Biên Soạn: Tâm Diệu
Chương 2
GIỚI KHÔNG SÁT SANH
Gạt
bỏ những
lối nghiên cứu lịch sử của các học giả về khía cạnh
chính thống hay không chính thống của văn tự chữ nghĩa,
chúng ta hãy tìm hiểu quan điểm thực của người Phật
Giáo về vấn đề không ăn thịt cá này qua giới luật,
đặc biệt là giới cấm sát sinh.
Như
trên đã nói, ăn chay là chính sách dinh dưỡng nhằm bảo
tồn sức khỏe, thức ăn chỉ là những chất dinh dưỡng,
là những thuốc bổ để nuôi cơ thể, đồng thời ăn
chay cũng là chính sách thực hành giáo pháp, thực hành
giới luật cấm sát sinh và do đó tâm từ bi được phát
triển.
Như
vậy ăn chay có liên hệ mật thiết với giới cấm sát
sinh và vì thế khi nói đến ăn chay mà không nói đến
giới cấm này là một việc thiếu sót hay cố tình tách
rời hai vấn đề như là khác nhau!
Theo
Trường Bộ Kinh và Trường A Hàm, thì Giới là một
trong tam học của đạo Phật: Giới Học, Định Học và Tuệ
Học và là bước đầu tiên của tiến trình năm bước
dẫn đến giải thoát: Giới, Định, Tuệ, Giải Thoát và
Giải Thoát Tri Kiến.
Giới
là bước đi căn bản, do giới mà có thiền định và do
thiền định mà phát sinh trí tuệ. Nếu bước đi đầu không
vững vàng hay sai trái thì không thể nào đi được các
bước kế tiếp.
Trong
suốt bốn mươi chín năm hoằng pháp, Đức Phật đã để
lại không biết bao nhiêu là kinh điển, nhưng không ngoài
ba điều, mà hai điều đầu tiên thu nhiếp tất cả về giới
luật: không làm các điều ác, làm các việc lành và
giữ tâm ý thanh tịnh (chư ác mạc tác, chúng thiện
phụng hành, tự tịnh kỳ ý).
Phật
tử tại gia giữ 5 giới: không sát sinh, không trộm cắp,
không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Nếu giữ
thêm 3 giới nữa là không nằm giường cao, không ướp
hoa, xoa phấn, và không ăn trái giờ, được gọi là bát
quan trai giới. Nếu là xuất gia, Sa di và Sa di ni giữ 10 giới,
Tỳ kheo giữ 250 giới, Tỳ kheo ni giữ 348 giới, Bồ Tát
giới, xuất gia hay tại gia giữ 10 giới trọng và 48 giới
khinh.
Căn cứ theo từng giới cấm một, cũng như toàn thể giới bổn, thì năm giới căn bản áp dụng chung cho cả hai hàng xuất gia và tại gia, áp dụng cho tất cả mọi người muốn được sống an lạc hạnh phúc cho mình và cho chúng sinh ở hiện tại cũng như tương lai.
Trên
ý nghĩa
cơ bản, giới được đặt trên nền tảng từ bi thương
sót đến tất cả muôn loài chúng sinh, là không làm các
điều ác và làm các việc tốt lành hay nói một cách
khác, không làm những gì có hại cho mình, cho chúng sinh,
hoặc hại cả hai, và tích cực làm những gì về cả ba
phương diện thân, khẩu và ý mà có lợi cho mình và
cho chúng sinh.
Giới
không sát sinh là giới thứ nhất, không phải là những
điều răn dạy hay cấm đoán trong nền tảng luân lý thông
thường mà được đặt trên cơ sở bình đẳng Phật tánh
nơi mỗi chúng sinh, nơi lòng từ bi của con người và nơi
định luật nhân quả của vũ trụ vạn vật.
Kinh
Đại Bát Niết Bàn dạy: Tất cả chúng sinh đều có
Phật tánh, nhưng vì bị vô lượng phiền não che phủ nên
chúng sinh chẳng nhận thấy được. [9]
Đối
tượng chúng sinh trong giới cấm thứ nhất của đạo
Phật là hữu tình chúng sinh, tức là những chúng sinh
có hệ thần kinh, có tình cảm, biết cảm giác, biết đau
đớn và vui sướng.. Chúng sinh ấy bao gồm từ người
cho tới các loài động vật trên bộ, trên không và dưới
nước, từ những con vật lớn như voi tượng, như cá ông
cho đến các con vật nhỏ bé như kiến, như sâu trùng.
Do
nghĩa trên mỗi cá thể chúng sinh đều đồng có Phật tánh,
đều có khả năng thành Phật nên có đặc tính bình đẳng,
do đó người Phật tử chúng ta không những không dám
sát hại chúng sinh mà còn phải tôn trọng và bảo vệ
chúng sinh.
Bản chất
của chúng sinh, dù loài nào, cũng đều ham sống sợ chết.
Giết hại chúng sinh tức là gây cho chúng sinh một sự
đau đớn về thân thể và một sự tuyệt vọng khi lòng
ham sống bị đe dọa và xâm phạm. Hơn nữa, cái chết của
một chúng sinh luôn luôn đồng nghĩa với sự chia lìa thân
quyến. Khi một chúng sinh bị đe dọa đến mạng sống, chúng
cũng có những phản ứng tự vệ, ít nhất là phát ra
những nỗi oán hờn thù hận đến những ai định tâm sát
hại chúng. Tại sao chúng ta làm đau đớn hay hủy mạng sống
của chúng trong khi chúng ta muốn sống và không muốn ai hành
hạ chúng ta?
Không sát sinh tức là không tước đoạt sự sống, hay tôn trọng sự sống chính là nền tảng căn bản của nếp sống an lạc cho cá nhân và hoà bình cho xã hội. Sát sanh là nguyên nhân của chiến tranh tàn phá. Con người giết thú vật một cách si mê ngu muội, đâu biết rằng niềm oán hận không thể nào xóa bỏ cứ chồng chất theo năm tháng khó mà cản ngăn nỗi thù sâu oán trả.
Đạo
Phật chủ trương cấm sát sinh, thể hiện qua việc ăn chay,
như là một chính sách dinh dưỡng tốt và cần thiết cho
sự hành trì Phật pháp của mỗi cá nhân, ổn định cho
gia đình, xã hội, và tận diệt nguồn gốc của chiến
tranh.
Căn cứ vào
đời sống gương mẫu của Phật, chúng ta hiểu rằng khi đặt
ra giới cấm này, Phật không chỉ giới hạn vào việc tôn
trọng và bảo vệ sự sống của con người, mà còn là
tôn trọng và bảo vệ sự sống của tất cả mọi sinh vật.
Ngay cả đến cỏ cây hoa lá, dù không phải là hữu tình
chúng sinh, không có tình cảm khổ vui, Ngài cũng dạy rằng
nên tôn trọng. Đó là thói quen tốt của người Phật tử,
không bao giờ sử dụng bạo lực. Chúng ta hãy xem quan điểm
của Hòa Thượng Thích Minh Châu, nguyên Viện Trưởng Viện
Đại Học Vạn Hạnh:
"Trong
vũ trụ bao la, hành tinh chúng ta cực kỳ nhỏ bé, sự sống
mong manh, trước đe dọa của một thảm họa hạch nhân. Do
vậy chúng ta sống trên hành tinh này, phải tôn trọng và
bảo vệ hành tinh chúng ta, tôn trọng và bảo vệ sự sống
còn của con người, tôn trọng và bảo vệ sự sống của
sinh vật, tôn trọng và bảo vệ sự sống của cỏ cây
hoa lá. Sự sống tự nó là thiêng liêng, đòi hỏi chúng
ta phải tôn trọng và bảo vệ, dầu là sự sống động
vật hay thực vật. Hủy hoại đời sống người khác, các
loài hữu tình khác để duy trì đời sống của mình, không
những trái với đạo lý con người, mà còn nghịch lại
với luật thiên nhiên.
Tôn
trọng và bảo vệ đời sống của con người, của mọi
loài, là động lực hay nhất và thiết thực nhất để
bảo vệ và tôn trọng đời sống của chính bản thân mình.
Bảo
vệ sự sống ở nơi đây còn có nghĩa bảo vệ môi trường
sống, bảo vệ sự dinh dưỡng trong lành của đất, nước,
cỏ cây hoa lá, bảo vệ sự trong sạch của bầu khí quyển
khỏi bị ô nhim, để nuôi dưỡng sự sống con người. Chỉ
bằng cách bảo vệ hữu hiệu môi trường sống mới có
khả năng bảo đảm sự sống của muôn loài và sự sống
còn của chúng ta.
Nguyên
lý này đặt trên nền móng, trên lời khuyên của Đức
Phật, chớ có sát sinh, chớ có khuyến khích sát sanh, chớ
có chấp nhận sát sanh, chớ có làm hại các sinh vật
nhỏ bé trong nước, thậm chí chớ có đạp trên cỏ xanh.
Đối với Đức Phật, từ bỏ sát sanh có nghĩa là bố
thí không sợ hãi, bố thí không hận thù, bố thí không
làm hại cho vô lượng chúng sanh. Đây là bố thí đệ
nhất, bố thí tối thượng, bố thí vượt ngoài thời
gian, bố thí được tồn tại lâu dài.
Ỏ
đây lời dạy của Đức Phật về lòng từ, về tôn trọng
sự sống, về không sát sanh sẽ đi rất xa trong sự nghiệp
thay đổi tâm trí của nhân loại. Chúng ta phải tu tập lòng
từ (metta) để nhiếp phục lòng sân và bất mãn. Chúng
ta cần phải tu tập lòng bi (karunà) để gìn giữ không làm
hại một ai, một sinh vật nào. Chúng ta cần phải tu tập
lòng hỷ (mudita) để hoan hỷ trước sự thành công của
người khác. Chúng ta phải tu tập lòng xả (upekkhà) để
diệt nỗi căm thù và oán hận." [10]
Không những
giới không sát sanh được đặt trên căn bản bình đẳng
và chúng sinh đồng thể đại bi mà còn được đặt trên
căn bản là tất cả chúng sinh hữu tình đều đã từng
là bà con quyến thuộc của nhau, là cha mẹ, anh chị em, chồng
vợ, con cái của nhau trong muôn vàn kiếp trước, hiện tại
hay tương lai trong vòng luân hồi nhân quả trùng trùng.
Đức
Phật đã thấy tất cả chúng sinh hữu tình đều trải qua
những vòng sinh tử luân hồi và thấy rõ những mối
liên hệ với nhau qua nhiều dạng thể khác nhau. Bây giờ
một số chúng sinh đang sống dưới hình thức những con
vật thấp kém nhưng trước đây họ có thể đã mang dạng
thể con người. Có thể chúng đã có lúc cùng một loại
với chúng ta. Vì lòng từ bi vô bờ bến Ngài không muốn
chúng ta ăn thịt lẫn nhau nên Ngài đã ban hành giới cấm
đầu tiên là giới không sát sanh.
Ngài
nói: "Tất cả chúng sinh vì tâm tưởng khác nhau,
do vậy có sự xoay vần trong các thú." [11]
Ngài nói rõ thêm "Hữu tình luân hồi thọ
sanh trong sáu đường như bánh xe quay không có đầu mối
trước sau, hoặc làm cha mẹ, hoặc làm con cái, đời
đời kiếp kiếp mang ân lẫn nhau. Với kẻ nam, người nữ
thấy đồng như cha mẹ, do vì chẳng chứng Thánh trí nên
không làm sao biết được. Hết thảy người nam là cha ta,
hết thảy người nữ là mẹ ta, tại sao chưa báo đền cái
ân đời trước, mà trở lại sanh ý nghĩ xấu để thành
oán hận." [12]
Nói về giới
không sát sanh này, Ngài Trần Thái Tông, vị vua khai sáng
ra triều đại nhà Trần, cũng đã viết trong Khóa Hư Lục
như sau: "Phàm các loài sinh từ trứng, thai, ẩm, hóa,
tính vẫn đồng, thấy nghe hiểu biết đâu khác. Chỉ do tạo
nghiệp kết oán, nên thọ tên khác hiệu khác. Ngày trước
vốn loài người, nay sanh đàn giống khác nhau. Hoặc là
bạn bè, hoặc là anh em. Thay đổi áo xiêm đai mũ, biến
làm mai vẩy cánh lông. Vợ quên chồng, chồng quên vợ,
con trái cha, cha trái con. Đã thấy đổi đầu khác mặt,
lôi về mổ bụng chặt chân. Luống lo tham sống sợ chết,
lại không một lời kêu đau khổ. Ngươi giết nó, nó giết
ngươi, hắn ăn mày, mày ăn lại hắn, hằng không ngày dứt,
mãi tạo oan trái. Kiếp kiếp trả nhau, đời đời thù
nhau.
Người
quay đầu liền đến quê nhà, kẻ phóng tâm hằng chìm
địa ngục. Sách Nho dạy: "Thi ân bố đức". Kinh Đạo
dạy: "Ái vật háo sanh". Phật chỉ cấm sát là giữ
giới, ngươi phải để ý tuân hành chớ phạm".
[13]
Nói
một cách khác, giới không sát sanh được đặt trên
định luật nhân quả, của tác động và phản động, đây
là định luật thiên nhiên. Nhân là nguyên nhân gây nên
và quả là kết quả. Như trồng hạt lúa thì có cây lúa,
trồng cam thì có cây cam. Định luật nhân quả chi phối tất
cả chúng sinh hữu tình lẫn vô tình. Tất cả hành động
của chúng ta bao gồm thân làm, miệng nói và tâm ý mà
đạo Phật gọi là ba nghiệp thân khẩu ý. Nghiệp là hành
động sẽ đưa đến kết quả tốt hay xấu. Do đó nếu chúng
ta làm những điều ác dữ thì chúng ta sẽ bị quả xấu
mà thường hay gọi là nghiệp báo.
Những
tai họa, tật nguyền hay dạng thể của chúng sanh khác nhau
đều có nguyên nhân nếu không kiếp này thì kiếp trước
hay những kiếp trước nữa chúng ta đã tạo nghiệp. Do sức
mạnh của nghiệp, nghiệp lực thúc đẩy những hành động
thiện hay bất thiện đã tồn trữ nhiều đời nhiều kiếp
trong quá khứ hiện hành dưới dạng thể khác.
Như
Ngài Trần Thái Tông nhắc nhở người cư sĩ tại gia
trong bài văn giới
sát sanh trên; "ngày nay chúng ta là anh em, bạn bè,
có người làm thiện, có người làm ác. Sau kiếp này,
khi sanh trở lại, chúng ta hoặc làm người hay làm súc
sanh, hay các loài khác hoàn toàn không biết nhau nên mổ
bụng chặt chân không chút xót thương. Rồi thù oán nhau
mãi không có ngày thôi dứt nên oan trái chập trùng.
Giết nhau để được ăn ngon mặc đẹp, kiếp sau nó cũng
giết lại mình để trả thù và được ăn ngon mặc đẹp".
Nói
tóm lại,
sát sanh nghĩa là giết hại sinh vật, cưỡng đoạt sự sống
nối tiếp, đi ngược lại ước muốn của chúng sinh. Nếu
có ý dẫn đến thực hiện thì tất cả hành động sát
sanh, bất luận loại nào, tuy có nặng nhẹ khác nhau, cũng
đều phạm tội sát sanh.
Đó
là quan điểm của Phật Giáo Đại Thừa về giới không
sát sanh và vấn đế ăn chay. Thật ra người Phật Giáo
Đại Thừa không cho rằng quan điểm nêu trên là của họ
mà là quan điểm chung của Phật Giáo. Điều này không
sai vì như trên chúng tôi đã trích dẫn những lời giảng
của Hòa Thượng Thích Minh Châu, một vị cao tăng thuộc
Phật Giáo Nguyên Thủy. Tâm tư của ngài là tâm tư của
những người con Phật không mang cặp kính mầu. Lòng từ
bi của ngài cũng giống như của tất cả mọi người, không
thêm không bớt, chỉ khác chăng là làn mây ô nhiễm mỏng
dày của mỗi người che phủ.
Trong phần kế tiếp chúng tôi trích dẫn những lời dạy của Đức Phật trong các kinh điển Đại Thừa như Kinh Lăng Gìa, Kinh Đại Bát Niết Bàn, Kinh Lăng Nghiêm nói về vấn đề cấm không ăn thịt của Đức Phật.