Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

3. Nghi quỹ niệm tụng

31 Tháng Năm 201100:00(Xem: 16021)
3. Nghi quỹ niệm tụng

BỘ MẬT TÔNG (Bốn Tập)
Dịch Giả: Tỳ Khưu Thích Viên Đức

C. TẬP BA 
KINH CHUẨN ÐỀ ÐÀ LA NI HỘI THÍCH

THẤT CÂU CHI PHẬT MẪU
SỞ THUYẾT ÐÀ LA NI KINH HỘI THÍCH
Quyển Thượng
Ðời Thiên Trúc, Ngài Tam Tạng Pháp Sư Quảng Trí Bất Không 
phụng chiếu dịch Phạn ra Hán văn.
Thanh Việt Ðông, Ðảnh Hổ Sơn, Ngài Ca Môn Hoằng Tán 
phát Bồ Ðề tâm hội thích (gồm thâu các bộ mà giải thích).
Tỳ Khưu Thích Viên Ðức dịch Hán ra Việt.

 

THẤT CÂU CHI CHUẨN ÐỀ ÐÀ RA NI 
NGHI QUỸ NIỆM TỤNG 

Ngài Kim Cang Trí dịch: Y kinh Phạn bản có mười vạn bài kệ. Nay tôi lược nói thứ lớp, niệm tụng, quán hạnh, cúng dường. Nếu có bốn chúng đệ tử, phát Bồ đề tâm, tu Bồ Tát hạnh, cầu mau ra khỏi sanh tử; trước phải nhập Tam ma đa quán đảnh đạo tràng, thọ trì giới cấm bền chắc không lui, ham thích Ðại Thừa giới hạnh Bồ Tát. Trong bốn oai nghi, tu bốn vô lượng tâm (từ bi hỷ xả), phát bốn hoằng thệ nguyện (chúng sanh không số lượng thề nguyện đều độ khắp, phiền não không cùng tận thề nguyện đều dứt sạch, pháp môn không kể xiết thề nguyện đều tu học, Phật đạo không gì hơn thề nguyện được viên thành). Cầu ra khỏi tam đồ, đối với tất cả sự nghiệp, tâm không tán loạn mới có thể thức hạnh pháp môn bí mật này.

Nếu có người tu tập Ðà Ra Ni này cầu thành tựu, trước cần tắm rửa sạch sẽ, nên mặc y thanh tịnh.

GIẢI: Kinh Tô Thất Ðịa nói: Ba thời tắm rửa, đầy đủ ba y. Cái áo trong mỗi ngày phải giặt ba lần, áo ấy phơi khô xông hương sái tịnh, phải có bộ áo riêng để mặc ngủ, còn bộ y áo giặt sạch để đó, ba thời thay đổi, áo trong thì phải mỗi ngày giặt một lần, phơi khô cũng xông hương sái tịnh. Tắm rửa tẩy tịnh và khi đại tiểu tiện đều dùng Chơn ngôn gia trì với nước mà rửa mới thật sạch. Nếu không như pháp tẩy tịnh tức không có linh nghiệm.

Ở trong Căn Bản Tạp Sự Luật, Phật có dạy: Nếu Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Sa Di, Sa Di Ni, lấy ta (Phật) làm thầy, thảy đều phải tẩy tịnh đúng như pháp; nếu không tẩy tịnh, không nên nhiễu tháp, hành đạo, lễ Phật, tụng kinh. Chư Thiên không vui, việc gì chú pháp đều không hiệu nghiệm và nếu trai tăng cúng dường, chép kinh, tạo tượng thì cũng được phước rất ít v.v… Phép tẩy tịnh đầy đủ như trong luật có chép. Kinh Tô Thất Ðịa nói phép tẩy tịnh đều đồng, nhưng chỉ dùng chú ấn và tắm rửa, tẩy tịnh, khứ uế, rửa tay mỗi mỗi đều có Thần chú đủ như trong các chỗ khác, nên biết. Trì Minh Tạng Nghi Quỹ nói: Lại tụng Cam Lồ Quân Trà Lợi Bồ Tát Tâm Chơn ngôn gia trì trong nước ba bụm (ba gáo) dùng rửa tự trên đảnh đầu, tức thành tắm rửa.

Chơn ngôn: Úm A Mật Lị Ðế Hồng.

Lại tụng 21 biến gia trì trong nướ dùng sái tịnh và khiến đuổi ma chướng, vậy sau tùy ý tắm rửa, dùng khăn lau cũng phải sạch sẽ, lại rửa hai tay cho thật sạch, xong rồi mới vào đạo tràng gần gũi hiền Thánh; phàm kiết ấn phải dùng hương thoa nơi tay.

Nghiêm sức đạo tràng an trí Bổn Tôn (tượng Chuẩn Ðề) tùy sức bày biện, pháp kiến lập đạo tràng, nên lựa chỗ đất thù thắng, làm đàn bốn thước cuốc sâu ba tấc.

GIẢI: Phải trang nghiêm đạo tràng tùy sức bày biện, tràng phan, bảo cái, hương, hoa, ẩm thực v.v… Thắng địa như sau sẽ rõ. Ngài Kim Cang Trí dịch: Ðông, Tây, Nam, Bắc, lượng mỗi bề lấy bốn thước, làm đàn vuông cuốc sâu một thước.

Trừ bỏ gạch đá đất dơ, tóc lông và xương cốt, tro than, trùng kiến v.v… Lấy đất tốt sạch lấp đầy, đắp bằng. Cuốc bỏ đất dơ, lấy đất cũ ấy lấp nếu thấy có dư, phải biết chỗ đất ấy là đại kiết tường, mau chóng thành tựu, lấy đất tốt còn lại với Cù ma di, dùng nước hương thơm hòa với đất tốt làm bùn, tụng Vô Năng Thắng Bồ Tát Chơn ngôn gia trì 21 biến, nhiên hậu mới đắp đàn. Ðắp rồi lấy năm món tịnh hòa lại với nhau.

Năm món tịnh ấy là: Cù ma di (phân trâu thơm ở Tuyết sơn bên Ấn Ðộ), nước nhựa ngưu thỉ (nước tiểu trâu thơm), sữa chưng chín, sữa tươi, bơ. Các bộ khác bảo lấy ngưu huỳnh đó gọi là ngũ tịnh.

Dùng Vô Năng Thắng Bồ Tát Chơn ngôn gia trì 108 biến, mỗi biến quay phía hữu mà thoa đắp đàn tràng.

GIẢI: Phạn ngữ Mạn Ðà La (Ma Da La), Trung Hoa nói là Ðàn. Ðàn ấy là sanh vậy, nghĩa là xuất sanh vô tận công đức. Ðàn ấy là tập vậy, là chỗ vô biên Thánh Hiền tập hội. Như vậy đàn pháp chính là thần dụng không thể nghĩ bàn của chư Phật, chớ nên sanh lòng nghi hoặc, y pháp kết đàn, sở cầu quyết được như nguyện.

Nếu ở tại núi non trên hang đá kiến lập đàn, hoặc tại lầu các, hoặc trên thuyền, được chỗ đạo xứ của tất cả hiền Thánh thì chỉ lấy năm món tịnh thoa đắp.

GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch: Nếu ở nơi núi non và nhà thanh tịnh tốt không cần phải thoa đắp y như trước. Cần nên treo tràng phan, bảo cái bốn mặt, nếu có hình tượng Chuẩn Ðề Phật Mẫu an trí trong đàn, mặt Ngài xây hướng Tây, nếu không có tượng Bổn Tôn Chuẩn Ðề, có các tượng Phật, Xá lợi và Ðại Thừa kinh điển cúng dường cũng được.

Hành giả xây mặt về hướng Ðông, ngồi kiết Vô Năng Thắng ấn, đè đất tụng Chơn ngôn 7 biến gia trì giữa trung tâm đàn. Lại lấy các món thuốc, thất bảongũ cốc, mỗi thứ một ít, cuốc đất giữa trung tâm đàn sâu một thước để các thuốc và thất bảo. Lại lấy đất cũ lấp đầy bằng phẳng, lấy tay hữu đè tụng địa thiên kệ ba biến, để cảnh giác địa thiên thần. Kệ viết:

Nhữ thiên thân hộ giả

Ư chư Phật đạo

Tu hành thù thắng hạnh

Tịnh địa Ba la Mật

Như phá ma quân chúng

Thích Sư Tử cứu thế

Ngã diệc hàng phục ma

Ngã họa Mạn trà la.

Dịch:

Người Trời gần hộ ta

Ở các Phật đạo

Tu hành hạnh thù thắng

Ðất tịnh đến bờ kia

Như phá các ma quân

Thích Sư Tử cứu đời

Ta cũng hàng phục ma

Ta họa vẽ Ðàn pháp

Tụng Thiên Ðịa Chơn ngôn rằng:

Nẵng mồ tam mãn đa một đà nẫm tất lị thể vi duệ ta phạ hạ.

GIẢI: Ðịa Thiên ấy là: Dạ xoa, La sát, A tu la, Long, Ca lầu la, Càn thát bà, Kiên na la, Ma hầu la già, Bộ đa, Ty xá giá, Cưu bàn trà v.v… Chơn ngôn cũng nói là Diệu ngôn: Nghĩa là từ trong tâm của chư Phật lưu xuất ra, là lời nói bí Mật chơn thật vi diệu. Tất cả chư Thiên, Ma, Phạm và nhơn vị Bồ Tát không thể nào nghĩ bàn được vậy.

Tụng kệ gia trì rồi, nhiên hậu lại lấy đàn hương đắp thoa thoa chín cái Thánh vị như mặt trăng tròn.

GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch: Mài đàn hương đắp thoa làm tám đàn cũng như trăng tròn, hoặc giống như hoa sen tám cánh, bản dịch bảo đắp thoa chín Thánh vị tức là cúng dường căn bản chín chữ Chơn ngôn Thần chú Chuẩn Ðề. Kim Cang Trí dịch: Bảo đồ thoa tám đàn để cúng dường toàn chú tám câu, hay tùy ý làm cũng được.

Lấy đồ mới sạch cúng dường đầy đủ kim ngân, thục đồng, thương khư, bối ngọc thạch, đồ sành sứ, cây gỗ thơm v.v… Ðồ đựng đầy các món ăn uống và hoa tốt hương thơm, đèn nến, ứ già hương thủy (đồ đựng nước hương thơm) tùy sức đã có sắp bày cúng dường.

GIẢI: Thương khư là cái chén bằng ốc xà cừ. Kinh Tô Thất Ðịa nói: Ba thời đồ địa (rưới nước hương thơm dưới đất) hiến dâng hoa; hương, nước, các món cúng dường, trừ bỏ hoa héo tiếp tục cúng hoa mới, đồ hiến cúng bát chén cũng ba thời thay rửa.

Nếu tại gia, xuất gia Bồ Tát cầu thành tựu, mỗi khi vào đạo tràng, trước nên lễ Phật, sám hối, tùy hỷ, khuyến thỉnh, phát nguyện. Rồi nên tự thệ thọ Bồ đề tâm giới.

GIẢI: Cứ đây, nếu Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni và tại gia đã thọ Tam quy Ngũ giới, Bát giới; khi vào đạo tràng đều cần phải tự thệ thọ Bồ đề tâm giới. Kinh Tô Thất Ðịa nói: Mỗi ngày ba thời tắm rửa thay áo, ba thời cúng dường, lễ bái, sám hối, tùy hỷ, khuyến thỉnh, phát nguyện, ba thời tụng kinh và ba thời làm Ðàn pháp, ba thời quy y thọ giới làm phép hộ thân như vậy, quyết định được thành tựu. Ngài Kim Cang Trí dịch: Cũng ba thời thọ giới, lễ Phật, sám hối, tủy hỷ mà văn thiếu khuyến thỉnh, phát nguyện. Nay lấy lễ Phật, sám hối, tùy hỷ, khuyến thỉnh, phát nguyện là năm pháp có phụ rõ nơi sau.

Chơn ngôn: Úm - Mạo địa chỉ đa mẫu đát bả, noa dả nhỉ.

GIẢI: Mạo địa cũng là Bồ đề, chỉ cũng là tức, lại là chất bả, hoặc là ma nhỉ cũng là di. Du Già giải rằng: Mạo địachỉ đa, đây nói là giác tâm, chữ mạo là chủng tử, chữ mạo ấy nghĩa đủ là tất cả pháp không còn trói buộc. Nếu hay viết trong tự thân là Bồ đề tâm, là tự tánh thành tựu ba đời bình đẳng, như hư không xa lìa tất cả tướng, thì hay rõ biết tất cả tâm hữu tình, và tâm của chư Phật cũng như tâm mình xưa nay vốn thanh tịnh, hãy khởi lên lòng đại bi thâm sâu thương xót tất cả chúng sanh, dùng các món phương tiện, khiến các hữu tình lìa khổ, được giải thoát đến cứu cánh, không buộc cũng mở. Ðó chính là tâm Bồ đề rộng lớn vậy.

Bồ đề tâm lìa tất cả ngã chấp, xa lìa Uẩn, Xứ, Giới và ly năng thủ, sở thủ, nơi pháp bình đẳng. Tự tâm vốn có không sanh, tự tánh vốn là không, cho nên quá khứ tất cả Phật, Bồ Tát đã phát tâm Bồ đề. Ta nay cũng như vậy. Ðây gọi tự thệ thọ Bồ đề tâm giới, do tụng một biến suy nghĩ Thắng nghĩa đế (nghĩa thù thắng chắc chắn) nên được vô lượng vô biên công đức vô vi trang nghiêm tam nghiệp cho đến Bồ đề đạo tràng, phước kia không gián đoạn, mau diệt tất cả nghiệp chướng, Chơn ngôn chóng thành tựu, Bổn Tôn hiện tiền. Như kinh Hoa Nghiêm phẩm Nhập Pháp Giới, đức Từ Thị Bồ TátThiện Tài Ðồng Tử nói công đức tâm của tâm Bồ đề.

GIẢI: Uẩn tức là năm uẩn, Xứ tức là mười hai nhập, Giới tức là mười tám giới, như trong các chỗ đã giải thích.

Nghi thọ Bồ đề tâm giới nói: Nay đã phát giác tâm, xa lìa các tánh, tướng, uẩn, giới và xứ v.v…năng thủ, sở thủ, chấp các pháp đều vô ngã bình đẳng. Như hư không, tự tâm vốn không sanh, không tánh viên mãn vắng lặng. Như chư Phật, Bồ Tát đã phát đại Bồ đề tâm. Con nay cũng phát như vậy (muốn xem rõ như trong Thập pháp giới phẩm).

Tự thọ Bồ đề tâm giới rồi, toàn già hay bán già tùy ý mà ngồi. Thân ngay thẳng, nhắm mắt, kiết định ấn, tượng trong hư không Chuẩn Ðề Phật MẫuThất Câu Chi Phật, đoanh vây đầy khắp hư không. Trong định lễ tất cả chư Phật và Chuẩn Ðề Phật Mẫu. Vậy sau lấy hương thoa tay mà kiết ấn pháp.

GIẢI: Trước tiên kiết định ấn, sau lại kiết ấn lễ Phật. Ðủ như sau này có chép. Ngài Kim Cang Trí dịch: An tâm ngồi định trừ tất cả vọng tưởng, quán xét chúng sanh trong sáu đường, từ vô thỉ đến giờ chìm trong biển khổ sanh tử, luân hồi nơi sáu thú. Nguyện đều phát Bồ đề tâm, tu hành Bồ Tát đạo mau ra khỏi. Tức lấy hương thoa hai tay mà kiết ấn; khi kiết ấn lấy áo y che tay lại chớ nên khiến người thấy. Trước kiết ấn Phật Bộ Tam Ma Da ấn, sau kiết các ấn.

Phật Bộ Tam Ma Da Ấn (tức là ấn Tam Muội)

GIẢI: Kinh Tô Thất Ðịa nói: Trước ở trong thất phải để tôn tượng dung nhan cân đối, hoặc Chế Ðể (tháp Xá lợi), hoặc chỉ thiết một cái tòa, khi vào mặt hướng tôn tượng, chắp tay, nép thân mình, miệng tụng Thần chú, lễ Phật cúng dường.

Thần chú: Úm - Nhập phạ lý đa lộ dả nê tra (7 biến)

Tụng rồi lại kiết ấn Tam bộ tam ma da và đọc Thần chú.

Hai tay bộng chính giữa, chấp tay lại, mở hai đầu ngón tay trỏ co vịn dưới đốt thứ nhất của hai ngón tay giữa, co hai ngón tay cái vịn đốt dưới cùng của hai ngón tay trỏ tức thành. Ðể nơi ngang ngực, tụng Thần chú 7 biến, tưởng đức Như Lai có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp, tướng tốt phân minh rõ ràng như đối trước mắt.

GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch: Ngón tay thiền, trí đều ngửa ra. Ngón đàn, giới, nhẫn, huệ, tiện, nguyện co kín. Ngón tấn, lực đứng thẳng nhau vịn trên đốt thứ nhất của ngón nhẫn, nguyện; ngón thiền, trí gá một bên ngón tấn, lực tức thành ấn.

Kinh Tô Thất Ðịa nói: Ấn pháp này đồng. Ngài Kim Cang Trí dịch: Ngón đàn, giới, nhẫn, tấn, thiền, từ ngón tay út bên mặt mà khởi tính. Ngón huệ, tiện, nguyện, lực, trí, từ ngón tay út bên trái mà khởi tính. Ðó là mười ngón ba la Mật

Thần chú: Úm – Ðát tha nghiệt đổ nạp bà phạ dả ta phạ hạ (7 biến)

Ðổ hoặc NÔ NẠP, hoặc Noa. Ngài Kim Cang Trí dịch: Úm, đát tha nghiệt đổ phạ bà da ta phạ ha. Rồi xả ấn trên đảnh. Chữ BÀ là khứ thinh,còn các chữ dưới đều đồng.

Do kiết ấn này và tụng Thần chú, tức kinh giác tất cả Như Lai thảy đều hộ niệm gia trì cho người tu hành, dùng hào quang chiếu soi, có bao nhiêu tội chướng đều được tiêu diệt, thọ mạng lâu dài, phước huệ tăng trưởng, Phật bộ Thánh chúng ủng hộ vui mừng, đời đời kiếp kiếp xa lìa các ác thú, hóa sanh trong hoa sen, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

GIẢI: Kinh Ðại Bảo Lầu Các nói: Trên đảnh núi cao tụng Thần chú, hết thảy tầm mắt phóng đến chỗ nào, những chúng sanh ngũ nghịch, thập ác thảy đều được diệt tất cả tội, đời sau sanh các cõi tịnh độ của chư Phật, được hóa sanh trong hoa sen. Như thế huống nữa người trì chú tu hành mà không sanh trong hoa sen, diệt tất cả tội ư? 

LIÊN HOA BỘ TAM MA DA ẤN

Chấp hai tay trống chính giữa, buông thả mở ra hai ngón tay trỏ, hai ngón tay giữa, hai ngón vô danh chỉ, cong lại như hình hoa sen. Ðể ấn chính giữa ngực, tụng Chơn ngôn 7 biến, tưởng Quán Tự Tại Bồ Tát tướng tốt đầy đủ. Rồi xả ấn trên đảnh.

GIẢI: Hai ngón tay út, hai ngón tay cái dựa dính nhau, còn sáu ngón kia buông thả mở ra, hơi cong như bông sen nở. Tướng tốt của Quán Tự Tại Bồ Tát như trong kinh Quán Thánh đã nói.

Chơn ngôn: Úm (án) – Phá na mô, nạp bà, phạ dả ta phạ hạ.

GIẢI: Phá na hay Bát nạp. Ngài Kim Cang Trí dịch: Úm (án). Bát đầu mâu phạ bà da ta phạ ha.

Do kiết ấn này tụng Chơn ngôn cho nên cảnh giác Quán Tự Tại Bồ Tát và hết thảy các Bồ Tát cầm hoa sen hào quang chiếu đến hành giả có các nghiệp chướng thảy đều tiêu diệt, tất cả Bồ Tát thường làm bạn lành.

GIẢI: Vô Lượng Thọ Như Lai Nghi Quỹ nói: Do kiết ấn này và tụng Chơn ngôn cảnh giác Ngài Quán Tự Tạiliên hoa bộ Thánh chúng đều đến gia trì hành giả đắc được ngữ nghiệp thanh tịnh, lời nói oai nghiêm khiến người ưa nghe biện tài vô ngại, thuyết pháp tự tại.

KIM CANG BỘ TAM MA DA ẤN

Lấy tay trái lật ra bên ngoài, tay bên mặt đôi lưng để an nơi lưng bàn tay trái. Lấy ngón tay cái và ngón út bên mặt và trái câu lại với nhau như hình Kim Cang Thủ Bồ Tát, tụng Chơn ngôn 7 biến. Xả ấn lên đảnh.

GIẢI: Kinh Tô Tất Ðịa nói: Trong hai tay sáu ngón khít lại, mở ra ba ngón dọc theo như hình chày Kim Cang. Ba ấn này gọi là đại ấn, chư Phật, Bồ Tát còn không thể trái huống thảy các ma loại. Chẳng những thuận giáo còn diệt các tội, trừ các nạn. Pháp sở cầu quyết được thuận nguyện. Ngài Kim Cang Trí dịch: Tay trái sấp tay phải ngửa, ngón cái ngón út giao móc nhau, vậy là thành ấn. Ấn này đồng với bổn dịch.

Chơn ngôn: Úm (án) - Phạ nhựt lô, nạp bà phạ, dả ta phạ hạ.

Kim Cang Trí dịch: Úm (án) - Phạ chiết rõ bà bàn da ta phạ hạ.

Do kiết ấn này và tụng Chơn ngôn ấy, tức cảnh giác tất cả Kim Cang Thánh chúng gia trì ủng hộ, có các tội chướng đều được trừ diệt, tất cả thống khổ trọn không dính thân, sẽ được thể Kim Cang kiên cố.

GIẢI: Cúng dường Nghi Quỹ nói: Do kiết ấn này và tụng Chơn ngôn, kỉnh giác Kim Cang Tạng Bồ TátKim Cang bộ Thánh chúng đều đến gia trì người hành giả đắc được ý nghiệp thanh tịnh, chứng Bồ đề tâm, tam muội hiện tiền được giải thoát. Theo Ngài Kim Cang Tr dịch: Kiết tam bộ tam ma da ấn, sau tức kiết Phật Mẫu căn bản thân ấn, tụng Phật Mẫu Chơn ngôn 7 biến, nay bổn dịch ở đây chỉ trì châu niệm tụng, trước kiết căn bản bổn ấn, như muốn kiết ấn ấy, cứ theo lý thì không ngại, ấn kia sau sẽ chép ra trong Ứ già ấn.

THỨ ÐẾN ÐỆ NHỊ CĂN BẢN ẤN

(Dùng hộ thân)

GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch: Vì ấn này ở sau trì số châu niệm tụng, trước dùng riêng ấn chú là để toái trừ tất cả thiên ma ác quỷ … bổn dịch dùng ấn này và tâm Chơn ngôn hộ thân, sao lại dùng “Vô Năng Thắng ấn chú” để toái trừ chướng ngại nữa.

Hai ngón ngoài tréo nhau, hai ngón tay trỏ, hai ngón tay cái đứng thẳng tức thành Tụng Phật Mẫu Tâm Chơn ngôn. Ấn vào năm chỗ: Nơi trán, vai bên mặt, vai bên trái, nơi yết hầu, nơi tại ngực. Xả ấn lên đảnh.

Chơn ngôn: Úm (án) – ca ma lê vĩ ma lê chuẩn nê ta phạ hạ.

Khi kiết ấn hộ thân, nên phát lòng đại từ, duyên khắp lục đạo tứ sanh, nguyện tất cả hữu tình mặc mũ giáp đại thệ Kim Cang trang nghiêm bền chắc. Mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bổ đề.

GIẢI: Ðại thệ Kim Cang mũ giáp trang nghiêm kiên cố ấy nghĩa là Bồ Tát lấy Tứ hoằng thệ nguyện làm trang nghiêm, không bị tà ma làm trở ngại, gặp duyên nghịch thuận tâm không thoái chuyển. Cho nên nguyện các hữu tình đều mặc mũ giáp Kim Cang kiên cố bền chắc như thế để xa lìa các chướng nạn, mau chứng Vô thượng Bồ đề. Tưởng như vậy rồi, tức thành mặc Kim Cang mũ giáp, tất cả các ma không dám chướng ngại.

THỨ ÐẾN KIẾT ÐỊA GIỚI QUYẾT ẤN

Hai tay tréo nhau bên trong, đứng thẳng hai ngón tay cái, hai ngón tay trỏ, hai ngón tay út, các ngón hiệp nhau, co ngón tay trỏ bên tả như hình móc câu kéo ba lần, ngón tay cái chỉ nơi đất tức thành. Kéo một cái tụng một biến Chơn ngôn.

GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch: Lấy tay mặt và tay trái, hai ngón tay giữa, hai ngón tay áp út tréo vào bàn tay hữu áp chặt bàn tay tả, ngón tay trỏ bên mặt cong như hình móc câu, ngón tay trỏ bên tả đứng thẳng, hai ngón tay cái, hai ngón tay út khiến đối diện sát nhau.

Chơn ngôn: Úm (án) - Chuẩn nễ nễ chỉ, lã dả ta phạ hạ.

GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch: Ấn chuẩn nễ nễ chỉ lã dả ta phạ hạ. Tụng một biến, dùng ấn ngón tay cái chạm nơi đất một lần, trở lại đứng thẳng dường như cây trụ cao, làm hai lần tức xong.

Do kiết ấn này, tụng Chơn ngôn gia trì địa giới, cho nên thẳng đến dưới thủy tế như Kim Cang tòa, thiên ma và các kẻ chướng ngại không dám làm não hại, ít gia công lực mau được thành tựu.

GIẢI: Trong đất có các vật dơ xấu, do sức ấn chú này gia trì, hết thảy được thanh tịnh.

Trì tụng ấy rồi thứ đến nên ở trong đàn, tâm tưởng hoa sen lớn tám cánh. Trên hoa sen có tòa sư tử. Trên tòa có lầu các báu treo rủ xuống các món anh lạc, tràng phan, bảo cái, bảy hàng cây báu treo các thiên y đẹp đẽ, các món ăn uống nhiệm mầu, ma ni làm đèn. Như khôngđàn pháp, chỉ nơi trong hư khôngquán tưởng tức thành tựu. Quán tưởng rồi, nên tụng bài kệ này: 

Dĩ ngã công đức lực.

Như Lai gia trì lực

Cập dĩ pháp giới lực

Phổ cúng dường nhi trụ.

 Dịch: Bởi con sức công đức

Gia trì sức Như Lai

Cùng do sức pháp giới

Khắp cúng dường mà trụ.

Tụng kệ này rồi, liền tụng Ðại Hư Không Tạng Bồ Tát Chơn ngôn: Úm (án) – Nga nga nẵng tam bà phạ, phạ nhựt ra hộc.

GIẢI: Chữ Tam Khứ thinh, chữ bà khứ thinh, chữ nga hoặc là chữ dà, nhẹ kêu (đọc nhẹ).

Do tụng Chơn ngôn này gia trì và đã quán tưởng cúng dường chơn thật đầy đủ không khác, nên tất cả Thánh chúng đều được thọ dụng.

GIẢI: Căn cứ theo Vô Lượng Thọ Nghi Quỹ: Tụng Ðại Hư Không Tạng Chơn ngôn, trước nên kiế: 1- Hư Không Tạng Ấn. Lấy hai tay chấp lại, hai ngón giữa bên mặt và trái áp bên ngoài tréo ra lưng tay, hai ngón tay trỏ cong dính nhau như bảo hình. Tưởng từ ấn xuất lưu ra đủ vô lượng các món cúng dường, y phục, ấm thực, cung điện, lầu các v.v… người hành giả túng sử quán tưởng niệm lực có kém, do sức ấn chú này gia trì mà các đồ cúng dường đều thành chân thật, cúng dường một cách rộng lớn.

Lại cứ riêng bộ khác, có chép ra: 2- Thân Cúng Dường Ấn. Hai ngón tay để ngang ngực chấp lại, lấy mười ngón tay bên hữu ép đầu ngón tay tả giao nhau lại, để lên trên đảnh, tụng xuất sanh cúng dường Chơn ngôn 21 biến: tức chữ ÚM (ÁN) vậy. Do chữ úm (án) Chơn ngôn và ấn lực bất tư nghì, tự nhiên biến khắp pháp giới, xuất sanh vô tận hương, hoa, đèn, nến, tràng phan, bảo cái, y phục, ngọa cụ, lầu các cung điện, âm nhạc bái tán v.v. Ðủ các thứ cúng dường, cúng dường khắp pháp giới, vô biên Phật Pháp Tăng Tam-Bảo v.v. Nếu không có đồ ẩm thực hương hoa thảy, chỉ đối trước tượng kiết ấn tụng (Úm) Án tự Chơn ngôn, tự nhiênvô lượng cúng dường, khắp cùng pháp giới vô tận Tam-Bảo. Vậy biết một chữ Úm (Án) như ma ni châu tùy tâm sở hiện, cũng như bổn kinh đã tưởng thảy đều thành tựu. Tại chữ Úm (Án) này là tự mẫu của tất cả Chơn ngôn, năng sanh tự nghĩa của tất cả Chơn ngôn nên đều đứng đầu tất cả Chơn ngôn vậy.

THỨ ÐẾN KIẾT BẢO XA LỘ ẤN

(Xa nói giá hay xả là bình thinh, lộ hay lỗ nên âm lộ)

Hai tay tréo nhau bên trong ngửa bàn tay ra, hai ngón tay trỏ ngang bằng nhau đầu ngón dính nhau, lấy hai ngón tay cái cầm vịn vào tiết dưới cùng của hai ngón tay trỏ. Tưởng xe lớn bảy báu Phật bộSứ giả, giá ngự trên xe bảy báu, thừa nương hư không mà đi đến. Nơi tại đảnh của cõi Trời Sắc giới, A Ca Ni Tra Thiên, Tỳ Lô Giá Na Phật ở trong cung điện ấy, tụng Chơn ngôn 7 biến.

GIẢI: Kim Cang Trí dịch: Trước lấy hai ngón tay bên trong tréo nhau, ngón giữa đè ngón tả, lại mở hai ngón trỏ ra, đầu ngón giáp nhau thẳng đứng, lấy hai ngón cái xoay đầu qua lại nơi hai ngón tay giữa tức thành. Tâm tưởng trong cung trời A Ca Ni Tra Thiên, đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai và Thập Ðịa Bồ Tát vi nhiễu tập hội trong ấy, thỉnh đức Chuẩn Ðề Phật Mẫu Thánh giả, nương cỡi đại xa thất bảo trang nghiêm, trên ấy có tòa liên hoa trắng, trên tòa có các hóa hình tượng. Trong tâm tưởng niệm như ở trước mắt, trời A Ca Ni Tra Thiên, đây nói là Sắc Cứu Cánh Thiên, là cõi trời tối cao của Sắc giới cũng gọi Hữu Ðảnh Thiên.

Chơn ngôn: Úm (Án) - Ðổ rô đổ rô hồng

(Chữ rô hô chuyển trong lưỡi, Kim Cang Trí dịch không có chữ Hồng, mà có chữ Ta phạ ha).

Do tụng Chơn ngôn kiết ấn gia trì cho nên thất bảo xa lộ đến sắc giới đảnh, đức Chuẩn Ðề Phật Mẫu và tám vị đại Bồ Tát cùng chư Thánh chúng quyến thuộc vi nhiễu, nương cỡi thất bảo xa lộ.

GIẢI: Tám vị đại Bồ Tát ấy: 1- Quán Tự Tại, 2- Di Lặc, 3- Hư Không Tạng, 4- Phổ Hiền, 5- Kim Cang Thủ, 6- Văn Thù Sư Lợi, 7- Trừ Cái Chướng, 8- Ðịa Tạng Bồ Tát. Nếu Tỳ Lô Giá Na Phật nội tâm chứng được Tam Ma Ðịa Trí, thì lưu xuất ra mười sáu vị Bồ Tát: 1. Kim Cang Tát Ðỏa, 2. Kim Cang vương, 3. Kim Cang Ái, 4. Kim Cang Thiện Tai, 5. Kim Cang Bảo, 6. Kim Cang Oai Quang, 7. Kim Cang Tràng, 8. Kim Cang Tiếu, 9. Kim Cang Pháp, 10. Kim Cang Kiếm, 11. Kim Cang Nhơn, 12. Kim Cang Ngữ, 13. Kim Cang Nghiệp, 14. Kim Cang Hộ, 15. Kim Cang Dược Xoa, 16. Kim Cang Quyến Bồ Tát.

Du Già Phân Biệt Tu Chứng Pháp Môn nói: Ðây là luận về tông Chơn ngôn Ðà Ra Ni, là bí Mật giáo của tất cả Như Lai, là pháp môn tự giác Thánh trí tu chứng, cũng là Bồ Tát thọ đủ tịnh giới vô lượng oai nghi, vào hải hội đàn của tất cả Như Lai để thọ chức vị Bồ Tát, vượt qua ba cõi thọ Phật giáo sắc tam ma địa môn, đầy đủ nhân duyên đốn tập công đức, rộng lớn, trí tuệ, nơi Vô thượng Bồ đề đều không thoái chuyển. Xa lìa các thiên ma, tất cả các phiền não cùng các tội chướng. Mỗi niệm dung chứng bốn món Phật thân. Nghĩ là Tự tánh thân, Thọ dụng thân, Biến hóa thân, Ðẳng lưu thân. Ðầy đủ năm trí ba mươi bảy món trợ đạo, các món bất cộng Phật pháp. Song Biến hóa thân của đức Như Lai, ở Diêm Phù Ðề nước Ma Kiệt Ðà, nơi Bồ đề đạo tràng thành Chánh đẳng chánh giác, vì hàng tiền địa Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, phàm phu mà nói ra giáo pháp của ba thừa, hoặc tùy nơi ý kẻ khác mà nói đến, hoặc tự ý nói đến, các căn cơ, các phương tiện như pháp tu hành đắc quả báo nhơn thiên. Hoặc đắc quả giải thoát của tam thừa. Hoặc tiến, hoặc thoái hóa nơi Vô thượng Bồ đề, trải qua ba vô số đại kiếp, tu hành siêng năng khổ nhọc mới thành được Phật quả. Sanh ở nơi Vương cung, diệt nơi Song thọ, lưu thân Xá lợi, dựng tháp cúng dường. Cảm thọ đến trời người, được quả báo thắng diệu, làm nhơn cho Niết Bàn. Không đồng với Báo thân Tỳ Lô Giá Na Như Lai, nơi Sắc giới đảnh đệ tứ thiền, nơi cung trời A Ca Ni Tra, vân tập tận hư không, khắp pháp giới tất cả chư Phật, Thập Ðịa đầy đủ, các đại Bồ Tát chứng minh kỉnh giác, thân tâm đốn chứng Vô thượng Bồ đề. Tự thọ dụng Phật từ tâm lưu xuất vô lượng Bồ Tát đều đồng một tánh. Nghĩa là Kim Cang tánh đối với Tỳ Lô Giá Na Như Lai, thọ quán đảnh chức vị, được các vị Bồ Tát kia nói môn Tam Mật, để dâng hiến Tỳ Lô Giá Na Phật và tất cả Như Lai, xin thỉnh gia trì dạy bảo. Ðức Tỳ Lô Giá Na Phật dạy: Các ông tương lai nơi vô lượng thế giới là kẻ tối thượng thừa, được hiện đời thành tưụ thế gian, xuất thế gian Tất Ðịa. Nếu y cứ vị thứ ma nói có sai khác, còn căn cứ báo thân Phật liền chứng ba món tịnh nghiệp thân, khẩu, ý biến khắp pháp giới nơi mỗi một pháp môn, mỗi một lý thú, mỗi một lỗ lông, mỗi tướng tốt của thân phần, hết cõi hư không, không chướng ngại nhau, đều an trụ nơi bản vị để thành hào quang chiếu khắp. Tỳ Lô Giá Na, Tự thọ dụng thân, Tha thọ dụng thân, nếu y nhị thừa thứ lớp mà nói: không tu đầy đủ ba mươi bảy món Bồ đề phần phápchứng đắc đạo quả, điều đó không có lý. Còn nếu chứng Tự thọ dụng Phật thân, quyết tu ba mươi bảy món Tam ma địa trí để thành Phật quả. Phạn bổn nhập Lăng Già kệ tụng nói: Tự tánhthọ dụng biến hóa với đẳng lưu Phật đức, ba mươi sáu đều đồng tự tánh thân và pháp giới, thân tổng thành ba mươi bảy vậy. Bởi vì ba mươi bảy là bên trong trí phần chứng Vô thượng Kim Cang giới, nhờ oai lực gia trì liền chứng Tỳ Lô Giá Na thân. Từ vô kiến đảnh tướng lưu xuất ra vô lượng Phật đảnh pháp thân, vân tập trong hư không để thành pháp hội, quang minh che khắp như Tháp tướng luân, Thập Ðịa đầy đủ, thường hay soi xét, thầm gia hộ thân tâm hữu tình, các tội chướng thảy được tiêu diệt mà không thể tự biết. Tuy không thể biết mà hay dứt các khổ, sanh các cõi thiện. Từ ánh hào quang ấy lưu xuất ra mười sáu vị Bồ Tát và tám phương trong ngoài đại hộ triển chuyển, phát xuất ánh hào quang, chiếu soi đến các ác thú. Ðể thành Suất Ðổ Ba (tầng bậc tháp Phật) giai cấp, hộ vệ chư Phật. Suất Ðổ Ba pháp giới cung điện, thành là toàn thân hiện chứng Kim Cang giới, Như Lai thân Tỳ Lô Giá Na biến chiếu vậy.

Vậy nên biết Phật Mẫu Chuẩn Ðề, từ Tỳ Lô Giá Na thân lưu xuất ra mà Chuẩn Ðề Chơn ngôn tức là pháp tự chứng nội tâm của chư Phật. Cho nên Thất cu chi (700 ức) Như Lai đã nói: Bởi hay xuất sanh chư Phật, nên nói rằng Phật Mẫu vậy.

THỨ ÐẾN THỈNH XA LỘ ẤN

Theo như ấn trước, lấy hai ngón tay cái hướng về thân, xoay lại hai đầu ngón tay giữa, tức thành. Tụng Chơn ngôn 7 biến.

Chơn ngôn: Nẵng ma tất để lị dả địa vĩ ca nẫm, đát tha nghiệt đa nẫm. Úm (án) - Phạ nhựt lãng nghĩ nễ dã, yết lị dã, ta phạ hạ.

GIẢI: Nẫm cũng nói là nan, lãn cũng nói lãng, lại lãng nghĩ cũng nói kỳ nghiệt đa, nên nói nghiệt dá, nễ dã cũng nói là chữ nương thượng thinh, yết lị cũng nói ca ra.

Do tụng Chơn ngôn gia trì, cho nên Thánh chúng từ bổn độ, lại đến trong hư không mà an trụ nơi đạo tràng.

GIẢI: Kim Cang Trí dịch: Không có Chơn ngôn ấn khế này, chỉ dùng sau ấn khế Chơn ngôn thỉnh đó. Hành giả tu Chơn ngôn tùy theo một pháp đều thành.

Thứ đến kiết ấn Bổn Tôn (Chuẩn Ðề Phật Mẫu) thỉnh, từ xa lộ hạ giáng nơi đạo tràng theo như đệ nhất căn bản ấn ở trước, lấy hai ngón tay cái hướng vào thân chiêu mời, tụng Chơn ngôn ba biến.

GIẢI: Ðệ nhất căn bản ấn tức Phật bộ ấn ở trước, sau nói theo căn bản ấn trước tức đồng ở đây. Kim Cang Trí dịch: Lấy hai ngón tay cái đưa qua lại chiêu mời ba lần. Tưởng Thánh giả từ trên xe báu hạ lại đến trong đạo tràng, trên tòa hoa sen trắng.

Kinh Tô Thất Ðịa dạy thỉnh rằng: Nay có đệ tử tên … việc là … Phụng thỉnh ngưỡng duy Tôn giả, vì bổn nguyện giáng phó đạo tràng, nguyện thùy ai mẫn thọ món ứ già này và các món cúng dường. Khi thỉnh thành tâm làm lễ tác bạch ba lần, nếu không thành tâm phải luôn nhiều sự niệm tụng, cho đến Chơn ngôn cũng đều ân cần gia thêm chữ Ế Ê này, lại là bí Mật, sự cầu nguyện mau được viên mãn.

Chơn ngôn: Úm (án) - Giả lễ chủ lễ chuẩn nê ế ê duệ hê bà chiến phạ để ta phạ hạ.

GIẢI: Chữ bà khứ thinh mà hô đó. Kim Cang Trí dịch: Án, Chiết lệ chủ lệ Chuẩn đề ế hê duệ hê bạt dà, phạ đế ta phạ ha. Dà nga yết nghiệt bốn chữ là đồng âm, chữ chiến nghi là kích, chữ dà phải hô nhẹ. Kinh Tô Thất Ðịa dạy rằng: phụng thỉnh rồi lại tác bạch như vầy: Thiện lai Tôn giả, thương xót chúng con, giáng lâm đạo tràng, thủy từ ai mẫn. Ðến nơi tòa này, an tọa thọ món cúng dường. Lại hết lòng thành tâm luôn luôn làm lễ, bạch rằng: Tôn ngôn đại bi thùy mẫn thừa bổn nguyện giáng lâm cho con được thấy chẳng những con đã bày biện các món cúng dường, trước hiến đồ hương, sau hiến các hoa lại hiếu thiêu hương, lại hiến các món ẩm thực và các món nhiên đăng đèn sáng, thứ lớp như vậy cúng dường.

VI KHIỂN ẤN HAY 

KẾT VÔ NĂNG THẮNG BỒ TÁT 

ẤN TỊCH TRỪ CHƯỚNG NGẠI

Hai tay, tay hữu đè lên tay tả tréo nhau bên trong, nắm tay lại, đứng thẳng hai ngón tay giữa, đầu hai ngón tay hiệp lại, tức thành vòng quanh thân bên mặt ba lần, khởi lên suy nghĩ, chỗ có chướng ấy, Tỳ Na Dạ Ca, các ác quỷ thần hãy chạy xa đi, chỗ đến của các Thánh chúng, chẳng vượt bổn tam ma da đại bi mà an trụ, nguyện thùy gia hộ.

GIẢI: Hành giả phàm tu Chơn ngôn và người tọa thiền cần trước phải dùng ấn chú trừ các ma chướng. Cho nên kinh Kim Cang Quang Minh nói: Hàng Thập Ðịa Bồ Tát còn lấy chú hộ trì, huống nữa kẻ phàm phu ư! Kinh Thủ Lăng Nghiêm dạy: Nếu không trì chú mà ngồi đạo tràng, khiến thân tâm được xa lìa các việc ma là điều không có lý

Kinh Tô Tất Ðịa dạy: Nếu muốn thành tựu các việc nên phải khiển trừ các ma chướng ngại, nếu không khiển trừ sau sợ có sự tổn thương. Bởi vậy nên trước cần làm phương pháp khiển trừ.

Chơn ngôn: Nẵng mồ tam mãn đa một đà nẫm, úm (án) - Hộ rô hộ rô chiến noa lị mạ đắng kỳ ta phạ hạ.

 GIẢI: Chiến hoặc tán kỳ, hoặc nghĩ li hoặc lị. Trì Minh Tạng dạy: Chú này hay thành tựu tất cả việc.

THỨ KIẾT TƯỜNG GIỚI ẤN

Theo như ấn địa giới ở trước, co đầu ngón tay hữu, mở đầu ngón tay tả ra, xoay bên hữu ba vòng, tùy tâm gần xa, tức thành cái thành Kim Cang kiên cố. Chư Phật, Bồ Tát còn không dám trái vượt huống gì các kẻ khó điều phục, Tỳ Na Dạ Ca và loại nha, trảo, độc trùng, không thể gần gũi được.

GIẢI: Vô Lượng Thọ Nghi Quỹ dạy rằng: Tưởng từ ấn ấy lưu xuất ra ánh lửa rực rỡ, dùng ấn ấy nhiễu thân ba vòng, tùy tâm lớn nhỏ, thành Kim Cang sáng chói vuông vức bốn phí tường vách làm giới hạn, các ác ma nhơn, cọp, beo, sư tử, và các độc trùng không thể gần gũi.

Thần Biến Sớ dạy rằng: Người hành giả trì chú, được chư Phật quy mạng, cho nên Phật đảnh kệ dạy: Mười phương thế giới các Như Lai, hộ niệm quy mạng người thọ trì. Như vậy chư Phật còn trở lại quy mạng người trì chú, mà đâu dám có sự trái vượt ấy ư! Tỳ na dạ ca đây nói rằng: Trư đầu tượng tỳ (đầu heo mũi voi)

Chơn ngôn: Án - Chuẩn nễ nĩnh bát ra, ca ra da ta phạ hạ. Kim Cang Trí dịch: Chữ nĩnh nói nê, tụng ba biến lấy ấn diêu động ba vòng.

THỨ KIẾT THƯỢNG PHƯƠNG VÕNG

GIỚI ẤN

Theo như Tường giới ấn ở trước, mở ngón tay trỏ bên trái, ngón tay mặt đè ngón trái giữa trung tiết giao với nhau lại tức thành. Tụng chú này ba biến.

GIẢI: Kim Cang Trí dịch: Theo như tưởng giới ấn, mở ngửa ra, ngón tay bên mặt nắm đầu ngón trỏ bên trái, đầu ngón cái bên trái nắm đầu ngón trỏ bên mặt, đầu ngón út đứng thẳng như cũ tức thành.

Chơn ngôn: Úm (án) - Chuẩn nể nĩnh bán nhạ ra ta phạ hạ.

(Chữ nhạ đọc ra. Kim Cang Trí dịch: Chữ nĩnh đọc nê, chữ ra đọc chữ lạ, tụng ba biến. Lấy ấn tùy theo đó mà dung động qua ba lượt. Riêng có bộ lấy ấn để nơi đảnh xoay quanh bên hữu rồi xả ấn.

Do tụng Chơn ngôn kiết ấn gia trì, tức thành lưới Kim Cang kiên cố bất hoại.

(Vô Lượng Thọ Nghi Quỹ nói: Do sức ấn chú gia trì nên phương trên che lưới Kim Cang kiên cố, cho đến các cõi trời Tha hóa Tự Tại không thể chướng nạn, người hành giả thân tâm an vui, Tam ma địa dễ thành tựu.)

THỨ KIẾT HỎA VIỆN MẬT PHÙNG ẤN

Lấy tay tả đậy lên lưng tay hữu trùng nhau (linh vô phùng) thẳng đứng hai đầu ngón tay cái, tức thành. Tụng Chơn ngôn ba biến xoay quanh bên hữu ba vòng. Tưởng ngoài vách tường Kim Cang có đại Kim Cang hỏa diệm đoanh vây chung quanh.

GIẢI: Kim Cang Trí dịch: Lấy tay trái che kín lên lưng tay mặt trùng nhau, đứng thẳng hai ngón tay cái, cách nhau hai lóng nhỏ.

Vô Lượng Thọ Nghi Quỹ dạy: Tưởng từ ấn này lưu xuất ra vô lượng ánh quang rực rỡ. Lấy ấn nhiễu quanh bên mặt ba vòng, nơi ngoài tường Kim Cang lại có ánh sáng rực rỡ đoanh vây chung quanh, tức thành hỏa giới kiên cố thanh tịnh.

Chơn ngôn: Úm (án) – A tam mãn nghĩ nễ hồng phấn tra (chữ Hồng bán thinh)

GIẢI: Chữ tam khứ thinh, chữ mãn thượng thinh cũng nói ma, hoặc xã, hay là mang, kéo dài âm thinh ra, nghĩ. Hoặc nghĩ, Tô Tất kinh nói tiếng niệm trong cổ họng. Kim Cang Trí dịch: Úm (án) – A tam ma kỳ nễ hộc ta phạ ha.

Do kiết ấn này tụng Chơn ngôn, thành đại Mật bộ bủa giăng kín đáo. Không bị các ma nhập vào.

THỨ KIẾT Ứ GIÀ ẤN

GIẢI: Ứ già hoặc Át già, lại nói A già. Ðây là nói rằng khí, đồ đựng. Phàm đồ đựng cúng dường đều xưng là Ứ già nghĩa là lấy uất kim, long não, bạch đàn hương v.v…để nước đầy trong Ứ già diệu khí mà phụng hiến đó. Ðồ đựng này làm bằng vàng, bạc, bảo ngọc, đồng đá, gỗ, sành, chén loa và chuyết liên diệp, nhũ thọ diệp, đều được.

Làm đồ Ứ già cúng dường phải làm thứ đồng tốt làm đồ đựng Ứ già là hơn hết. Kinh Tô Tất Ðịa dạy: Làm Ế Ðể Ca pháp phải dùng đồ đựng màu trắng, để chút ít gạo nếp và sữa. Làm Bố Sắt Vi Ca pháp phải dùng đồ đựng màu vàng, nên để hộ ma và sữa chín. Làm Tỳ Giá Rô Ca pháp phải dùng đồ đựng màu đen, để gạo tẻ và ngưu thỉ, hoặc lấy chút huyết của mình ( sau này sẽ giải thích.)

Hai tay tréo nhau bên trong, dựng hai ngón tay giữa đầu ngón dính sát nhau, lấy hai ngón tay trỏ vịn lưng hai ngón tay giữa, hai ngón tay cái vịn sát dưới lóng cuối cùng của hai ngón tay trỏ tức thành căn bản ấn. Theo như ấn căn bản trước. Co sát hai ngón tay cái vào bàn tay, tức thành Ứ già ấn, tụng Chơn ngôn ba biến.

GIẢI: Kim Cang Trí dịch: Theo như căn bản ấn trước, lấy hai ngón tay cái mỗi ngón nắm vịnh đốt thứ nhất cuối cùng của ngón tay trỏ, tức thành.

Chơn ngôn: Úm (án) - Giả lễ chủ lễ chuẩn nê hát kìm bát ra để, tha bà nga phạ để ta phạ hạ.

GIẢI: Kim Cang Trí dịch: Úm (án) - Chiết lệ chủ lệ Chuẩn Ðề hát kìm bạt già phạ đế bát ra để ta sa phạ hạ.

Xét Chơn ngôn này với bổn dịch đồng, chỉ sau hai câu đảo nhau không đồng vậy. Bản dịch lấy bát ra để tha, để nơi trước, bà nga phạ để, lại nơi sau. Ngài lấy bạt già phạ đế, để nơi trước, bát ra để ta, để nơi sau. Bởi vì riêng bản Trì Minh trong kinh tạng cũng đồng với Ngài Kim Cang Trí.

Hành giả tư duy Thánh chúng rõ ràng phân minh, tưởng tự thân mình ở dưới chân chư Phật, Thánh chúng, tay cầm bát bảy báu đồ ứ già, đựng đầy nước thơm rửa chân Thánh chúng, do dâng hiến nước thơm hương ứ già cho nên hành giả ba nghiệp được thanh tịnh, tẩy sạch phiền não cấu trược, nghiệp chướng tiêu trừ.

GIẢI: Vô Lượng Thọ Nghi Quỹ dạy: Do hiến cúng ứ già hương thủy, rửa hai chân Thánh chúng khiến hành giả ba nghiệp thanh tịnh, tẩy trừ tất cả phiền não tội cấu. Từ Thắng Giải Hạnh Ðịa đến Thập Ðịa và Như Lai Ðịa, sẽ chứng như vậy cho đến đạt địa vị Ba la Mật, các đức Như Lai trao nước cam lồ pháp thủy để quán đảnh. Lại Ngũ Tự Tâm Ðà Ra Ni nói: Uống nước này trừ các tai hoạn.

THỨ KẾT LIÊN HOA TÒA ẤN

Theo như căn bản ấn trước, hai ngón tay cái hướng thân đứng thẳng, vận tởng từ ấn này lưu xuất ra vô lượng sư tử tòa phụng hiến tất cả Thánh chúng, các vị Thánh chúng ấy mỗi mỗi đều ngồi.

Kim Cang Trí dịch ấn chú đều đồng, mà ấn nói rằng: Hai ngón tay cái hướng thân mở ra đứng thẳng tức thành. Tâm tưởng ở trong đạo tràng có các bảo điền (như đài sen, như hoa bèo) sư tử tòa, trên tòa có có hoa sen trắng nở, an trí Thánh giả. Tức tụng Chơn ngôn ba biến.

Chơn ngôn: Úm (án) – Ca ma lạ ta phạ hạ (Mạ cũng nói ma thượng thinh, chữ lạ cũng nói la hoặc ra).

Do kiết ấn tụng Chơn ngôn, phụng hiến Thánh chúng cho nên người hành giả sẽ được Thập Ðịa đầy đủ và được tòa Kim Cang.

GIẢI: Người tu hành cũng được ba nghiệp bền chắc, cũng như Kim Cang. Nói Kim Cang tòa ấy nghĩa là ngồi trên tòa Kim Cang mà thành Ðẳng Chánh Giác. Nay đây Thần chúcảnh giới của chư Phật đã có, nên thần lực không thể nghĩ bàn, chỉ nên sinh lòng tin thọ đọc tụng tự nhiên diệt chướng thành đức, vượt phàm lên Thánh. Cho nên nói rằng: Sẽ được Thập Ðịa mãn túc, được tòa Kim Cang. Kinh Minh Trì Tạng dạy: Người tu hành tụng Chơn ngôn rồi, liền nói: xin nguyện Thánh chúng, chỗ tòa này đã xong, quý Ngài an trụ nơi đạo tràng, thọ sự cúng dường của con.

THỨ KẾT THÁO DỤC ẤN

Theo như căn bản ấn trước, lấy hai đầu ngón tay cái nắm đốt giữa của hai ngón tay giữa tức thành. Tụng Chơn ngôn ba biến.

GIẢI: Kim Cang Trí dịch: Lấy hai ngón tay cái nắm đốt dưới cùng của hai ngón tay giữa.

Chơn ngôn: Úm (án) - Giả ta phạ hạ (hay Án - Chiết ta phạ hạ).

Tưởng từ ấn này lưu xuất ra vô lượng quang minh (hào quang sáng), mỗi một đường hào quang sáng có vô lượng hiền bình bảy báu, tưởng đầy nước thiên diệu hương thủy, rót tưới tắm rửa tất cả Thánh chúng. Lại tưởng trong hư khôngvô lượng thiên nhạc cúng dường Bổn Tôn chư Phật, Bồ Tát và hết thảy Thánh chúng. Do kiết ấn này tụng Chơn ngôn, người tu hành không lâu sẽ chứng được Pháp Vân Ðịa.

GIẢI: Pháp Vân Ðịa là đệ Thập Ðịa, nghĩa là Bồ Tát tu thành công đã đầy đủ, làm các việc giáo hóa lợi ích chúng sanh, lòng đại từ như mây che khắp cả. Thần Biến Sớ nói: Như các Bồ Tát khác vì cầu Bồ đề, tuy tu nhiều khổ hạnh khó làm, như cứu lửa cháy đầu, trải qua vô lượng kiếp còn không thể đắc. Nay người tu hành Chơn ngôn không thiếu phép tắc, chỉ nội trong đời này được quả Bồ đề. Kinh Ðại Giáo Vương nói: Nếu không y bí Mật khóa tụng tu hành, trọn không thể thành Vô thượng Bồ đề.

THỨ KẾT ÐỒ HƯƠNG ẤN

Theo như căn bản ấn trước, lấy hai ngón tay cái đưa qua bên mặt, ngón tay trỏ dưới đốt cuối cùng một bên, tức thành. Tụng Chơn ngôn ba biến (Kim Cang Trí dịch ấn chú đều đồng)

Chơn ngôn: Úm (án) - lễ ta phạ hạ (án lệ ta phạ ha.)

Tưởng từ ấn này lưu xuất ra vô lượng quang minh, mỗi mỗi đường hào quang sáng có vô lượng thiên diệu đồ hương (hương thoa), mạt hương (hương bột nhiều như mây trời nước biển), vân hải. Cúng dường Bổn Tôn chư Phật, Bồ Tát và hết thảy Thánh chúng. Do kiết ấn này tụng Chơn ngôn cho nên sẽ được chứng tất cả Như Lai giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến hương.

GIẢI: Hương nghĩa là huân văn, cho nên đều chứng hương của ngũ phần pháp thân. Như các Bồ Tát khác, do trì giới thanh tịnh nên giới thể được thành tựu, đắc được vô trì vô phạm. Nếu tu tập vô lậu thiền định, được căn trần hết sạch, xa lìa các tán loạn. Nếu tu tập vô lậu trí huệ, đoạn ba cõi phiền não mà ra khỏi sanh tử, không còn tạo các nghiệp, được thoát các lụy ràng buộcgiải thoát tự tại. Tri tức vô sanh trí. Nhãn tức là chiếu soi rõ ràng phân biệt hư vọng của thức tâm, mà trí vô sanh, nhãn tự tại sáng suốt. Nay hành giả trì Chơn ngôn, không nương các món tu ấy mà do sức của Chơn ngôn cho nên vượt hẳn các giai cấp, chứng đắc được ngũ phần pháp thân.

Lý Thú Sớ nói: Sức lớn tánh đức, Mật chú công mạnh, giải hạnh tuy kém, giải thoát thì mau.

Cho nên Thành Phật Tâm Yếu nói: Hiển giáo viên tông cần yếu trước ngộ Tỳ Lô pháp giới. Sau y ngộ tu mãn Phổ Hiền Hạnh Hải, được lìa sanh tử chứng thành mười thân vô ngại Phật quả. Như người bịnh được phương thuốc hay, cần yếu phải tự biết phân lượng, phép tắc bào chế hiệp thành mới uống, được trừ bịnh thân an. Nay Thần chú này là Mật giáo viên tông, tất cả chúng sanh và nhơn vị Bồ Tát, tuy không hiểu được chỉ trì tụng liền đầy đủ Tỳ Lô pháp giới, Phổ Hiền Hạnh Hải, tự nhiên lìa được sanh tử, thành tựu mười thân, vô ngại Phật quả, như người bịnh được viên thuốc hay đã chế thành, tuy không biết phân lượng phép tắc hòa hợp, chỉ uống đó tự nhiên trự bịnh thân an. Cho nên kinh Ðại Bát Nhã dạy: Tổng trì như thuốc thần, cũng như cam lồ của trời, có công năng trị lành các mê lầm, uống đó thường an vui.

THỨ KIẾT HOA ẤN

Theo như căn bản ấn trước, lấy hai ngón tay cái đưa qua đốt cuối cùng của hai ngón tay trỏ một bên tức thành. Tụng Chơn ngôn ba biến (dưới chữ tiết (đốt) nên có chữ trắc (bên). Kim Cang Trí dịch, ấn này đồng.

Chơn ngôn: Úm (án) chủ ta phạ hạ.

Tưởng từ ấn này lưu xuất ra vô lượng quang minh, mỗi một đường quang minhvô lượng các món thủy lục thiên diệu hoa vân hải, cúng dường Bổn Tôn chư Phật, Bồ Tát và hết thảy Thánh chúng. Do kiết ấn này tụng Chơn ngôn cho nên sẽ được thành tựu đại từ Tam ma địa, có thể lợi lạc vô biên chúng sanh, các tai nạn không dính đến thân.

GIẢI: Ðại từ tức là Vô Duyên từ. Nói Vân Hải: Vân nghĩa là tùy duyên, nghĩa là các món cúng này đầy đủ sắc tướng hiển bày rõ ràng mà trí chiếu soi nơi vô tánh, tứ pháp tánh không, vô sanh pháp phát khởi ra năng hiện và sở hiện. Năng hiện tức sức hạnh nguyện, sở hiện tức nổi lên sự cúng dường đầy đủ, không có chỗ y cứ chỉ ứng dụng mà đến, đến không chỗ từng dụng, tạ rồi mà đi, đi không chỗ để đến mà hay năng xả bi mẫn, rưới mưa pháp vũ cứu giúp lợi ích vạn vật, trùng trùng vô tận, giống như mây che khắp. Nói Hải ấy là để tiêu biểu cúng dường xứng lý cho nên thâm sâu. Xứng sự cho nên rộng lớn. Lấy sâu rộngthí dụ như biển. Như vậy mỗi một món cúng dường đầy đủ xứng nơi chân lý bình đẳng khắp hư không giới. Tức lấy toàn pháp thân dạo các cõi Phật. Vật xứng chơn cúng dường chư Phật, Thánh chúng. Người tu hành an tâm quán hạnh nơi các món cúng dường đầy đủ xứng lý mà thành tựu. Bởi vậy nên pháp thí cúng dường Phật đều gọi là Chơn cúng dường vậy.

THỨ KIẾT THIÊU HƯƠNG ẤN

Theo như căn bản ấn trước, co ngón tay trỏ bên hữu nắm hai đầu ngón tay cái, tức thành. Tụng Chơn ngôn ba biến (Kim Cang Trí ấn chú đều đồng).

Chơn ngôn: Úm (án) - Lễ ta phạ hạ.

Tưởng từ ấn này lưu xuất ra vô lượng quang minh, mỗi một đường quang minhvô lượng hòa hợp câu sanh thiên diệu hương đốt thắp khói, hương như mây che, như biển lớn hải vân, cúng dường Bổn Tôn chư Phật, Bồ Tát và tất cả Thánh chúng. Do kiết ấn này tụng Chơn ngôn cho nên khắp biến pháp giới, Tam ma địa thành tựu.

THỨ KIẾT ẨM THỰC ẤN

Theo như căn bản ấn trước, lấy ngón tay trỏ bên tả nắm hai đầu ngón tay cái tức thành. Tụng Chơn ngôn ba biến (Kim Cang Trí ấn chú đều đồng.)

Chơn ngôn: Úm (án) - Chuẩn ta phạ hạ.

Tưởng từ ấn này lưu xuất ra vô lượng quang minh, mỗi một đường quang minhvô lượng thiên diệu các món đồ ăn uống. Vân hải, cúng dường Bổn Tôn chư Phật, Bồ Tát, tất cả Thánh chúng. Sẽ được pháp hỷ thiền duyệt thực, ba giải thoát tối thắng vị, Tam ma địa thành tựu.

GIẢI: Bởi ham muốn Ðại thừa pháp nên được pháp nuôi lớn hột giống đạo, tâm sanh vui mừng. Không ham thích mùi vị ở đời, mà thường giữ gìn chánh niệm ấy là pháp hỷ thực. Do đắc được thiền định tự nuôi dưỡng tăng trưởng huệ mạng. Ðạo phẩm tròn sáng chánh niệm hiện tiền. Tâm thường vui vẻ, không tham vị đời ấy là thiền duyệt thực.

Tô Tất Ðịa cúng dường pháp dạy rằng: Nếu không sắp bảy đồ hương cho đến đèn sáng cúng dường, chỉ tụng như trên phụng đồ hương v.v… Chơn ngôn và tay kiết ấn cũng thành viên mãn cúng dường. Sau vận tâm cúng dường, đem tâm vận tưởng thủy lục các hoa vô chủ sở nhiếp, biến mãn hư không tận mười phương giới và cùng trời người, mây diệu đồ hương, hương thắp, đèn sáng, tràng phan, tàn lọng, các món cổ nhạc, ca vũ xướng hát, chơn châu lưới báu, treo các linh báu, các tràng hoa, phất trần trắng, các tiếng vi diệu như khánh, chuông rung, linh như ý, bảo thọ, y phục như mây trời và các thứ bếp trời, món ăn thượng diệu, hương thơm mỹ vị các món bảo trụ lầu các, chư Thiên nghiêm thân, đầu mão anh lạc, như mây bay khắp v.v… Người hành giả vận tâm biến khắp không. Lấy chí thành tâm như vậy cúng dường rất là hơn hết. Như trên phát hạnh ấy, vì quyết định nơi tâm mà làm pháp này. Vận tâm cúng dường tụng Chơn ngôn và tay kiết ấn, như trên đã tưởng cúng dường thảy đều thành tựu.

Kinh Tô Tất Ðịa dạy: Nếu hương hoa ẩm thực không thể có để hiến cúng, chỉ tụng bốn sắc Chơn ngôn và tay quyết ấn mà hiến cúng. Những vật cúng dường tiêu biểu ấy không thể cầu mà được mà chỉ nạp Chơn ngôn, bởi vì Chơn tâm nên mau được mãn nguyện.

Ngoài đây ra, có bốn thứ cúng dường, khắp thông các bộ, tất cả chỗ dùng. 1- Chắp tay. 2- Lấy ứ già. 3- Dụng Chơn ngônmộ nại la. 4- Chỉ vận tâm. Trong hiện phẩm này, tùy sức mà làm, hoặc thời gian dài, trong khi cúng dường ấy không qua sự vận tâm. Như đức Thế Tôn nói: Trong các pháp hạnh, lấy tâm làm đầu. Nếu năng đem tâm mà cúng dường, được mãn nguyện tất cả nguyện.

Lại nên biết, không nên vừa nghe vận tâm liền lại tiếc tiền xan tham không sắm sửa đồ cúng dường thì Tất Tô Ðịa khó thành. Nếu năng bày biện các đồ cúng dường, lại gia trì Chơn ngôn thêm tâm vận tưởng rất là thù thắng. Cho nên các kinh kia dạy rằng: Người trì tụng không hiến dâng các món cúng dường ẩm thực, đó là trái với bổn bộ, người đó đắm trước nơi ma chướng, thân không có tinh quang sáng sạch, phong độ xem như đói khát, thường có ác tư tưởng, không thể thành tựu, Bổn Tôn Chơn ngôn không hiến dâng. Thì Bổn Tôn quả thực nơi sáu ngày trai, phải rộng bày các món cúng dường phụng hiến đức Bổn Tôn và các quyến thuộc. Nên rửa tay, súc miệng, nuốt nước xong, sau mới trưng bày các món cúng dường ẩm thực. Theo bổn bộ Chơn ngôn, vận tưởng hương hoa v.v cúng dường đều từ trong ấn lưu xuất ra rất là thù thắng. bởi thủy lục vô chủ, hương hoa do vận tưởng. Hoặc sợ người sơ học quán tâm chưa thuần thục, dùng đây để trợ giúp mau thành rất là nhiệm mầu. Nói ba giải thoát ấy: 1- Không giải thoát, 2- Vô tướng giải thoát, 3- Vô nguyện giải thoát. Cũng gọi tam muội, ba món này tức Niết Bàn môn, là chỗ hiền Thánh ưa thích, trong hết thảy pháp giải thoát không qua đây, nên nói rằng tối thắng vị.

THỨ KIẾT ÐĂNG ẤN

Theo như căn bản ấn, lấy hai đầu ngón tay trỏ mỗi ngón nắm hai đầu ngón tay cái tức thành. Tụng Chơn ngôn ba biến.

Chơn ngôn: Úm (án) – nê ta phạ hạ.

Ngài Kim Cang Trí dịch ấn chú đều đồng. Như các bộ kia nói rằng: Như trước đồ hương ấn v.v… mỗi ấn chạm nơi sắc vật trên để cúng dường. Xét riêng các bộ Ðà Ra Ni có hương hoa ẩm thực cúng dường v.v… ấn chú mà chữu câu rườm rà. Nay bộ Chuẩn Ðề Ðà Ra Ni này chỉ cải bổn ấn lấy gốc sáu chữ Chơn ngôn mà thành sáu món cúng dường, thật là diệu dụng không thể nghĩ bàn.

Tưởng từ ấn này lưu xuất ra vô lượng quang minh, mỗi một đường quang minhvô lượng các thứ bảy báu, đèn đuốc vân hải như mây bay, như biển lớn cúng dường Bổn Tôn chư Phật, Bồ Tát, tất cả Thánh chúng. Sẽ được Bát Nhã ba la Mật quang minh, ngũ nhãn thanh tịnh.

GIẢI: 1- Nhục nhãn, 2- Thiên nhãn, 3- Huệ nhãn, 4- Pháp nhãn, 5- Phật nhãn. Bát Nhã đây nói trí huệ. Ba la mật nghĩa là đến bờ bên kia (bờ giải thoát). Do hiến cúng đèn sáng nên cảm được trí huệ sáng suốt, được ngũ nhãn thanh tịnh, được đến bờ kia vậy.

Trên đây tác pháp, làm phép kiết giới, cúng dường Chơn ngôn, cùng với Trì Minh Tạng Nghi Quỹ kinh đồng. Chỉ kiết ấn có khác. Kinh kia nói rằng: Các ấn tướng như vậy, người tu hành cứ tâm ghi nhớ luyện tập, khiến tinh thông thuần thục để khi làm phép tác pháp không còn sai lầm. Nếu có chút ít sai lầm tức không thành ấn khế. Ấn khế không thành tức Hiền Thánh không vui thì việc mong cầu sẽ không thu hoạch kết quả thành tựu.

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 46)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 216)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 410)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 310)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 623)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 680)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 641)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 687)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 601)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 546)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 575)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 670)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 589)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 711)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 704)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 795)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 770)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 962)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 829)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1389)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 914)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1080)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1063)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 994)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 981)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1400)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1751)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 972)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1161)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 972)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 827)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 950)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 973)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1145)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1175)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 925)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1070)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1523)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1399)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1392)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 981)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1375)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1290)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant