] chép: “Đời Đường Ngài Huệ Hải Đại Trí Thiền sư ở núi Bách Trượng là Người đầu tiên nối áo và quần thành áo dài gọi là áo Trực Chuyết” Ngày nay áo Trực Chuyết vẫn còn được Chư Tăng Nhật Bản và Hàn Quốc sử dụng. Chư Tăng Trung QuốcViệt Nam mặc áo Hậu có nguồn gốc từ áo Trực Chuyết và áo hậu có bảy vạt là chứng tích còn lại của áo Trực Chuyết về sự kết nối giữa áo và quần.

Áo hậu ngày nay là sự kết hợp giữa áo Trực Chuyết và áo Bào truyền thống của Trung Quốc, nguyên nhân của sự kết hợp giữa Tăng Bào và áo Bào truyền thống Trung Quốc. Theo lễ chế Phong Kiến Trung Quốc trong sách [Biện Phục] chép: “Sĩ Đại Phu không được tiếp khách khi không mặc áo Bào, khi ra đường phải mặc áo bào”, đến nhà Hậu Hán lập quốc quy định áo Bào thành Triều Phục.

Chính nguyên nhân này mà Tăng Y trở thành lễ phục của Tăng Già Bắc Truyền do việc thường ra vào Hoàng Cung để Thuyết Pháp của chư Tăng. Nên việc tu chỉnh áo Trực Chuyết cho đúng phép của lễ phục là điều hết sức tự nhiêncần thiết. Trong [Thích Danh] chép: “Thiền Y không phải áo của người Hồ có tay nhỏ và chật, dài như hình mương nước”.

Do áo hậu có hai tay áo rất rộng nên còn được gọi là áo “Hải Thanh”. Trong [Bỉ Ngôn] chép: “người Ngô gọi áo có tay dài rộng là Hải Thanh.” Và danh từ Hải Thanh có từ đời Đường trong một câu thơ của nhà thơ Lý Bạch “ múa vùn vụt bay tay áo rộng, như chim từ đông hải bay đến.” trong thơ nói đến con chim từ “Hải Đông” bay đến là chim Hải Đông Thanh.

Đời Đường tất cả các lễ phục từ triều đình đến thứ dân đều có tay áo rất rộng, do sự biến thiên của triều đại lịch sử và sự thay đổi quan niệm về phục trang của từng thời đại cho nên áo tay rộng dần dần không còn là lễ phục của người Trung Quốc nữa vì không còn được ai mặc. Duy chỉ còn Tăng Già Bắc Truyền còn mặc cho nên trở thành lễ phục trong Tăng phục Phật Giáo Bắc Truyền và lưu truyền cho đến ngày nay.

Ngài Đạo Tuyên Luật Sư trong [Cảm Thông Truyện] dạy: “Người thế lấy áo mão cân đai làm điều hiển vinh, Đạo nhân chỉ có áo mão chứ không cần cân đai. Người đời lấy việc búi tóc cài trâm là đẹp, người họ Thích thì cạo bỏ râu tóc chẳng cần.”. Qua đó có thể thấy tinh thần “Tùy Duyên” được dùng vô cùng rộng lớn không những trong sự nghiệp hoằng Pháp mà còn được vận dụng ngay trong cả cuộc sống thường nhật của Tăng Già.

Ngay cả trong việc chế y phục, áo Trực Chuyết hay áo hậu sau này đều không có nguồn gốc từ Ấn Độ nhưng là sự kết hợp giữa đạo lý Tăng phục Phật Giáolễ phục của người Trung Quốc, nhưng vì không muốn hoàn toànlễ phục Trung Quốc các Tổ vẫn tìm cách chế những đặc trưng của Phật Giáo vào áo Bào, để áo bào của người Trung Quốc thành Tăng Bào của Phật Giáo, đặc tính này được thể hiện rõ nhất ở cổ áo Hải Thanh, chúng ta thường thấy cổ áo Hải Thanh có đắp thêm ba lớp vải, biểu thị ý nghĩa Phật Pháp Tăng Tam Bảo, cho nên gọi là cổ áo “Tam Bảo Lĩnh” phần cuối cổ áo có may 52 đường chỉ nhỏ tượng trưng cho “Thiện Tài Đồng Tử Ngũ Thập Tam Tham”.

Chỉ là cổ áo của Tăng thôi mà đã bao hàm bao nhiêu là ý nghĩa, thử hỏi làm sao khi người mặc chiếc áo này mà không khác người đời chứ, cho nên “Chiếc áo không làm nên một vị Tăng, nhưng khi nhìn người mặc áo họ có thể nhận biết người ấy là Tăng sĩ của nhà Phật.”. 

Ngày nay cổ áo Hậu của Phật giáo Việt Nam không còn nguyên hình dạng gốc ban đầu, không còn thấy có ba lớp vải tượng trưng cho Tam Bảo và 52 đường chỉ biểu trưng cho Thiện Tài Đồng Tử 52 lần tham học Phật Pháp.

Theo thiển ý có lẽ vì lòng tự tôn Dân Tộc vì không muốn bị sự đồng hóa văn hóa của Trung Quốc thâm nhập quá sâu vào Phật Giáo Việt Nam, cho nên chư Tổ Việt Nam đã lược bớt những chi tiết nhỏ để thể hiện sự khác biệt giữa Tăng phục Phật Giáo Việt Nam và Tăng Phục Phật GiáoTrung Quốc.

Người Việt Nam là một dân tộc luôn luôn đề cao đạo lý “Uống Nước Nhớ Nguồn” nên cổ áo Hậu của Tăng Già Phật Giáo Việt Nam vẫn còn một gạch nối giữa cổ áo là vết tích của “Tam Bảo Lĩnh” để lại, nhắc nhở chúng ta nhớ đến công ơn bao nhiêu đời tôn đức Tổ Sư dày công nghiên cứu mới chế tác được tấm áo này, để ngày nay chúng ta mới có “Giải Thoát Phục”. Việt Nam chúng ta gọi là “Áo Hậu” ý nghĩa gần với Tăng Kỳ Chi hơn là Trung Quốc, vì gọi là “Áo Hải Thanh” là sự đồng nghĩa với việc Hán hóa không còn ý nghĩa ban đầu của Tăng Phục Phật chế là Tăng Kỳ Chi.

blank

blank

Áo Trực Chuyết (Nhật Bản)

blank

Áo Trực Chuyết (Hàn Quốc)

blank

Áo Hải Thanh (Trung Quốc)

blank

Áo Hậu (Việt Nam)

blank

Áo Hậu (Việt Nam)

Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17212)
Lễ nhạc là điều rất quan trọng trong đời sống con người. Vì lẽ, đời thiếu lễ, thì đời sẽ hỗn loạn; đời thiếu nhạc, thì đời sẽ khô khan... Thích Lệ Trang
(Xem: 12951)
Lễ lạy, tham bái, chiêm lễ các thánh tích của các bậc Tiên Thánh là một tập tục truyền thống lâu đời của một trong những nghi thức hành trì trong Phật Giáo, có nguồn gốc từ Ấn Độ.
(Xem: 18640)
Âm điệu thời hô chung của thầy đã chuyên chở một tâm hồn chánh niệm đầy lòng từ bi muốn cho chúng sanh được thoát khổ như lời bài kệ chuông.
(Xem: 13777)
Nghi thức tắm Phật có nguồn gốc ảnh hưởng từ tập tục cổ xưa của Ấn Độ nhưng được Phật Giáo tiếp nhận rồi lồng vào đó những quan niệm đạo đức Phật Giáo...
(Xem: 11590)
Trong hệ thống kiến trúc Tòng Lâm Phật Giáo Bắc Truyền lấy Đại Điện làm trung tâm, Đại Điện còn được xưng là Chánh Điện, hay Đại Hùng Bảo Điện...
(Xem: 44166)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 15778)
Khi một người không tái phạm lỗi lầm lần thứ hai, chúng ta đã sám hối quá khứ. Chúng ta không những phải sám hối tội nghiệp đã biết, càng phải sám hối cho những tội nghiệp không biết...
(Xem: 68099)
Kim ô tợ tiễn, ngọc thố như thoa, tưởng cốt nhục dĩ phân ly, đỗ anh hồn nhi hà tại. HT Thích Bích Liên
(Xem: 28427)
Những Bài Tán Trạo Theo Nghi Thức Phật Giáo Miền Trung
(Xem: 66736)
Các Bài Tán Xấp theo Nghi Lễ Phật Giáo Miền Trung
(Xem: 84001)
Những Bài Tán Rơi Theo Nghi Thức Phật Giáo Miền Trung
(Xem: 18864)
Nghi lễ là cái được sáng tạo sau khi đức Phật nhập diệt, mà một trong những mục tiêuthể hiện sự kính ngưỡng đối với Đức Phậtgiáo pháp của Ngài, thông qua những hình thức cụ thể.
(Xem: 13559)
Thông thường, truyền thọ giới pháp Bồ tát Du già, cần phải thỉnh ba vị Giới Sư làm Hòa thượng truyền giới, tức là: Đắc giới Hòa thượng (Đắc Giới Sư, đại diện cho Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni)...
(Xem: 84935)
Nghi lễvấn đề không cố định, nên tuy soạn thế này, nhưng quý vị cũng tùy thời, tùy xứ mà linh động...
(Xem: 18752)
Thân hình chúng ta như hạt sương trắng buổi sáng. Mạng chúng ta cũng mong manh như hạt sương buổi sáng... Trần Văn Khê
(Xem: 13315)
Các thể điệu hành trì của nghi lễ Phật giáo Việt nam rất phong phú, ở đây chúng ta chỉ lượt qua các thể điệu chính như: xướng, hô, kệ, thán, độc, tán, tụng, trì, niệm.
(Xem: 9746)
Lễ cung nghinh thỉnh rước của Phật Giáo có từ thời Đức Phật còn tại thế, thường thấy nghi chép trong các bộ kinh Đại thừa, khởi nguồn từ việc chư Thiên và các vị vua Ấn Độ...
(Xem: 10433)
Dâng hương cúng Phật, thắp hương cúng Phật, xông hương cúng Phật, là nét văn hoá đặc trưng của Tăng Tín đồ Phật Giáo Bắc Truyền. Người Đông phương khi nhắc đến đi chùa lễ Phật...
(Xem: 17322)
Nay đệ tử ( Họ tên ... pháp danh ...) trì tụng Thần Chú, xưng tán Hồng Danh. Nguyện xin mười phương Thường Trụ TAM BẢO, Tây Phương Cực Lạc Giáo Chủ A DI ĐÀ PHẬT...
(Xem: 226574)
Tuyển Tập Các Bài Phục Nguyện trong hai thời công phu sáng chiều - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 16591)
Phật bảo sáng vô cùng, Đã từng vô lượng kiếp thành công, Đoan nghiêm thiền tọa giữa non sông, Sáng rực đỉnh Linh Phong
(Xem: 29001)
Chẩn tế cô hồn theo cung bậc nghi lễ Huế, do HT Thích Từ Phương làm sám chủ
(Xem: 27620)
Trong các lễ cúng thí Cô hồn, Trai đàn Chẩn tế được tổ chức quy mô nhất. Nó bao hàm cả hai khía cạnh văn chương và triết lý, gần như tất cả tinh hoa của tư tưởngvăn học Phật Giáo Đại thừa Mật Tông được gói trọn vào đây.
(Xem: 13310)
Từ xưa đến nay, Nghi lễ Phật giáo đã hội nhập, luôn gắn liền với nền văn hóa dân tộc Việt Nam một cách hài hòa như nước với sữa. Trải dài .... ! xuyên suốt qua các thời kỳ lịch sử thăng trầm thịnh suy của đất nước.
(Xem: 15289)
Nghi thức này được sử dụng trong các dịp xuống tóc, thiết lập bàn thờ, đàn tràng, cúng nhà mới, cúng đất đai, khai trương cửa hàng, văn phòng, v.v...
(Xem: 9583)
Nghi thức tụng giới cho thiếu nhi gồm có Ba Phép Quay Về Nương Tựa và Hai Lời Hứa, có thể được cử hành trước Nghi Thức Tụng Năm Giới.
(Xem: 75551)
Lễ an vị Phật tại tư gia, bàn thờ Phật phải đặt chính giữa nhà, bàn thờ linh phải đặt hai bên hoặc sau lưng Phật, nếu nhà lầu, thì Phật thờ tầng trên. Trước khi thờ Phật trong nhà phải trang hoàng sạch sẽ...
(Xem: 10569)
Hộ niệmniệm Phật cầu nguyện cho một bệnh nhân khi nhận thấy thuốc chữa trị không còn tác dụng đối với người ấy nữa, khi mà người bệnh sắp qua đời.
(Xem: 9416)
Pháp Hội Thí Vô Giá có nguồn gốc từ Ấn Độ gọi là “Vô Giá Đại Hội” còn gọi là “Ngũ Niên Nhất Hội”, “Ngũ Niên Công Đức Hội”, “Ngũ Tuế Hội”.
(Xem: 10378)
Chiếc y của người xuất gia Phật giáo biểu trưng cho sự thanh bần, giản đơn, và quan trong hơn cả là nó nối kết người mặc với vị thầy bổn sư của mình - Đức Phật...
(Xem: 10059)
Kim cương thừa (vajrayāna) hay Mật tông xuất hiện trong khoảng thế kỷ thứ 4 tại Bắc Ấn Độ, trở nên hưng thịnh từ đầu thế kỷ thứ 6, đến giữa thế kỷ thứ 8 thì hình thành nên một truyền thống lớn mạnh...
(Xem: 10684)
Nghi lễ Phật giáo cũng có hai phần lễ và nhạc, tuỳ theo truyền thống văn hoá nghệ thuật của mỗi miền, mỗi vùng mà phần lễ nhạc Phật giáo sẽ ảnh hưởng và biểu hiện theo truyền thống của vùng...
(Xem: 19214)
Trong nhân gian, ai mà lại không có Mẹ. Từ người làm vua cho đến kẻ cùng đinh hạ tiện tất thảy đều do Mẹ sinh ra và nuôi lớn.
(Xem: 10143)
Lạy hay còn gọi là Lễ Bái, là nghi thức rất phổ thông trong dân gian, mang ý nghĩa bày tỏ lòng biết ơn và niềm tôn kính đến với các đấng thần linh, các bậc tiên hiền có công khai phá giang sơn...
(Xem: 13034)
Kính lạy đức Bồ Tát Quán Thế Âm, chúng con xin học theo hạnh Ngài, biết lắng tai nghe cho cuộc đời bớt khổ. Ngài là trái tim biết nghe và biết hiểu.
(Xem: 60042)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27539)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68636)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 63949)
Cúng dường Thanh tịnh Pháp Thân Tì Lô Gía Na Phật. Viên Mãn Báo Thân Lô Xá Na Phật. Thiên Bá Ức Hóa Thân Thích Ca Mâu Ni Phật.
(Xem: 25460)
Những bài kệ canh dưới đây áp dụng vào mùa An Cư, Kiết Hạ hằng năm của của Chư Tăng, hoặc trong trường hợp khai Đại Giới Đàn của xưa và nay.
(Xem: 14971)
Bản Sưu Tập các Bài Tán nầy được trích trong các cổ bản Tán Sám, Nghi Thức, Hành Trì viết tay bằng hán tự và trong những bản Nghi Lễ bằng quốc ngữ.
(Xem: 14234)
Hương vân nhi bố Thánh đức chiêu chương Bồ đề tâm quảng mạc năng lường Xúc xứ phóng hào quang
(Xem: 14283)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
(Xem: 7798)
Chuông, trống được đưa vào PG từ khi Đức Phật còn sanh tiền với mục đích tập hợp chúng Tăng. Về sau, chuông, trống, mõ được dùng trong các nghi lễ để trang nghiêm đạo tràng...
(Xem: 7108)
Cà sabiểu tượng của hạnh khiêm cung, nhu hòa, nhẫn nhục. Đức khiêm cung, nhu hòa, nhẫn nhục trong Phật giáo liên hệ mật thiết với tinh thần bình đẳng...
(Xem: 6772)
Âm nhạc Phật giáo có bước chuyển biến mới trong những thập niên đầu của thế kỷ hai mươi, khi nền âm nhạc Tây phương thâm nhậptác động vào nền âm nhạc truyền thống...
(Xem: 16243)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 14029)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 8333)
Nghi lễ sẽ tạo thành không khí lễ nghĩa, làm cho con người có tập quán đạo đức hướng về điều tốt điều phải một cách tự nhiên. Ở chỗ có mồ mả thì có cái không khí bi ai...
(Xem: 8970)
Tán tụng là một bộ môn nghệ thuật âm nhạc quan trọng trong hệ thống văn hóa nghệ thuật của Phật Giáo Bắc Truyền.
(Xem: 8025)
Trong ba ngày rằm nầy, người ta còn gọi các danh từ khác nữa như: Thượng nguơn, trung nguơn và hạ nguơn, hay: Thượng nguyên, trung nguyênhạ nguyên.
(Xem: 9019)
Nghi lễ biểu hiện lòng thành kính đối với Tam Bảo: Tín đồ luôn có một niềm tin sâu sắc và thành kính đối với Tam Bảo. Niềm tin đó tạo sự chuyển hóa trong nội tâm...
(Xem: 13881)
Pháp thân tỏa sáng buổi ban mai Tĩnh tọa lòng an miệng mỉm cười Ngày mới nguyện đi trong tỉnh thức Mặt trời trí tuệ rạng muôn nơi.
(Xem: 16717)
Khể thủ nhất thiết xuất thế gian Tam giới tối tôn công đức hải Trí giả năng thiêu phiền não cấu Chánh giác ngã kim quy mạng lễ
(Xem: 11799)
Nam mô nhất tâm phụng thỉnh, lạc bang giáo chủ, y chánh trang nghiêm, tứ thập bát nguyện độ chúng sanh, cữu phẩm liên đài mông thát hóa
(Xem: 17863)
Phật bảo sáng vô cùng Đã từng vô lượng kiếp thành công Đoan nghiêm thiền tọa giữa non sông Sáng rực đỉnh Linh Phong
(Xem: 14837)
Từng nghe, pháp không tự khởi, nhờ cảnh mới sanh, đạo chẳng hư hành, gặp duyên liền ứng. Hôm nay, hoa đàn la liệt, Phật sự xiển dương, hương xông triện báu
(Xem: 74661)
Trong Đạo Phật, lòng từ bi được đưa lên hàng đầu. vì thương tưởng đến loài chúng sanh bị đói khát, đau khổđức Phật và chư Tổ đã dạy phương Pháp bố thí cho loài Ngạ quỷ, súc sanh...
(Xem: 11617)
Thiền sư Quảng Nghiêm (1121 - 1191) người huyện Ðan Phượng, tỉnh Hà Tây. Ông tu ở chùa Thánh Ân thuộc huyện Siêu Loại (nay là Thuận Thành, Bắc Ninh).
(Xem: 25005)
Chuyển ngữ: Sư Ông Làng Mai Xướng kệ: Thầy Pháp Niệm Lắng lòng nghe, lắng lòng nghe Tiếng chuông huyền diệu đưa về nhất tâm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant