Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

6. Phần III: Kinh Điển Nhật Bổn

28 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12412)
6. Phần III: Kinh Điển Nhật Bổn


ĐẠI TẠNG KINH NHẬP MÔN
Giới Thiệu 139 Kinh Điển Phật Giáo
Hán dịch: Thích Ấn Hải, Thích Nguyện Quỷnh
Việt dịch: Thích Viên Lý
Viện Triết Lý Việt Nam và Triêt Học Thế Giới xuất bản 1999

PHẦN III
KINH ĐIỂN NHẬT BỔN

 

106. Thắng Man Kinh Nghĩa Sớ

1 quyển
Do Thái tử Thánh Đức (Shokotu) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2185

 Đây là sách chú giải về cuốn “Thắng Man Kinh” (Srimala-sutra) (số 16), và cuốn được coi là tác phẩm sớm nhất trong số ba cuốn “Tam Kinh Nghĩa Sớ” do Thái Tử Thánh Đức biên soạn.

Cuốn biên niên sử “Nhật Bổn Thư Ký” nói rằng Thái Tử Thánh Đức đã thuyết giảng về Thắng Man Kinh cho Nữ Thiên Hoàng Thôi Cổ (Suiko) nghe. Người ta cho rằng Thái Tử Thánh Đức đã chọn cuốn kinh này là vì nhân vật chính trong Thắng Man Kinh là một phụ nữ – tức là bà Thắng Man (Srimala) – trong khi bà Thôi Cổ là vị thiên hoàng đầu tiên trong lịch sử Nhật Bổn. Về sau, những lời thuyết giảng của Thái Tử Thánh Đức được thu thập lại thành cuốn sách này.

Dù sao chăng nữa, đây là tác phẩm đầu tiên do một người Nhật viết.

 

107. Duy Ma Kinh Nghĩa Sớ

 

5 quyển
Do Thái Tử Thánh Đức soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2186

 Đây là sách chú giải về cuốn “Duy Ma Kinh” (Vimalakirtirdesa-sutra) (số 27), và là một trong ba cuốn “Tam Kinh Nghĩa Sớ” do Thái Tử Thánh Đức biên soạn. Người ta cho rằng một trong những lý do quan trọng để chú giải là vì nhân vật chính Duy Ma (Vilamakirti) không phải là một tỳ kheo xuất gia là một bồ tát tại gia, tương tự như trường hợp của chính Thái Tử.

Trước đây có những nghi vấn về chuyện có phải sách này thực sự do Thái Tử Thánh Đức soạn hay không. Tuy nhiên, ngày nay cũng không có chứng cớ xác thực nào cho thấy sách này do ai khác viết ra chứ không phải do tác giả của hai cuốn khác trong “Tam Kinh Nghĩa Sớ” viết. Vì vậy, điều hợp lý nhất là có thể tin rằng Thái tử Thánh Đứctác giả cả ba cuốn đó.

 

 

108. Pháp Hoa Nghĩa Sớ

 

4 quyển
Do Thái Tử Thánh Đức soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2187

 Đây là sách chú giải về “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh” (số 12), và là một trong ba cuốn “Tam Kinh Nghĩa Sớ” do Thái Tử Thánh Đức biên soạn. Tuy tác giảtham khảo những lời chú giải Hán văn về Pháp Hoa Kinh, nhưng trong sách này rõ ràng là có những ý kiến riêng của chính ông. Vì vậy có thể coi rằng đây là cuốn sách giải thích về tư tưởng Phật giáo đầu tiên do một người Nhật viết.

Đặc biệt là sự đánh giá của tác giả đối với nội dung của Pháp Hoa Kinh như là “Nhất Đại Thừa” đã tạo ảnh hưởng sâu rộng đối với Phật giáo Nhật Bổn sau này. Thật sự trong lịch sử Phật giáo Nhật Bổn, Pháp Hoa Kinh đã được coi là một trong những kinh điển quan trọng nhất.

 

109. Bát Nhã Tâm Kinh Bí Kiện

 

1 quyển
Do Không Hải (Kukai) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2203-A

 Ngày nay cuốn “Bát Nhã Tâm Kinh” (gọi tắt là “Tâm Kinh”) vẫn còn được nhiều tông phái Phật giáo Nhật Bổn sử dụng, và trong những thế kỷ qua nó đã được nhiều người viết chú giải. Nhưng đặc điểm của cuốn này – nhan đề có nghĩa là “bí kíp khai mở Bát Nhã Tâm Kinh” – được viết từ lập trường của phái Chân Ngôn (Shingon) của Phật Giáo, và nó xác định rằng Tâm Kinh đích thực là một kinh điển Mật giáo.

Đầu tiên, Không Hải bàn về đại ý, nhan đề và những bản dịch khác nhau của cuốn kinh này từ lập trường của Mật giáo, kế đó ngài phân chia nó thành 5 phần và giải thích về mỗi phần. Theo như lời ghi chú ở cuối sách thì cuốn sách chú giải này được viết do lệnh của thiên hoàng đương thời khi nước Nhật đang bị bệnh dịch hoành hành.


110. Đại Thừa Pháp Tướng Nghiên
Thần Chương

 

5 quyển
Do Hộ Mạng (Gomyo) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2309

 Năm 830, Thiên Hoàng Thuần Hòa (Junna) ra lệnh cho mỗi tông phái Phật giáo đệ trình cho ông một bản luận thuyết trình bày sơ lược về những điều cốt yếu trong giáo lý của họ. Sáu tác phẩm trình lên cho vị thiên hoàng được gọi chung là “Thiên Trường Lục Bổn Tông Thơ,” và đây là một trong những cuốn sách đó, do tông phái Pháp Tướng trình bày.

Tác giả Hộ Mạnghọc giả Phật giáo nổi tiếng nhất vào đầu Thời Đại Bình An (Heian) ở Nhật và ông viết rất nhiều sách, nhưng tác phẩm còn sót lại của ông chỉ còn cuốn này. Tác phẩm này quan trọng không những vì nó là một trong “Lục Bổn Tông Thơ” mà còn vì giá trị của nó để dùng làm tài liệu nghiên cứu về tư tưởng của phái Duy Thức Nhật Bổn.

 

 

111. Quán Tâm Giác Mộng Sao

 

3 quyển
Do Lương Biến (Ryohen) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2312

 Chữ “Quán Tâm” (quan sát cái tâm) trong nhan đề muốn nói rằng không có hiện tượng ngoại tại nào tồn hữu một cách độc lập đối với tâm trí con người, và “Giác Mộng” (thức dậy từ giấc mộng) ngụ ý dùng trí tuệ quán sát để tỉnh dậy từ giấc mộng của sự tồn hữu mê muội để giác ngộ chân lý.

Nói cách khác, sách này trình bày một sự dung hòa giữa tư tưởng của phái Duy Thức với Phật giáo Đại Thừa, từ lập trường của phái Duy Thức, được viết ra để đối kháng với trường phái “Tân Phật Giáo” trong thời đại Liêm Thương (Kamakura) ở Nhật Bổn. Vì vậy sách này có thể được coi như một kinh điển nhập môn về tư tưởng của phái Duy Thức.

Tác giả Lương Biến là người thông đạt tư tưởng của các phái Hoa Nghiêm Tông, Luật TôngTịnh Độ Tông, cho nên những lý luận trong sách này đôi khi có vể thiếu chính thống đối với phái Duy Thức.

 

112. Luật Tông Cương Yếu

 

2 quyển
Do Ngưng Nhiên (Gyomen) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2348

 Tác giả sách này còn có một cuốn khác nhan đề là “Bát Tông Cương Yếu” (số 136), trong đó nói đại cương về 6 tông phái Phật giáo Nhật Bổn trong thời đại Nại Lương (Nara) và 2 tông phái trong thời đại Bình An (Heina). Trong khi cuốn “Luật Tông Cương Yếu” này chỉ bàn về phái Luật Tông (Risshu), và nói chi tiết về những giáo lýlịch sử của phái này.

Tác giả thuyết minh về địa vị của giới luật trong việc tu hành Phật giáo, và dùng những từ ngữ cụ thểlập trường của một người tu hành để bàn về nhiều hình thức giới luật, từ những giới luật của phái Nguyên Thủy cho tới phái Đại Thừa, và nói về sự lưu truyền của từng điều khoản trong bộ giới luật về tu hành, từ Ấn Độ truyền qua Trung Hoa rồi truyền tới Nhật Bổn, đồng thời nói về những thay đổi từ xưa cho tới thời của tác giả.


113. Thiên Thai Pháp Hoa Tông Nghĩa Tập

 

1 quyển
Do Nghĩa Chân (Gishin) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2366

Vào đầu Thời Đại Bình An (khoảng năm 830), Thiên Hoàng Thuần Hòa (Junna) ban sắc lệnh cho mỗi tông phái Phật giáo đệ trình cho ông một cuốn luận thuyết nói đại cương về những giáo lý chính yếu của họ. Những sách đó đã được gọi chung là “Lục Bổn Tông Thơ,” và cuốn “Thiên Thai Pháp Hoa Tông Nghĩa Tập” này nằm trong số đó. Tác phẩm này – thường được gọi tắt là “Thiên Thai Tông Nghĩa Tập” – nói sơ lược về những giáo nghĩa của tông phái Thiên Thai.

Nội dung sách này giải thích ngắn gọn và rõ ràng về đa số những giáo nghĩa chính yếu của phái Thiên Thai, vì vậy nó rất tiện để độc giả làm quen với những giáo nghĩa của phái này.

 

 

114. Hiển Giới Luận

 

3 quyển
Do Tối Trừng (Saicho) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2376

 Tác giả Tối Trừng cực lực chống đối giới luật tu hành của phái Tiểu Thừa (Hinayàna) và ông chủ trương rằng nên theo giới luật của phái Đại Thừa (Mahàyanà). Để hỗ trợ những ý kiến của mình, ông đã trình lên triều đình Nhật cuốn sách “Sơn Gia Học Sinh Thức” (số 115), gồm ba phần, và nói về những qui luật của giới tăng sĩ thuộc phái Thiên Thai. Nhưng vì bị 6 tông phái Phật giáo thời Nại Lương chống đối mạnh mẽ, cho nên Tối Trừng không nhận được sự ủng hộ của triều đình đối với những pháp qui đó, vì thế ông đã viết cuốn sách này để phản công lại những lý luận của các tông phái thời Nại Lương chống đối bốn điều khoản trong phần thứ ba của cuốn “Sơn Gia Học Sinh Thức.”


115. Sơn Gia Học Sinh Thức

 

1 quyển
Do Tối Trừng (Saicho) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2377

 Sách này bao gồm những qui tắc do Tối Trừng, người sáng lập tông phái Thiên Thai ở Nhật Bổn, đặt ra cho các tăng-học-sinh trẻ tuổi tu tập trong các tự viện của phái này tuân thủ.

Đoạn thứ nhứt gồm 6 đề mụcliệt kê những qui luật dành cho hai tăng-học mà triều đình mỗi năm tiến cử họ đi học với phái Thiên Thai. Đoạn thứ nhì gồm 8 đề mục, trong đó giải thíchchi tiết về những qui luật này; và đoạn thứ ba gồm 4 đề mục, bàn về những giới luật của Tiểu ThừaĐại Thừa. Tất cả ba nhóm qui luật nói trên được gọi chung là “Sơn Gia Học Sinh Thức” (có nghĩa là “những qui luật dành cho các học sinh tại trường trên núi”)

Vào thời của Tối Trừng, các tăng sĩ cần phải qui theo những giới luật của Tiển Thừa thì mới được triều đình chính thức nhìn nhận là tăng sĩ. Tối Trừng phản đối điều này, và ông đề xướng hãy thay thế bằng những giới luật Đại Thừa căn cứ vào “Phạm Võng Kinh” (số 46).

Sách này ghi lại ba thỉnh nguyện thư mà Tối Trừng đệ trình lên triều đình để xin chấp thuận những giới luật Đại Thừa.

 

116. Bí Tàng Bảo Thược

 

3 quyển
Do Không Hải (Kukai) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2426

 Vào đầu thời đại Bình An (khoảng năm 830) Thiên Hoàng Thuần Hòa ra lệnh cho đại biểu của mỗi tông phái Phật giáo hãy dâng lên cho ông một bản luận thuyết trong đó tóm lược những giáo nghĩa của tông phái họ. Trong số 6 bản luận thuyết trình lên thiên hoàng có “Thập Trụ Tâm Luận” (Luận Về 10 Cấp Bậc Của Tâm) (thập trú tâm giáo án) (Đại Chánh Đại Tạng số 2425) do Không Hải viết, phái Chân Ngôn (Shingon). Tuy nhiên, bộ sách này quá đồ sộ so với những bản luận thuyết của các tông phái khác dâng lên thiên hoàng, vì vậy Không Hải được yêu cầu hãy trình lên một bản luận thuyết giản lược hơn. Kết quả đưa tới tác phẩm “Bí Tàng Bảo Thược” này (nhan đề có nghĩa là “chìa khóa quí báu mở vào kho tàng bí mật”).

Phương pháp của Không Hải để làm sáng tỏ lập trường của phái Chân Ngônthiết lập một hệ thống phê bình gồm “10 cấp bậc của tâm,” (thập trú tâm giáo phán) không những bàn về những tông phái Phật giáo khác nhau mà còn bàn cả tới những tôn giáo khác ở Ấn Độ và Trung Hoa; và tác giả xếp hạng phái Chân Ngôn ở cấp bậc cao nhất trong tất cả các tông phái.


117. Biện Hiển Mật Nhị Giáo Luận

 

2 quyển
Do Không Hải soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2427

 Nhan đề có nghĩa là “luận về những khác biệt giữa hai giáo lý hiển giáomật giáo (của đạo Phật)” và thường được gọi tắt là “Nhị Giáo Luận.” Như nhan đề đã ngụ ý, nội dung là sự so sánh những khác biệt về phẩm chất giữa hai phái “Hiển Giáo” và “Mật Giáo.” Không Hải kết luận rằng giáo nghĩa của Mật Giáo cao siêu hơn.

Những điểm bàn luận trong sách này là: Các vị Phật đã biểu hiện hai loại giáo nghĩa nội dung của các giáo nghĩa, thời gian cần thiết để thành Phật, và những lợi ích từ hai giáo lý khác nhau. Qua những lời trích dẫn từ nhiều kinh điển. Không Hải chứng minh rằng Mật Giáo siêu việt hơn Hiển Giáo trong tất cả những điểm nêu trên.

118. Tức Thân Thành Phật Nghĩa

 

1 quyển
Do Không Hải soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2428

 Trước thời của Không Hải, Phật giáo Nhật Bổn cho rằng người ta có thể trở thành Phật sau khi đã trải qua một thời gian rất dài, với nhiều kiếp luân hồi sinh tử; người Nhật gọi điều đó là “tam kiếp thành Phật” (ba kiếp thành Phật). Nhưng trong sách này Không Hải nêu ra ý kiến rằng người ta có thể trở thành Phật ngay trong nhục thân này, nghĩa là “tức thân thành Phật.” Vì vậy, tác phẩm của ông minh xác lập trường của phái Chân Ngôn chủ trương rằng việc tu hành có thể dẫn tới “tức thân thành Phật.”

Khi xét tới sự kiện cuốn luận thuyết “Tức Thân Thành Phật Nghĩa” của Không Hải đã tạo ảnh hưởng quan trọng đối với Phật giáo Nhật Bổn về sau này, người ta có thể nói rằng nó là một tác phẩm hết sức trọng yếu về mặt triết lý.

 

 

119. Thanh Tự Thực Tướng Nghĩa

 

1 quyển
Do Không Hải (Kukai) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2429

 Trong giáo lý của phái Chân Ngôn có thuyết cho rằng những hành vi của thân thể, của ngôn ngữ, và của ý thức nhân loại, trên bản chất thì tương ứng với những hành vi của một vị Phật. Do đó ba loại hành vi này được gọi là “thân mật,” “khẩu mật,” “ý mật,” và chúng được gọi chung là “tam mật.” Cuốn “Thanh Tự Thực Tướng Nghĩa” (Ý Nghĩa của Âm Thanh, Chữ và Thực Thể) này nói về “bí mật của ngôn ngữ.”

Trích dẫn từ cuốn “Đại Nhựt Kinh” (mahavairocana-sutra) (số 39), Không Hải nói rằng “thanh” và “từ” trong thực chất là những biểu hiện của đức tánh Đại Nhựt Như Lai (Mahavairocana), và Đại Nhựt Như Lai chính là hiện thân của chân lý; vì vậy những ngôn (hay “chú ngữ” - mantras) thực sự là những biểu hiện của chân lý. Sự thậtdanh hiệu của phái Chân Ngôn (Shingon) rút ra từ quan điểm cho rằng từ ngữ chính là chân lý.


120. Nghĩa Chữ “Hùm”

 

1 quyển
Do Không Hải (Kukai) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2430

 Chữ “ ” là phiên âm theo Hán tự của chữ “Hum” trong Phạn ngữ, đây là chữ cuối cùng trong các chữ của Phạn ngữ, trái ngược với chữ “a” là chữ cái đầu tiên.

Cuốn này nhan đề là “Nghĩa Chữ ‘Hum’,” bàn về những ý nghĩa phiến diệný nghĩa thâm sâu của chữ đó, và sách này được coi là kinh điểntín đồ của phái Chân Ngôn cần phải đọc.

Những ý nghĩa phiến diện của chữ “hùm” được bàn từ lập trường của Hiển Giáo, trong khi ý nghĩa thâm sâu của chữ này được bàn từ quan điểm của Mật Giáo.

 

121. Ngũ Luân Cửu Tự Minh Bí Mật Thích

 

1 quyển
Do Giác Hoàn (Kukuhan) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2514

 Vào cuối Thời Đại Bình An (Heian), là thời của tác giả sách “Ngũ Luân Cửu Tự Minh Bí Mật Thích” (nghĩa là “cách giải thích bí mật về năm bánh xe và chú ngữ chín chữ”), ở Nhật Bổn ngày càng nhiều người tin thuyết vãng sanh vào cõi Tây phương cực lạc. Trong sách này tác giả dùng lập trường của Mật Giáo để nói rằng Đại Nhựt Như Lai (Mahavaicorana) và Phật A Di Đà thật sự chỉ là một, rằng Mật Nghiêm Tịnh Độ (Ghanavyuha) của Đại Nhựt Như LaiTây phương cực lạc của Phật A Di Đà cũng cùng là một nơi, và rằng được tái sanhTây phương cực lạc cũng giống như đạt tới phật vị.

Chữ “Ngũ Luân” trong nhan đề là nói về năm nguyên tố của tất cả những hiện tượng nơi trần thế, gồm “thổ, thủy, hỏa, phong, và không” (đất, nước, lửa, gió và không khí); và chữ “Cửu Tự” là chú ngữ (mantra) của Phật A Di Đà, là chữ Phạn gồm 9 vần. Tác giả muốn nói rằng, vì ngũ luân và chính chữ này là giống hệt nhau, cho nên Đại Nhựt Như Lai và Phật A Di Đà cũng hoàn toàn giống nhau.

Sách này được coi là trọng yếu vì nó trình bày quan điểm của Mật Giáo đối với Phật A Di Đàcảnh giới Tây phương cực lạc.


122. Mật Nghiêm Viện Phát Lộ Sám Hối Văn

 

1 quyển
Do Giác Hoàn (Kakuhan) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2537

 Giác Hoàn, tác giả sách này và là người sáng lập chi nhánh “Tân Nghĩa” của phái Chân Ngôn, đã từ quan năm 41 tuổi, tự giam mình trong một gian phòng tại Chùa Mật Nghiêm để im lặng tham thiền suốt 1,500 ngày. Sách này được viết trong thời kỳ đó bằng thể thơ, gồm 44 câu thất ngôn.

Có thể nói rằng hành vi này là để bày tỏ sự “sám hối tuyệt đối,” trong đó tác giả sám hối về ác nghiệp không những của chính mình mà cả tới những ác nghiệp của người khác. Giác Hoàn buồn lòng về những hành vi thiếu đạo đức của các tăng sĩ đương thời, cho nên có lẽ ông muốn hành trình như vậy để cảnh tỉnh những người trong giới Phật giáo.

Cho tới ngày nay các tăng sĩ thuộc những giáo phái bắt nguồn từ phái Tân Nghĩa vẫn tụng đọc kinh sách này ít nhất một lần mỗi ngày.



123. Hưng Thiền Hộ Quốc Luận

 

3 quyển
Do Vinh Tây (Eisai) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2543

 Nhan đề có nghĩa là “luận về truyền bá Thiền để bảo vệ quốc gia,” nội dung chủ trương rằng sự nhìn nhận Thiền như là một tông phái Phật giáo độc lập là điều cần thiết đối với cả Phật giáo lẫn sự thịnh vượng của quốc gia. Tác giả Vinh Tây đã đem giáo lý của phái Lâm Tế từ Trung Hoa truyền vào Nhật Bổn, vì vậy ngài bị phái Thiên Thai và các phái Phật giáo truyền thống khác của Nhật cực lực công kích. Để trả lời họ, ngài viết tác phẩm này, nhấn mạnh rằng việc truyền bá Thiền chính là để giúp bảo vệ nước Nhật.

Toàn bộ tác phẩm gồm 10 chương, và tác giả trích dẫn những kinh điển Phật giáo để hỗ trợ cho tất cả những luận cứ của ngài. Một bản tiểu sử đơn giản về Vinh Tây do một người khuyết danh viết đã được thêm vào phần tựa của sách này.

 

124. Phổ Khuyến Tọa Thiền Nghi

 

1 quyển
Do Đạo Nguyên (Dogen) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2580

 Nhan đề có nghĩa là “khuyến khích mọi người tọa thiền,” do Đạo Nguyên, vị khai tổ của phái Tào Động (Soto) ở Nhật Bổn, viết vào năm 1227 ngay sau khi ngài trở về Nhật từ Trung Hoa. Nội dung nói rõ về ý nghĩa đích thực của tọa thiềnnhấn mạnh sự quan trọng của việc thực hành môn này.

Đạo Nguyên coi rằng tọa thiền không phải là một phương tiện để khai ngộ kiến tánh mà chính là bao gồm tất cả sự thực hành Phật giáo, và ngài chủ trương rằng việc thực hành tọa thiền tương đương vói chính trạng thái của một vị Phật. Sách này được viết để phổ biến những ý kiến của tác giả về tọa thiền thuần túy, và nó đã trở thành nền móng để thành lập phái Tào Động.

Đây là một tác phẩm ngắn, chỉ gồm có 786 chữ; tuy nhiên, nội dung của nó không phải là dễ lý giải.

 

125. Chánh Pháp Nhãn Tàng

 

95 quyển
Do Đạo Nguyên (Dogen) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2582

 Nhan đề có nghĩa là “con mắt và kho tàng của đạo pháp chân chánh,” là kiệt tác văn chương của Đạo Nguyên, vị khai tổ phái Tào Động của Thiền Tông, và được viết bằng ngôn ngữ Nhật Bổn (thay vì bằng Hán văn cổ điển), nội dung nói về những giáo nghĩa của phái này. Đạo Nguyên đã chủ ý viết một bộ sách gồm 100 quyển, nhưng sau, khi chỉ viết được 95 quyển thì ngài lâm bệnhviên tịch.

Để làm sáng tỏ lập trường của mình, Đạo Nguyên đã bàn luận tỉ mỉ về những khác biệt giữa những quan điểm của ngài với những quan điểm của các tông phái Phật giáo khác; vì vậy người ta có thể hiểu rõ những tư tưởng của ngài qua tác phẩm này.

Nhan đề “Chánh Pháp Nhãn Tạng” là ý nói những giáo lý chân chánh của Đức Phật Thích Ca trong đời ngài. Trong bộ sách, tất cả những khía cạnh của giáo lý Phật giáo, của các kinh điển, lối sốngtu trì, được trình bày từ lập trường của tác giả.

Bộ sách này được đánh giá rất cao, và được coi là tác phẩm triết học xuất sắc nhất của Nhật Bổn.

 

126. Tọa Thiền Dụng Tâm

 

1 quyển
Do Dinh Sơn Chiêu Cẩn (Keizan Jokin) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2586

 Nhan đề có nghĩa là “ghi chép những vấn đề cần thận trọng khi tọa thiền,” do Dinh Sơn Chiêu Cẩn thuộc phái Tào Động Nhật Bổn soạn – tác giả được vinh danh là “Thái Tổ” của phái này và cũng là người thành lập ngôi chủa Tổng Trì Tự. Nội dung bàn luận về mục đíchý nghĩa của tọa thiền, và là một Luận điển không thể thiếu đối với tăng sĩ của phái Tào Động.

Sách này nói về những vấn đề hết sức thực tiễn như: sự quan trọng, cần phải ăn uống điều độ để giữ gìn sức khỏe, và cấm mặc y phục quá sang trọng hoặc nhơ bẩn, không nên đam mê những trò chơi như ca vũ nhạc. Ngoài ra, nội dung nói thêm rằng sự tọa thiền thực hành trong phái Tào Động không phải chỉ nằm trong ba điều “giới, định, huệ” mà thật ra còn bao gồm hết thảy ba điều đó.

 

127. Tuyển Trạch Bản Nguyện Niệm Phật Tập

 

1 quyển
Do Nguyên Không (Genku) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2608

 Sách này thường được gọi tắt là “Tuyển Trạch Tập,” là tác phẩm chính yếu của Nguyên Không, vị khai tổ của tông phái Tịnh Độ Nhật Bổn, vì vậy được coi là kinh điển căn bản của phái này.

Sách chia thành 16 chương; nó căn cứ vào những trích dẫn từ ba kinh điển căn bản của phái Tịnh Độ (số 17, 18, 19), và “Quán Kinh Sớ” (số 73) của Thiện Đạo, và nhiều kinh sách liên hệ khác, để thuyết minh rằng hành động niệm Phật sẽ dẫn tới sự tái sanh vào cõi Tịnh Độ.

Vì sách này có những lời phê bình những tông phái Phật giáo truyền thống của Nhật Bổn thành lập vào các thời đại Nại LươngBình An, và trình bày lập trường cương yếu của phái Tịnh Độ, cho nên nó bị các tông phái truyền thống đó công kích kịch liệt; và nhiều sách phản bác quan điểm của Nguyên Không đã xuất hiện từ khi ông còn tại thế.

128. Hiển Tịnh Độ Chân Thật Giáo Hành
Chứng Văn Loại

 

6 quyển
Do Thân Loan (Shinran) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2646

 Sách này thường được gọt tắt là “Giáo Hành Tín Chứng” (nghĩa là “nói về ngộ”), là tác phẩm chủ yếu của Thân Loan, và cũng là kinh điển căn bản của chi phái Chân Tông thuộc Tịnh Độ Tông.

Đặc điểm của tác phẩm này là chứa đựng nhiều trích dẫn từ những kinh điển Phật giáo để làm sáng tỏ những giáo lý của Chân Tông; đồng thời tác giả cố gắng tránh đưa thêm vào đó những ý kiến riêng của mình. Vì vậy, có thể nói rằng trong sách này Thân Loan nỗ lực hệ thống hóa tư tưởng của ngài bằng cách trích dẫn từ những kinh điển Phật giáo thời trước.

Điều đáng nói là những câu kệ tụng “Chánh Tín Niệm Phật Kệ” được Liên Như (Rennyo), vị tổ đời thứ tám của phái Chân Tông, tuyển chọn để cho các tín đồ của phái này tụng đọc hằng ngày (cho tới ngày nay vẫn tiếp tục), là rút tra từ đoạn kết luận của chương nói về “Hành” trong sách này.

 

129. Thán Dị Sao

 

1 quyển
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2661

 Sau khi Thân Loan, vị khai tổ phái Tịnh Độ, viên tịch, các đệ tử của ngài có những ý kiến khác nhau về cách giải thích khái niệm chữ “tín” trong giáo lý phái Chân Tông. Vì vậy có người soạn ra sách này – để chỉ trích những xung khắc đó và cũng để giải quyết những ghi vấn của các đệ tử phái Chân Tông bằng cách ghi lại những lời dạy của Thân Loan lúc sanh tiền và làm sáng tỏ ý nghĩa đích thực của “tha lực bản nguyện.”

Sách này được chia thành 18 chương, 10 chương đầu ghi chép những lời dạy của Thân Loantác giả đã được nghe trực tiếp. Tám chương còn lại bàn luận và phê phán những ý kiến trái ngược.

Đây có thể là tác phẩm Phật giáo nổi tiếng nhất của Nhật Bổn và đã được dịch ra nhiều ngoại ngữ; tuy nhiên, mãi cho tới thời đại Minh Trị (Meiji) thì sác này mới được nhiều người trong dân gian biết tới.

Có những thuyết khác nhau về chuyện ai là tác giả; nhưng ngày nay phần đông tin rằng do Duy Đan (Yuien) soạn ra.



130. Liên Như Thượng Nhơn Ngự Văn

 

5 quyển
Do Đan Như Quang Dung (Ennyo Koyu) thu thập
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2668

 Nhan đề có nghĩa là “văn thư của ngài Liên Như” và cũng được gọi tắt là “Ngự Văn Chương” hoặc “Ngự Văn,’’ là một tuyển tập gồm những thư từ của Liên Như (Rennyo), vị tổ thứ tám của chi phái Chân Tông thuộc Tịnh Độ Tông, gửi cho các tín đồ để bàn về những giáo lý của Chân Tông, và gồm có 80 bức thư, chia thành 5 quyển.

Người ta vẫn chưa biết chắc là ai là người thu thập những bức thư này, nhưng nhiều người tin rằng vị tổ thứ chín là Thực Như (Jitsunyo) đã sai con trai ông là Đan Như (Ennyo) góp lại thành sách.

Nội dung sách này thuộc loại dễ hiểu, và ngày nay vẫn còn được tất cả các chi phái của Chân Tông dùng để tụng đọc và làm đề tài để thuyết giảng giáo lý. Vì vậy, nhiều đoạn văn trong sách đã trở thành quen thuộc đối với độc giả Nhật Bổn hiện đại.

 

131. Vãng Sanh Yếu Tập

 

3 quyển
Do Nguyên Tín (Genshin) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2682

 Đây là một tuyển tập gồm những đoạn văn quan trọng lựa từ nhiều kinh điển Phật giáo liên quan tới những gì nói về vãng sanh nơi Tây phương cực lạc của Đức Phật A Di Đà, do Nguyên Tín (Genshin), một vị tăng sĩ trụ trì tại chùa Huệ Tâm, Viện Eshin-in ở núi Hiei (Huê Sơn) thu thập.

Sách này được coi là nguồn tư liệu của tư tưởng Phật giáo bàn về cảnh giới cực lạcđịa ngục, và đã tạo ảnh hưởng quan trọng đối với hậu thế, chẳng những trong giới tín đồ Phật giáo và giới nghiên cứu triết học mà còn cả trong những địa hạt văn chương và nghệ thuật.

Một điều nữa cần nên ghi nhậntư tưởng về “niệm Phật” (nenbutsu) đề ra trong sách này đã dẫn tới sự thành lập nhiều chi phái khác nhau của Tịnh Độ như là những tông phái độc lập. Vì vậy, nó được coi là giữ địa vị quan trọng nhất trong số những kinh điển cơ bản của Tịnh Độ Tông.

132. Lập Chánh An Quốc Luận

 

1 quyển
Do Nhựt Liên (Nichiren) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2688

 Nhan đề có nghĩa là “luận về chính sách tạo bình an cho quốc gia,” là tác phẩm tiêu biểu của Nhựt Liên, vị khai tổ của tông phái Nhựt Liên, và cũng là một bản luận thuyết viết cho một vị Sứ Quân Nhật Bổn đương thời.

Nhựt Liên mở đầu sách với lời bàn luận về nguyên nhân gây ra những thiên tai và nhân họa khiến cho xã hội rối loạn, rồi ngài xác quyết rằng những tai họa đó sẽ biến mất và quốc gia sẽ thái bình nếu toàn quốc tin tưởng vào Kinh Pháp Hoa (số 12).

Nhựt Liên cảm thấy sự nguy hiểm và tin rằng những tai ách xảy ra là vì trong nước thiếu những đạo pháp chân chánh, và sợ rằng nước Nhật sẽ có thể bị ngoại quốc xâm lăng rồi cuối cùng bị hủy hoại. Ngài mạnh mẽ chỉ trích phái Tịnh Độ Tông, và đưa ra những lời trích dẫn từ nhiều kinh điển để hỗ trợ cho quan điểm của mình. Vì hậu quả của sách này Nhựt Liên đã bị lưu đầy ra đảo Y Đậu (Izu).


133. Khai Mục Sao

 

2 quyển
Do Nhựt Liên (Nichiren) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2689

 Nhựt Liên viết ra cuốn sách này – một trong những tác phẩm tiêu biểu của ngài – do sự thúc đẩy của những kinh nghiệm đau lòng mà ngài đã trải qua trong thời gia bị lưu đầy trên các đảo Y Đậu (Izu) và Tả Độ (Sado). Nội dung đưa ra sự tái thẩm định của tác giả đối với Kinh Pháp Hoa (số 12).

Chữ “Khai Mục” trong nhan đề nghĩa là “mở mắt,” ngụ ý rằng mục đích của sách này là để dẫn dắt những người còn ở trình độ thấp về phát triển tinh thần có thể hiểu được tinh túy của Kinh Pháp Hoa cao siêu.

Vì sách được viết bằng Nhật văn thay vì bằng Hán văn, cho nên người ta tin rằng Nhựt Liên viết tác phẩm này với chủ ý cho các đệ tử tại gia của ngài đọc.

 

134. Quán Tâm Bổn Tôn Sao

 

1 quyển
Do Nhựt Liên (Nichiren) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2692

 Sách này được coi là kinh điển quan trọng nhất của phái Nhựt Liên Tông. Trong sách Nhựt Liên giảng giải phương phápgiáo nghĩa về “quán tâm bổn tôn,” nghĩa là tụng đọc “đề mục” (daimoku) khi đối diện với đối tượng thờ phụng.

Nhựt Liên tin rằng chân lý căn bản trong vũ trụ, thể hiện trong tâm, bao gồm trong “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh” (số 12) và năm chữ Hán này hàm chứa mọi điều. Vì vậy trong sách ngài xác quyết rằng bằng cách tụng đọc “đề mục” – đọc câu “Nam mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh” – người ta có thể hòa nhập vào thế giới của Phật trong khi vẫn giữ sắc thân (xác phàm).

 

135. Phụ Mẫu Ân Trọng Kinh

 

1 quyển
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2587

 Nhan đề có nghĩa là “kinh nói về công ơn thâm trọng của cha mẹ,” nội dung mô tả tình yêu thương của cha mẹ đối với con cái sâu xa như thế nào, rồi tác giả nói rằng để đền ơn cha mẹ người ta cử hành lễ Vu Lan, tụng đọc và sao chép “Vu Lan Bồn Kinh” (số 36).

Xét từ hình thức khác thường và nội dung của nó, kinh này thường được coi xuất xứ từ Trung Hoa, và có thể là do bắt nguồn từ ảnh hưởng của Khổng giáo đối với Phật giáo. Dù sao, tác phẩm này rất phổ biến, thường được trích dẫn trong những tác phẩm văn chương, và nhiều người đã viết những bản bình luận về nó.

 

136. Bát Tông CươngYếu

 

2 quyển
Do Ngưng Nhiên (Gyonen) soạn

 Nhan đề có nghĩa là “những điều cốt yếu của tám tông phái,” nội dung nói giản lược về lịch sửgiáo lý của tám tông phái Phật giáo chính yếu ở Nhật Bổn vào thời của tác giả, đó là 6 tông phái du nhập vào Nhật Bổn ở Thời Đại Nại Lương và 2 tông phái do Tối Đằng (Saicho) và Không Hải (Kukai) đưa vào Nhật Bổn trong Thời Đại Bình An. Vì vậy có thể nói rằng tác phẩm này là sách nhập môn đưa vào Phật giáo Nhật Bổn.

Quyển thượng gồm một bài mở đầu và những phần nói về phái Câu Xá tông (Kusha), Thành Thật tông (Jojitsu), và Luật tông. Quyển hạ nói về các phái Pháp Tướng tông (Hosso), Tam Luận tông (Sanron), Thiên Thai tông (Tendai), Hoa Nghiêm tông (Kegon) và Chân Ngôn tông (Shingon), kế tiếp là những lời bình luận đơn giản về hai phái Thiền tôngTịnh Độ tông.

137. Tam Giáo Chỉ Qui

 

3 quyển
Do Không Hải (Kubai) soạn
Tạng Ngoại

 Sách này của Không Hải (Kukai), vị khai tổ của phái Chân Ngôn (Shingon), có thể được coi như tuyên ngôn của tác giả về chí hướng xuất gia đi tu, và cũng là tác phẩm đầu tiên của ngài. Nhan đề có nghĩa là “chỉ về những mục tiêu của ba giáo lý.”

Bản sơ thảo của sách lúc đầu đặt tên là “Lung Cổ Chỉ Qui” (“chỉ về mục tiêu cho người điếc và mù”), bắt đầu viết khi tác giả 18 tuổi, và tới khi 24 tuổi ngài hoàn thành bản đã sửa chữa này.

“Tam Giáo” là ba tôn giáo Nho giáo, Lão giáoPhật giáo. Trong sách này Không Hải bàn luậnso sánh những ưu và khuyết điểm của chúng, và xác quyết rằng việc trở thành một tăng sĩ Phật giáo mới đích thực là biểu hiện lòng hiếu thảo – ngài muốn biện hộ cho hành động đi tu của mình đối với lời chỉ trích của những người trong gia đình.

 

138. Mạt Pháp Đăng Minh

 

1 quyển
Tạng Ngoại

 Nhan đề có nghĩa là “luận về ngọn đènthời mạt pháp.” Thời trước có những người cho rằng sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt, việc tu trì những giáo lý chân chính của ngài sẽ dần dần bị sao lãng, trải qua ba thời kỳ suy thoái từ “chánh pháp” tới “tượng pháp” và “mạt pháp”. Trong sách này biện luận rằng vì những ngày mạt pháp đã gần kề, đừng nên loại bỏ những tăng sĩ nào không tu trì đầy đủ những giới luật của tự viện. Sách này chỉ trích chủ trương của những tông phái Phật giáo bắt nguồn từ thời đại Nại Lương cho rằng cần phải tuân thủ nghiêm ngặt những giáo qui của Tiểu Thừa đối với những người xuất gia tu hành.

Những ý kiến trong sách nhận được sự hoan nghênh từ những tông phái mới của thời đại Liêm Thương (Kamakura) sau này, và nhiều nhà lãnh đạo tông giáo của thời đại đó đã trích dẫn tác phẩm này trong các sách của họ để biện minh cho tình trạng tu hành của tăng sĩ vào thời mạt pháp. Vì vậy có thể có đây là tác phẩm đã tạo ảnh hưởng quan trọng cho thái độ đối với giới luật tu hành của Phật giáo Nhật Bổn về sau này.


139. Thập Thất Điều Hiến Pháp

 

Do Thái Tử Thánh Đức (Shotoku) soạn
Tạng Ngoại

 Nhan đề của sách “Thập Thất Điều Hiến Pháp” (mười bảy điều khoản hiến pháp) được ghi trong “Nhật Bổn Thư Kỷ” là “Hiến Pháp Thập Thất Điều.” Đây là cuốn sách luật xưa cũ nhất của Nhật Bổn.

Như nhan đề cho thấy, sách này bao gồm 17 điều khoản, nhưng không giống các sách về luật pháphiến pháp ngày nay, thật ra nó gồm những điều khuyên răn về chính trị và đạo đức dành cho các quan lại và những người cầm đầu các gia tộc nhiều quyền thế đương thời. Nội dung nhấn mạnh vào những vấn đề như tôn kính uy quyền của thiên hoàng, và sự cai trị công minh; nhưng toàn bộ tác phẩm bao hàm tinh thần Phật giáo, và cũng có những đoạn nói tới đạo đức của Nho giáo.

Những câu như “Dĩ hòa vi quí” và “Tôn kính Tam Bảo” trong điều khoản thứ nhất và thứ nhì đã trở thành nổi tiếng; trong khi câu “Sự quyết định về những vấn đề trọng đại không thể cho một cá nhân đơn độc quyết đoán,” trong điều khoản 17 và cuối cùng, có thể coi như đi tiên phong đối với tư tưởng dân chủ ngày nay.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 215)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 308)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 622)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 678)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 637)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 685)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 599)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 541)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 668)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 710)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 703)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 792)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 768)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 961)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 828)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1388)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 913)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1078)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1061)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 992)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 980)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1399)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1744)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1159)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 970)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 817)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 947)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 972)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1142)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1173)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 924)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1068)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1518)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1398)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1391)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 980)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1375)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1288)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1253)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant