Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

2. Kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương, quyển 2

31 Tháng Năm 201100:00(Xem: 14899)
2. Kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương, quyển 2

BỘ MẬT TÔNG (Bốn Tập)
Dịch Giả:Tỳ Khưu Thích Viên Đức

B. TẬP HAI
KINH ÐẠI THỪA TRANG NGHIÊM BẢO VƯƠNG

NAM MÔ ÐẠI THỪA TRANG NGHIÊM 
BẢO VƯƠNG KINH HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT 
(3 lần) 

PHẬT NÓI KINH 
ÐẠI THỪA TRANG NGHIÊM BẢO VƯƠNG 

 
QUYỂN HAI 

 
Sau thời kỳ Phật Thức Khí, có Ðức Phật ra đời hiệu là Tỳ Xá Phù Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Trừ Cái Chướng! Tôi ở thời ấy làm Nhẫn Nhục Tiên Nhơn nơi thâm sơn. Chỗ ấy núi cao hiểm trở sỏi đá khô cằn, không người lai vãng ở lâu trong đó. Bấy giờ, tôi ở chỗ đức Như Lai kia, nghe công đức oai thần của Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, Ngài Quán Tự Tại hiện thân vào nơi kim vị, vì Phú Diện hữu tình mà nói diệu pháp, chỉ bày Bát Chánh Ðạo, đều khiến chứng được địa vị Niết Bàn. Ra khỏi kim địa này lại vào ngân địa. Chỗ ấy hữu tình đều là bốn chân. Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát vì loài hữu tình kia mà nói pháp: “Ngươi nên lắng nghe! Chánh pháp như vậy, cần phải phát tâm suy xét chín chắn, ta nay chỉ bày tư lương Niết Bàn cho ngươi.” Các hữu tình ấy đứng trước Ngài Quán Tự Tại bạch Bồ Tát rằng: “Hữu tình không mắt, cứu làm sáng tỏ, khiến được thấy đường. Không nơi nương nhờ, lại làm cha mẹ, khiến được nhờ nương. Trong đường tăm tối làm đèn đuốc sáng, khai mở chánh đạo là nguồn giải thoát. Nếu có hữu tình niệm danh hiệu Bồ Tát thì được an vui. Chúng tôi thường chịu khổ nạn như vậy.” Khi ấy tất cả những hữu tình nghe kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương, được nghe kinh rồi, liền được an vui, chứng bậc Bất thối

Bấy giờ, Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát ra khỏi nơi ấy lại vào thiết địa mà nơi ấy là chỗ cấm của vua Ðại Lực A Tô La. Bồ Tát khi vào trong đó hiện thân như Phật. Bây giờ vu đại Lực A Tô La, từ xa đến nghinh đón Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát vào trong vương cung A Tô La, có vô số quyến thuộc, phần nhiều trong ấy đều là lưng gù xấu xí, quyến thuộc như vậy đều đế, thân gần lễ bái nơi chân Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát mà nói bài kệ rằng: 

Con đời nay đắc quả, chỗ nguyện thảy viên mãn

Mong cầu được như ý, đấy là chánh kiến con. 

Ðã được thấy Bồ Tát, con và các quyến thuộc đều được an vui, lại lấy bảo tòa báu dâng hiến Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, chấp tay cung kính bạch rằng: Bọn quyến thuộc chúng con từ xưa đến nay ham ưa việc tà dâm, thường ôm lòng sân hận, ưa giết hại sanh mạng, tạo tội nghiệp âý, tâm con rất lo buồn, sợ hãi già chết luân hồi, chịu nhiều điều khổ não, không nơi nương, không chỗ tựa. Cúi mong Ngài thương tình cứu độ, vì con chỉ bày đường đạo giải thoát

Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát dạy rằng: Thiện nam tử! Ðức Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác thường làm hạnh khất thực, nếu ai bố thí đồ ăn sẽ được phước đức nói không kể hết. Thiện nam tử! Chẳng những thân tôi tại hang A Tô La này nói không thể hết, mà cho đến như mười hai Căng già hà sa số Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đều ở một chỗ, cũng không thể nói hết phước đức số lượng như thế. Thiện nam tử! Vi trần đã có, tôi có thể đếm số lượng của nó được. Thiện nam tử! Cúng thí cơm cho đức Như Lai được phước đức đó, tôi không thể nói hết số lượng. Thiện nam tử! Lại như nước biển lớn, tôi có thể đếm mỗi một giọt nước kia được. Thiện nam tử! Cúng thí đồ ăn cho đức Như Lai thì được phước đức tôi không thể nói hết số lượng. Thiện nam tử! Lại như bốn đại châu, đã có người nam, kẻ nữ, con trai, con gái, thảy đều gieo ruộng, đầy khắp bốn đại châu, không trồng giống khác, chỉ gieo hạt cải. Long rồng thuận thời, thường được mưa xuống, hạt cải chắc tốt, nơi trong một châu lấy làm sân chứa, giậm đạp xong rồi gom thành đống lớn. Thiện nam tử! Như vậy tôi có thể đếm hết số mỗi một hạt cải. Thiện nam tử! Cúng thí đồ ăn cho đức Như Lai được phước đức tôi không thể nói hết số lượng. Thiện nam tử! Lại như núi Diệu Cao Sơn Vương vào nước tám vạn bốn ngàn Du thiện na, ra nước tám vạn bốn ngàn Du thiện na. Thiện nam tử! Như vậy núi Vương kia lấy làm giấy, lấy nước biển lớn chứa đầy trong đó, đều làm nước mực. Ðem bốn đại châu gồm có tất cả kẻ nam, người nữ, con trai, con gái, thảy đều chép viết lượng núi Diệu Cao đã chứa giấy ấy, chép hết không sót, như vậy tôi có thể đếm số mỗi một chữ kia. Thiện nam tử! Cúng thí món ăn cho đức Như Lai được phước đức mà tôi không thể nói số lượng. Thiện nam tử! Như vậy tất cả người chép viết ấy, đều đắc Thập Ðịa Bồ Tát vị. Như vậy Bồ Tát đã có phước đức, cùng với cúng thí cho đức Như Lai một bữa ăn, lượng phước đức kia bằng nhau không khác. Thiện nam tử! Như Căng già sa hà sa số biển lớn, trong đó có số cát, tôi có thể đếm mỗi một hột các kia. Thiện nam tử! Cúng dường bữa ăn cho đức Như Lai được phước đức mà tôi không thể nói hết số lượng. Lúc bấy giờ vua Ðại Lực A Tô La nghe nói việc đó buồn khóc thảm thiết, lệ chảy tuôn tràn, ôm lòng buồn khổ nghẹn ngào than thở. Bạch Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát rằng: Con từ xa xưa làm việc bố thí, nhưng chỗ thí ấy tối tăm phi pháp, do việc thí ấy cho nên con nay và các quyến thuộc ngược lại phải chịu nghiệp báo ràng buộc ở trong ác thú, nay đây làm thế nào đem ít phần thực, phụng dâng Như Lai biến thành cam lồ. Con từ xưa đến nay ngu si vô trí, tập hành ngoại đạo pháp Bà la môn. Thời ấy có một người thân hình hèn xấu, đến nơi chỗ con cầu xin cần thiết. Con đem bày đủ các thứ mão báu đẹp đẽ, vàng bạc vòng tai, y phục thượng diệu, đủ báu trang nghiêm, đồ đựng ứ già … Lại có trăm ngàn voi ngựa xe báu, chơn châu anh lạc, lưới báu trang nghiêm, treo các chuỗi ngọc xen nhau trong sức, có các thức tàn báu, lưới báu, màng trướng, trên treo các linh báu tiếng khua lung linh mầu nhiệm. Lại có một ngàn con trâu màu vàng lông sắc tuyệt đẹp, móng bạc trang nghiêm, sừng vàng phục sức. Lại dùng các báu xen nhau trang điểm. Còn có một ngàn đồng nữ hình thể đẹp đẽ, dung mạo đoan nghiệm, dường như thiên nữ, đầu đội mão trời, vàng báu đeo tai, thân mặc diệu y, lưng đeo dây báu, vòng quý đeo tay, chuỗi ngọc anh lạc, khua rung êm diệu, tràng hoa mầu nhiệm, các thứ như vậy thân đều trang sức. Lại có các thứ tòa báu vô số trăm ngàn. Còn có các thứ vàng bạc châu báu chứa để vô số. Có các trâu dê số trăm ngàn vạn, và người chăn thả cũng nhiều như thế. Các thứ đồ ăn mỹ vị thơm tho như ở cõi trời. Còn có vô số linh báu, vô số tòa sư tử bằng vàng bạc, vô số phất trần vàng báu đẹp đẽ. Vô số đồ bảy báu trang nghiêm tàn lọng. Khi bày đủ các thứ như vậy làm đại bố thí, thì có trăm ngàn Tiểu vương đều đến nhóm hội. Có vô số trăm ngàn muôn chúng Sát Ðế Lợi cũng đến nhóm hội. 

Khi con thấy rồi lòng sanh nghi hoặc. Ðương thời ấy con là tối tôn, đủ thế lực mạnh thống lãnh đại địa. Con y phép Bà la môn, chuyên làm sám hối túc thế ác nghiệp, muốn giết các Sát đế lợivợ con quyến thuộc của họ, lấy cắt tim gan để cúng tế trời, mong trời diệt tôi. Khi ấy con đem trói hết tay chân và nhốt hết vào trong hang cấm bằng đồng trăm ngàn người biên địa, cũng đều bỏ vào trong hang cấm, lấy dây sắt trói vào cột sắt, trói cột tay chân tất cả người ấy. Bây giờ con tạo dựng cửa hang, lấy cây thường làm lớp cửa thứ nhứt, lấy cây khư nhĩ làm lớp cửa thứ hai, dùng sắt làm lớp cửa thứ ba, lấy thục đồng làm lớp cửa thứ tư, lấy sanh đồng làm lớp cửa thứ năm, lấy bạch ngân làm lớp cửa thứ sáu, lấy 

huỳnh kim làm lớp cửa thứ bảy, trên bảy lớp cửa như vậy. Mỗi cái dùng năm trăm dây xiềng đóng chắc chắn, lại nơi mỗi cửa đè lên một hòn núi. Khi ấy có trời Na La Diên thoạt nơi một ngày hiện thân làm con ruồi bay đến dò xem. Lại một ngày nữa hiện hình con ong. Lại một ngày nữa hiện hình con thân heo. Một ngày nọ hiện tướng phi nhơn. Cứ thế ngày ngày thân tướng thay đổi dò xem. Con bây giờ trong tâm suy nghĩ làm làm phép Bà la môn, trời Na La Diên thấy con làm phép đó, đến nơi hang đồng mà phá hoại dẹp bỏ bảy lớp cửa, đem mỗi hòn núi ném qua nơi khác và lớn tiếng kêu những người bị trói rằng: Vô Thắng Thiên Tử! Các ngươi thân chịu đại khổ não, thân mạng các ngươi còn sống hay đã chết. Những người này nghe tiếng kêu hỏi, lên tiếng trả lời: “Mạng tôi nay còn đây.” Trời Na La Diên Tôn sai Ðại Lực Tinh Tấn cứu khổ nạn tới, trời kia liền pháp hoại hang đồng cùng bảy lớp cửa, khi ấy các tiểu vương ở tại hang đồng, liền được thoát nạn trói buộc mà thấy trời Na La Diên

Bấy giờ những người lòng toan suy nghĩ, Ðại Lực A Tô La Vương kia đã chết rồi ư? Hay lại ở đâu hay chết phương nào? Những Sát đế lợi lại nói lên rằng: Tôi thà cùng họ đối địch giết nhau chết mà còn có đất, chứ không chịu trói cột thế này đến phải chết, tôi nay sẽ y pháp Sát đế lợi cùng họ chiến đấu giết nhau, giả như có chết tại nơi đất ấy cũng được sanh Thiên. Giờ các Tiểu vương nơi tại nhà mình bày biện xe giá, yên cương dây ngựa, tay cầm dùi gậy muốn đại chiến đấu. 

Bấy giờ, trời Na La Diên hiện Bà la môn thân hình lùn xấu, mặc áo giáp da, quấn quanh nơi vai, trong tay nắm cầm chĩa ba cây nhọn, làm vật tùy thân, qua đến cửa con. Khi ấy kẻ giữ cửa bảo người kia rằng: Không nên vào cửa này, người ông hèn xấu, chớ có vào trong. Bà la môn nói: Tôi nay từ xa mà qua đến đây. Kẻ giữ cửa hỏi Bà la môn rằng: Ông từ đâu đến? Bà la môn đáp: Tôi là Ðại Tiên Nhơn làm Quốc vương xứ Nguyệt Thị, từ đó mà đến đây. Bây giờ kẻ giữ cửa đến chỗ Ðại Lực A Tô La Vương nói: Người ấy nay đến đây để làm gì? Người giữ cửa nói: Tôi nay không biết họ đến làm gì? Ðại Lực A Tô La Vương bảo rằng: Ngươi đi kêu Bà la môn đến. Người giữ cửa vâng lệnh gọi Bà la môn vào trong. Ðaị Lực A Tô La vương thấy rồi liền mời ngồi tòa báu. Kim Tinh là thầy đã được A Tô La Vương hầu hạ phụng sự ở trong đó, bảo Ðại Lực A Tô La Vương rằng: Nay Bà la môn này là người đại ác, lại đến đây quyết định phá hoại thầy ông. Nay sao biết ư? Bảo rằng: Tôi nay biết đó. Sao biết thân ta đã hiện ấy là trời Na La Diên? Ðã nghe thấy rồi tâm liền suy nghĩ. Con làm huệ thí thì không phản phúc, nay đến chướng nạn phá hoại nơi con. Ðại Lực A Tô La nói: Con miệng biện tài cần gì hỏi Bà la môn: Ông đến chỗ tôi là có ý gì? Bà la môn đáp: Tôi đến xin vua hai dặm đất. A tô La bảo Bà la môn rằng: khanh cần xin hai dặm đất, tôi sẽ cho khanh đất kia ba dặm. Trước lấy bình vàng trao nước tịnh thủy, bảo rằng cần đất khanh sẽ thọ lấy. Bà la môn thọ rồi mà chúc nguyện an vui trường thọ

Bấy giờ Bà la môn biến mất thân hìn xấu xí. Lúc ấy Kim tinh bảo A Tô La Vương rằng: Ông nay sẽ chịu ác nghiệp quả báo. Bây giờ trời Na La Diên thoạt nhiên hiện thân, trên vai gánh hai vầng nhật nguyệt tay cầm gươm bén, tay bưng luân báu cung tên cây gậy. Khi ấy Ðại Lực A Tô La Vương bỗng nhiên thấy rồi giựt mình run sợ, thân người té xỉu mê man dưới đất, giây lâu mới tỉnh, nay phải sao đây! Ta thà tự vẫn thuốc độc mà chết ư? Khi ấy trời Na La Diên đang đo số đất chỉ còn hai dặm chứ không có nữa, chẳng đủ ba dặm trái lời hứa trước, tôi nay làm? Na La Diên nói với vua rằng: Nay phải nên theo lời tôi chỉ bảo. Lúc đó, Ðại Lực A Tô La Vương thưa rằng: Tôi xin vâng lời chỉ giáo. Trời Na La Diên nói: Ngươi thật ấy ư? Ðại Lực A Tô La Vương thưa: Tôi như thật vậy. Ðây là lời thành thật tôi không hối tiếc

Thời ấy con y Bà la môn giáo, làm chỗ tác pháp đều bị phá hoại những của cải đã có, vàng bạc trân báu, đồng nữ trang nghiêm, y phục linh báu, tàn lọng, phất mầu, bảo tòa sư tử, trâu vàng nghiêm báu, cùng các quý khác trang nghiêm đầy đủ. Bấy giờ tiểu vương cùng thảy các chúng đều thọ nhận lấy, tức thời ra khỏi nơi chỗ tác pháp Ðại Lực A Tô La vơng. 

Vua Ðại Lực A Tô La bạch Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát rằng: Con nay tâm hằng suy nghĩ, vì khi xưa kia y pháp Bà la môn, làm đại hội bố thí, việc bố thí của con thật mê muội sai lầm. Con nay và các quyến thuộc, vì thế bị cầm giữ trong hang sắt này, chịu đại khổ não. Ngài Quán Tự Tại! Con nay xin quy y, mong Ngài thương xót, cứu thoát chúng con khỏi khổ nạn. Rồi làm lời khen rằng: 

Quy mạng Ðại Bi Liên Hoa Thủ

Ðại Liên Hoa Vương đại Cát Tường

Các thứ trang nghiêm diệu sắc thân, 

Ðầu đội mão trời trang nghiêm các báu. 

Ðảnh đội Di Ðà nhất thiết trí

Cứu độ hữu tình hằng vô số

Người thì bịnh khổ cầu an vui, 

Bồ Tát hiện thân làm thầy thuốc. 

Mắt sáng mặt trời nơi đại địa

Tối thượng thanh tịnh mắt mầu nhiệm

Chiếu soi hữu tình được giải thoát

Ðược giải thoát rồi diệu tương ưng

Cũng như như ý ma ni bảo, 

Hay hộ chơn thật diệu Pháp Tạng

Thường hằng nói sáu Ba la Mật

Xương dương pháp ấy đủ đại trí

Con nay khẩn thiết đến quy y

Khen ngợi Ðại Bi Quán Tự Tại

Hữu tình nhớ niệm danh Bồ Tát

Lìa khổ giải thoát được an vui. 

Tạo gây ác nghiệp đọa Hắc Thằng

đại A Tỳ địa ngục đạo

Có các ngã quỷ nơi khổ thú, 

Sợ sệt xưng danh đều giải thoát

Như vậy ác đạo các hữu tình

Thảy đều lìa khổ được an vui. 

Nếu người hằng niệm Ðại Sĩ danh, 

Sẽ được vãng sanh cõi Cực Lạc

Thấy Phật Như Lai Vô Lượng Thọ

Ðược nghe diệu pháp chứng Vô Sanh

Lúc ấy Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát thọ ký cho Ðại Lực A Tô La Vương: Ông đời vị lai sẽ được thành Phật, hiệu rằng Cát Tường Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Ông ở thời ấy sẽ chứng sáu chữ Ðại Minh của môn Tổng Trì. Nay đây tất cả các A Tô La Vương, ở đời sau ông đều cứu độ. Tất cả hữu tìnhcõi Phật như vậy, 

không còn có tiếng tham sâm si. Bây giờ Ðại Lực A Tô La Vương đã được thọ ký rồi, liền lấy trân châu anh lạc giá trị trăm ngàn cùng các thứ diệu báu mầu nhiệm trang nghiêm, trăm ngàn muôn số mão trời vàng ngọc vòng tai, dâng lên nguyện mong thọ nhận. 

Lúc bấy giờ Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát bảo Ðại Lực A Tô La Vương rằng: Ta nay vì ông nói pháp, ông hãy lắng nghe mà suy nghĩ, đời ngườivô thường giả tạm, mạng căn khó bền lâu, trong tâm các ông thường suy nghĩ tham đắm đầy đủ đại phước đức, lòng thì thường mến nhân dân tôi tớ, cho đến lúa nếp kho lẫm và kho tàng của báu. Tâm thường luyến cha mẹ, vợ con, cho đến các quyến thuộc, những thứ như vậy tuy hằng thương yêu nhưng chỉ như chiêm bao đã thấy, khi mạng chết rồi không thể thay nhau cứu được. Mong được sống lâu ở Nam Thiệm bộ này, do điên đảo đó nên sau khi mạng chung, thấy sông Nại Hà máu huyết tràn đầy, lại thấy cây lớn lửa hừng cháy mạnh. Thấy việc ấy rồi tâm sanh khiếp sợ, khi ấy Diêm Ma ngục tốt lấy dây cột trói, vội vã dắt đi trên đường lớn đầy chông dao bén nhọn. Mỗi cất bước đi là chẻ cắt đứt thương, có vô số chim la la, chim thứu hung tợn và những chó dại gầm rú ăn thịt. Ở tại địa ngục chịu cảnh cực khổ kia, trong đường đi lớn đầy dao nhọn bén, lại còn có những cây gai nhọn dài đến mười sáu ngón tay, mỗi bước có năm trăm mũi dao nhọn đâm vào bàn chân, đau đớn khóc than kêu gào thảm thiết mà nói rằng: Những hữu tình chúng tôi đều ưa tạo tội nghiệp, nay phải chịu đại khổ, tôi nay biết làm thế nào? Khi ấy Diêm Ma ngục tốt bảo rằng: Ngươi từ xưa đến nay chưa từng đem cơm cúng dường cho các bậc Sa Môn, cũng chưa từng nghe những tiếng pháp âm thâm diệu hòa nhã, chưa từng đi nhiễu tháp tượng Phật. Khi ấy các tội nhơn bảo Diêm Ma ngục tốt rằng: Tôi là tội chướng đối với Phật, Pháp, Tăng, không cung kính tín hiểu mà thường xa lìa. Ngục tốt bảo rằng: Chính ngươi đã tự tạo các ác nghiệp, nay phải chịu khổ báo, ngục tốt đem các tội nhơn ấy đến chỗ vua Diêm Ma, đến rồi đứng trước mặt. Khi ấy vua Diêm Ma nói rằng: Ngươi đi đến ở nơi chỗ nghiệp báo. Khi ấy Diêm Ma ngục tốt lãnh dắt tội nhân bỏ vào đại địa ngục Hắc Thằng, đến rồi các tội nhơn ấy bị ném bỏ vào trong địa ngục, đã ném vào rồi, mỗi một tội nhơn đều bị trăm vết thương, thân thể vị dùi cắt mạng đều không chết. Lại bị hai trăm vết thương lớn, thân thể đều bị dùi cắt mạng cũng không chết. Lại có ba trăm vết thương lớn, đồng thời dùi cắt thân mạng kia cũng không chết, mạng vẫn còn sống. Khi ấy đem ném vào hầm lửa lớn mạng cũng không chết. Lúc ấy lại lấy cục sắt nóng nhét vào trong miệng tội nhơn bắt phải nhai nuốt, môi răng lưỡi nứu, cổ và yết hầu đều bị cháy nát, cả tim gan ruột bụng cũng đều bị nướng, khắp thân cháy hoại như rang khô. Quán Tự Tại dạy Ðại Lực A Tô La Vương rằng: Khi chịu những cái khổ đó không một ai thay nhau cứu được, ngươi nên biết vậy. Ta nay vì ngươi nói pháp đó, các ngươi phải đem thân tự mình làm phước. Bấy giờ Ngài Quán Tự Tại bảo Ðại Lực A Tô La Vương rằng: Ta nay muốn đến rừng cây Kỳ Ðà, ngày nay ở tại đó đại chúng đang nhóm hội. 

Khi ấy Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát phóng vô số sắc hào quang sáng: Hào quang sắc xanh, hào quang sắc vàng, hào quang màu hồng, hào quang màu trắng, hào quang màu pha lê, hào quang màu sắc sáng màu vàng kim … Những hào quang đó chiếu đến trước đức Tỳ Xá Phù Như Lai. Bấy giờ trời, rồng, dược xoa, la sát bà, Khẩn Na La, Ma Hộ La nga và các người cùng thảy đều nhóm hội. Lại có vô số đại Bồ Tát cũng đến nhóm hội. Trong chúng ấy có một vị Bồ Tát tên là Hư Không Tạng từ chỗ ngồi đứng dậy sửa y áo trịch vai bên hữu, gối hữu sát đất, chấp tay cung kính hướng về đức Thế Tônbạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Hào quang sáng này là từ đâu đến? Phật dạy: thiện nam tử! Hào quang sáng ấy là của Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát ở trong cung Ðại Lực A Tô La Vương phóng ra đến đây. Bấy giờ Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: con nay làm cách nào để có thể thấy Ngài Quán Tự Tại kia? Phật bảo: Thiện nam tử! Bồ Tát kia Ngài sẽ đến đây. 

Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát khi ra khỏi vương cung Ðại Lực A Tô La, vườn cây Kỳ Ðà bỗng nhiên hiện cây Thiên Diệu Hoa, cây Thiên Kiếp Ba, lại có vô số chư Thiên đẹp đẽ sắc tướng trang nghiêm, trên cây treo trăm thứ chơn châu chuỗi ngọc anh lạc, các thứ Kiều Thi Ca y rất đẹp và các thứ y phục khác. Cây nhánh đều là sắc thẫm hồng, vàng bạc thì làm lá. Lại có vô số cây hương thơm vi diệu và những cây hoa nhiệm mầu, vô số ao báu trong ao báu ấy có trăm ngàn muôn sắc diệu hoa xen nhau tỏa khắp mùi hương. Khi cảnh xuất hiện ra những điều như vậy, Ngài Hư Không Tạng bồ tát bạch đức Thế Tôn rằng: Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát nay ở đâu mà chưa thấy đến? 

Phật dạy: Thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại từ vương cung Ðại Lực A Tô La ra rồi, lại có một chỗ gọi là Hắc Ám, không người năng đến. Thiện nam tử! Chỗ Hắc Ám kia ánh sáng mặt trời mặt trăng không thể chiếu thấu, có như ý bảo gọi là tùy nguyện, ở trong đó thường khi pháp ra ánh sáng chiếu soi, nơi ấy có vô số trăm ngàn Dược Xoa an trú. Khi thấy Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát đi vào, lòng chúng quá vui mừng nhảy nhót hớn hở, đến chiêm ngưỡng nghinh đón Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, đầu mặt lễ sát chân mà thưa hỏi rằng: Bồ Tát nay vào đây không mệt nhọc ư? Lâu nay không thấy đến chỗ Hắc Ám này? Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát nói: Ta vì cứu độ các hữu tình nên đến đây. Bây giờ chúng Dược Xoa, La Sát đem tòa sư tử Thiên Kim Bảo mà thỉnh Ngài an tọa. Bồ Tát liền vì Dược Xoa, La Sátthuyết pháp: Các ngươi nên lắng nghe! Có kinh Ðại Thừa tên Trang Nghiêm Bảo Vương. Nếu có người được nghe một bài kệ bốn câu mà hay thọ trì đọc tụng, giải nói nghĩa lý, tâm thường suy nghĩ sẽ được phước đức không có hạn lượng. Thiện nam tử! Vi trần đã có, ta có thể đếm số lượng được. Thiện nam tử! Nếu có người đối với kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương này có thể thọ trì một bài kệ bốn câu thì phước đức kia ta không thể đếm số lượng. Như nước biển lớn, ta có thể đếm từng giọt một. Ðối với kinh này mà thọ trì một bài kệ bốn câu, phước đức ấy ta không thể tính số lượng được. Giả sử mười hai Căng già ha sa số Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, trải qua mười kiếp đều ở một chỗ, thường lấy y phục, ngọa cụ, thuốc thang, đồ ăn uống và các món cần dùng khác dâng cúng chư Phật, cũng không thể nói hết số lượng phước đức kia được. Chẳng những chỉ mình ta ở chỗ Hắc Ám mà nói không thể hết. Thiện nam tử! Lại nữa, người trong bốn châu lớn mỗi ngươì tự mình xây dựng nhà cửa, tạo lập tịnh xá, trong đó lấy toàn vàng báu cõi trời tạo dựng ngàn tháp nhiều tầng (Suất Ðổ Ba), trong một ngày hết thảy thành tựu các công đức cúng dường, không bằng đối với kinh này mà thọ trì đọc tụng một bài kệ bốn câu. Thiện nam tử! Như năm sông lớn dẫn nước về đại hải, những dòng nước như thể khôngcùng tận. Nếu có người hay thọ trì kinh Ðại Thừa này bốn câu kệ thì phước đức thu được cũng bất tận vậy. 

Bấy giờ Dược Xoa, La sát bạch Ngài Quán Tự Tại rằng: Nếu có hữu tình mà hay biên chép kinh Ðại Thừa này thì phước đức kia thế nào? Thiện nam tử! Phước đức ấy vô cùng vô tận. Nếu có người hay biên chép kinh này, cùng với người biên chép tám vạn bốn ngàn pháp tạng phước đức ấy bằng nhau. Người đó sẽ được địa vị Chuyển luân Thánh vương, thống lãnh bốn đại châu oai đức tự tại, diện mạo đoan nghiêm, ngàn thiên nữ vây quanh hầu hạ, tất cả kẻ địch tự nhiên thần phục. Nếu có người chỉ thường niệm danh hiệu kinh này, ngươì đó mau được giải thoát khổ báo luân hồi, xa lìa già chết, ưu bi khổ não. Người đó sau khi sanh nơi nào cũng nhớ được túc mạng đời trước, thân thường có mùi thơm ngưu đầu chiên đàn, trong miệng thường tỏa ra mùi thơm hoa sen xanh, thân tướng viên mãn, đầy đủ đại thế lực.

Khi thuyết pháp rồi, các Dược xoa, La sát có kẻ chứng được Thánh quả Dự lưu. Trong đó hoặc có kẻ đắc quả Nhất lai mà nói lên lời như thế này: Cầu xin Bồ Tát ở lại chỗ này chớ đi nơi khác. Con nay ở chỗ Hắc Ám này, lấy vàng báu tạo chỗ kinh hành. Khi ấy Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát dạy rằng: Ta vì cứu độ vô số hữu tình khiến được đạo Bồ đề cho nên muốn đi nơi khác. Lúc ấy các Dược xoa, La sát đều cúi đầu, lấy tay chống má bồi hồi, lòng càng lưu luyến mà nghĩ như thế này: Nay Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát bỏ đây mà đi, sau này ai vì chúng ta nói pháp vi diệu

Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát ở đây ra đi, các Dược xoa, La sát đều đi theo mà đưa tiễn. Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát bảo rằng: Các ngươi đưa đi xa rồi nên trở về chỗ. Các Dược xoa, La sát đầu mặt sát đất đảnh lễ bên chân Ngài Quán Tự Tại rồi mới trở về chỗ cũ. 

Khi ấy Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát cũng như ánh lửa xẹt lên hư không, đến thẳng cung trời, đến cung trời Ngài hiện thânBà la môn. Trong các thiên chúng kia, có một vị Thiên tử gọi là Diệu Nghiêm, mà lại thường chịu khổ báo nghèo cùng. 

Bấy giờ Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát hiện thân Bà la môn đến chỗ Thiên tử đó, đến rồi bảo rằng: Tôi bịnh hoạn đói khát và lại mệt nhọc. Lúc ấy Thiên tử khóc than mà bảo Bà la môn rằng: Tôi nay nghèo thiếu không có vật chi để dâng. Bà la môn nói tôi rất cần xin đem biếu tôi chút ít phần. Thiên tử lúc ấy gắng gượng vào cung tìm tòi coi có vật chi, thoạt tiên thấy các đồ đựng báu lớn, lại có các thứ quý báu khác đựng đầy trong đó. Lại có đồ quý trong ấy đựng đầy thức ăn uống thượng vị. Lại có thượng diệu y phục để trang nghiêm nơi thân đầy khắp trong cung. Lúc đó Thiên tử lòng toan suy nghĩ: Bà la môn ngoài cửa phải là người không thể nghĩ bàn, khiến tôi được phước thù thắng phi thường, phải mời vị đại Bà la môn kia vào trong cung điện. Vua đem những đồ quý báu và các thức ăn uống cao lương mỹ vị cúng dường. Thọ lãnh đồ cúng dường rồi vị Bà la môn chúc vua an vui trường thọ

Bấy giờ Thiên tử bạch Bà la môn rằng: Hiền giả từ phương nào đến đây? Bà la môn nói: Tôi từ trong đại tịnh xá rừng cây Kỳ Ðà mà đến đây. Thiên tử hỏi rằng: Chỗ đó thế nào? Bà la môn bảo: Tịnh xá ở trong rừng cây Kỳ Ðà, nơi ấy thanh tịnh, xuất hiện ma ni báu trời và cây Kiếp Thọ trang nghiêm. Lại hiện ra các thứ ma ni quý báu khác lòng rất ưa thích. Còn hiện ra các thứ ao báu. Lại có vô số các vị đại chúng giới đức oai nghiêm đầy đủ đại trí tuệ, cùng xuất hiện trong đó. Ở đó có Ðức Phật hiệu Tỳ Xá Phù Như Lai. Nơi ấy là chỗ Thánh Thiên an trụ, có việc biến hóa xuất hiện như thế. Bấy giờ Thiên tử bạch hiền giả rằng: Thế nào Ngài đại Bà la môn nên nói thật Ngài là trời hay là người? Hiền giả! Làm sao lại xuất hiện các việc ấy? Bà la môn nói: Tôi chẳng phải trời chẳng phải ngươì. Tôi là Bồ Tát vì muốn cứu độ tất cả hữu tình, thấy được đại Bồ Tát đạo. Thiên tử nghe rồi liền lấy Thiên diệu mão báu, vòng tay ngọc quý trang nghiêm đem dâng cúng dường, nói kệ khen rằng: 

Con gặp được công đức, xa lìa các tội lỗi

Như nay trồng ruộng tốt, hiện chắc được quả báo

Khi Thiên tử nói kệ rồi, vị Bà la môn kia việc hóa độ đã xong mà liền ra khỏi Thiên cung. Liền khi ấy qua nước Sư Tử. Ðến nơi đứng trước mặt các nữ La sát, hiện thân tướng đẹp đẽ trang nghiêm lạ kỳ. Các La sát nữ thấy vẻ đẹp ấy khởi lên dục tâm, đem lòng hâm mộ, bước đến gần mà bảo rằng: Ông có thể làm chồng tôi, tôi là gái trẻ đẹp, chưa từng sính đôi, mong được làm chồng tôi, nay đã đến đây chớ đi nơi khác, như người vô chủ mà lại được chủ, nhà nhà tối gặp đèn sáng, tôi này giàu có kho lẫm chứa đầy đồ ăn, thức uống, y phục và có vườn đầy trái ngon ngọt, có ao tắm trong mát vừa lòng. Vị Bà la môn bảo bọn nữ La sát rằng: Các ngươi nên lắng nghe ta nói. La sát nữ thưa: Xin nghe lời chỉ dạy. Bà la môn bảo: Ta nay vì các ngươi nói pháp Bát Thánh Ðạo và nói pháp Tứ Thánh Ðế … Bây giờ bọn nữ La sát nghe pháp rồi, đều được chứng Thánh quả, có người được quả Dự lưu, có người được quả Nhất lai, không còn khổ tham sân si, không khởi ác tâm, không ý giết hại sinh mạng, lòng mến chánh pháp , vui trọn nơi giới. Bọn La sát nói: Chúng tôi từ nay trở đi không dám giết hại, như người Nam Thiệm Bộ châu giữ gìn giới luật, sống đời trong sạch, ăn uống thanh tịnh. Chúng tôi từ nay nguyện sống cuộc đời như vậy. Thế là bọn nữ La sát không còn tạo nghiệp ác nữa và giữ giới thanh tịnh

Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát ra khỏi nước Sư Tử, lại qua đại thành Ba La Nại. Chỗ ấy xấu xa nhơ nhớp, có vô số trăm ngàn vạn loại sâu giòi chen sống nơi ấy. Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát vì muốn cứu độ các hữu tình kia nên hiện ra con ong bay đến miệng phát ra tiếng: “NẴNG MỒ MỘT ÐÀ DÔ (Nam Mô Phật Ðà Da), các loài trùng nghe tiếng ấy, cùng nhau lên tiếng như thế. Do sức oai lực ấy, loài sâu trùng kia, thân kiến tuy chấp như núi cao và đầy các tùy hoặc phiền não, trí Kim Cang xử đều phá hoại tất cả, liền được vãng sanh về Cực Lạc thế giới, đều làm Bồ Tát đồng danh Diệu Hương Khẩu. 

Ở đó Ngài cứu độ các loài hữu tình kia rồi, Ngài Quán Tự Tại liền ra khỏi thành Ba La Nại, qua đến nước Ma Dà Ðà. Khi ấy trong nước gặp trời nắng hạn hơn hai mươi năm. Ngài thấy dân chúng và các hữu tình đói khát khổ não, đều ăn thịt lẫn nhau. Lúc ấy Bồ Tát Quán Tự Tại suy nghĩ: “Lấy phương pháp gì để cứu hữu tình này?”. Bây giờ Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát giáng xuống những trận mưa, nước mưa thấm ướt khắp hết những nơi khô khan. Sau tiếp mưa rơi đầy các thứ đồ đựng, nước trong mỗi đồ đựng biến thành những món ăn thức uống ngon ngọt, các người kia được ăn uống no đủ. 

Khi ấy Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát lại giáng xuống những trận mưa hạt giống như lúa, mè, đậu, bắp cùng các thứ khác cần dùng. Những người nơi đó thọ dụng tùy ý đầy đủ. Bây giờ tất cả nhân dân trong nước Ma Dà Ðà lấy làm kinh ngạc chưa từng có. Dân chúng nhóm hội một chỗ, đã khi đang nhóm họp các người đồng nói lên rằng: Oai lực của trời nay vì sao lại đến như thế? Trong đám dân chúng ấy có một cụ già lưng khòm, tay chống gậy, người này sống lâu vô số trăm ngàn tuổi, bảo các người rằng: Chẳng phải oai lực trời đâu! Nay đã hiện ra thế này, chắc là oai thần biến hiện của Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát. Các người hỏi rằng: Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát kia làm thế nào mà xuất hiện ra điềm tốt ấy? Ông già nói: “Ngài Thánh Quán Tự Tại dùng oai thần lực biến tối tăm thành đèn sáng, biến trời nóng bức thành bóng che mát, nơi nào thiếu khát hiện ra dòng sông, nơi nào sợ sệt liền ban vô úy, bịnh khổ bức bách hiện thầy thuốc hay, hữu tình thọ khổ biến làm cha mẹ, khiến chúng sanh trong A Tỳ địa ngục thấy được đạo Niết Bàn, hay khiến tất cả hữu tình trong thế gian đều được công đức, lợi ích an vui. Nếu có người niệm danh hiệu Ngài Quán Tự Tại thì người đó tương lai xa lìa tất cả khổ não luân hồi. Những ngươì nghe rồi đều nói lành thay! Nếu có người ở trước tượng Ngài Quán Tự Tạikiến lập đàn vuông (Mạn noa la), thường dùng hương hoa cúng dường Bồ Tát Quán Tự Tại, người đó sẽ được Chuyển luân Thánh vương, có bảy báu đầy đủ như: Kim luân báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, nữ báu, chủ kho tàng báu, chủ binh báu. Ðược bảy báu như thế. Nếu có người đem dâng một cành hoa cúng dường Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thì thân ngươì đó tiết ra mùi thơm, sanh vào nơi nào thân tướng cũng đầy đủ. 

Ông già ấy sau khi kể công đức thần lực của Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát rồi thì cùng với các người khác trở về chỗ ở. 

Bấy giờ, Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát bay lên hư không suy nghĩ: “Ta lâu không thấy đức Tỳ Xá Phù Như Lai, nay trở về rừng cây Kỳ Ðà nơi trong tịnh xá để thấy đức Thế Tôn”. Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát liền trở về tịnh xá, thấy có vô số trăm ngàn vạn trời, rồng, 

Dược xoa, Ngạn đạt phạ, A Tô la, Nghiệt lỗ noa, Khẩn Na La, Ma hộ la nga, người và chẳng phải người. Lại có vô số trăm ngàn vạn Bồ Tát đều đang nhóm hội. Lúc ấy Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Vị đến đây là Bồ Tát nào? Phật dạy: Thiện nam tử! Ðó là Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát. Khi đó Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát ngồi lặng thinh. Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát nhiễu quanh Phật ba vòng rồi trở về bên trái mà ngồi. Bấy giờ đức Thế Tôn an ủi mà nói rằng: Ông không mệt nhọc ư? Thiện nam tử! Ông ở các nơi làm việc giáo hoá thế nào? Ngài Quán Tự Tại liền kể hết những việc giáo hoá đã qua, tôi đã cứu độ hữu tình như vậy. Như vậy! Lúc ấy Hư Không Tạng nghe rồi tam ngạc nhiên chưa từng có: Nay tôi thấy Quán Tự Tại còn làm Bồ Tát mà có thể cứu độ những quốc độ hữu tình như thế, những hữu tình trong những quốc độ ấy nay đã làm Bồ Tát được thấy Như Lai như thế. Khi đó Hư Không Tạng Bồ Tát đứng trước Ngài Quán Tự Tại mà thưa hỏi Quán Tự Tại rằng: Hóa độ như vậy không mệt nhọc ư? Quán Tự Tại Bồ Tát nói: Tôi không mệt nhọc, thưa hỏi rồi yên lặng mà ngồi. 

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn gọi thiện nam tử rằng: “Các ông hãy lắng nghe, tôi nay vì ông nói sáu pháp Ba la mật đa. Thiện nam tử! Nếu làm Bồ Tát, trướcc phải tu hạnh bố thí Ba la mật đa, sau tu các hạnh Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền Ðịnh, Trí tuệ Ba la mật đa, tất cả được viên mãn như vậy. Nói pháp xong đức Thế Tôn yên lặng mà an trụ. Bấy giờ trong chúng hội ai nấy đều trở về chỗ cũ, các chúng Bồ Tát cũng trở về nơi các cõi Phật Sát. 

Nam Mô Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)

Phật nói kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương.

  (HẾT QUYỂN HAI) 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17057)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13111)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17275)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21509)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13112)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14298)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12709)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13534)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28439)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23249)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34163)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28731)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32029)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11234)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 11903)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26129)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17242)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14428)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34302)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13021)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12193)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13299)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40354)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26789)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14372)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13145)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13358)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12419)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13029)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12201)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11683)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12472)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17549)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12110)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12644)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18331)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14166)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12885)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11214)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12042)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13381)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10744)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 10990)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10192)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28715)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25079)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26752)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25578)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18545)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 22864)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34327)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 31985)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30232)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30485)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 20852)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20094)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19291)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24280)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30482)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15582)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant