Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

17. Tu bi điềnkính điền

31 Tháng Năm 201100:00(Xem: 15872)
17. Tu bi điền và kính điền

BỘ MẬT TÔNG (Bốn Tập)
Dịch Giả: Tỳ Khưu Thích Viên Đức

C. TẬP BA 
KINH CHUẨN ÐỀ ÐÀ LA NI HỘI THÍCH

THẤT CÂU CHI PHẬT MẪU
SỞ THUYẾT ÐÀ RA NI KINH HỘI THÍCH
Quyển Hạ

TU BI ÐIỀN VÀ KÍNH ÐIỀN

1- TU KÍNH ÐIỀN.

Hành giả tu hạnh Du Già, muốn được huệ tăng trưởng, phước trí viên minh quyết cần phải rộng tu hai món phước điền Bi và Kỉnh. Trên hết cúng dường mười phương Tam-Bảo, dưới cứu giúp lục đạo tứ sanh, để làm nền tảng cho định huệ căn bản cho Bồ đề. Cho nên nói rằng: Bồ đề tâm có hai thứ độ vô biên chúng sanh để làm nhơn, làm quả cho Vô thượng Bồ đề. Mạn Trà La Sớ nói: Luận kẻ làm đạo, trên nếu không cúng dường chư Phật, Bồ Tát thì làm thế nào khai mở trí huệ mong cầu Bồ đề, dưới nếu không cứu giúp chư tiên, ngã quỷ, thì thế nào có hạnh từ bi? Như muốn tu kính điền phải y bản kinh kiết ngũ cúng dường ấn tụng căn bản Chơn ngôn, vận tưởng cúng dường Bổn Tôn chư Phật, Bồ Tát, tất cả Thánh chúng đã thành tựu sở nguyện phước trí viên mãn. Như hoặc thường tu cúng dường không thể y kinh làm đủ phép tắc. Nay căn cứ vào các bộ Ðà Ra Ni và Thành Phật Tâm Yếu mà chép ra, trước hết ở trước Thánh tượng nhứt tâm cung kính, năm vóc sát đất, khắp lễ mười phương pháp giới, vô tận Phật, Pháp, Tăng Tam-Bảo. Như ngũ tự Ðà Ra Ni tụng khiến kiết Kim Cang ấn, lấy hai tay đôi lưng nhau, hai ngón út hai ngón cái câu móc với nhau, miệng tụng Chơn ngôn 7 biến.

Chơn ngôn: ÚM, PHẠ NHỰT RA VẬT (Ðọc việc hay phệ).

Tụng rồi xả ấn lên trên đảnh, do Chơn ngôn ấn pháp này oai lực không thể nghĩ bàn, tự nhiên biến khắp pháp giới vô tận Tam-Bảo, trước các ngôi Tam-Bảo đều có tự thân lễ bái phụng sự, nhiên hậu lấy đồ ăn uống hương hoa các thứ v.v… tùy sức bày biện nhiều món để trong đồ thanh tịnh, kiết phổ thông kiết tường ấn, ấn đó lấy tay mặt, ngón tay cái cùng ngón vô danh bấm nhau lại ba ngón tay kia mở tản ra, tụng tịnh pháp giới Chơn ngôn, gia trì 21 biến.

Chơn ngôn: Úm Lam (21 biến).

Do sức Chơn ngôn gia trì và oai lực của ấn, các món đồ vật thực ăn uống thảy đều tự nhiên thanh tịnh, khắp nơi pháp giới.

Liên Hoa bộ niệm tụng pháp nói rằng: Ðối với tất cả các món cúng dường hương hoa v.v… chữ LAM tự này phóng ánh sáng sắc trắng, tức không thể uế xúc, vật đã cúng dường đều khắp pháp giới. Kế đến tụng vô lượng oai đức tự tại quang minh thắng diệu lực Biến thực Chơn ngôn: chấp tay gia trì 21 biến.

Chơn ngôn: Nẵng mồ tát phạ đát tha, nghiệt đa phạ lồ chỉ đề, úm tam bạt ra tam bạt ra hồng (21 biến). 

Do sức gia trì Chơn ngôn này, cho nên các món ăn uống kia biến thành thức ăn ngon lành của chư Thiên thượng vị cam lồ, phụng hiến cúng dường mười phương vô tận Tam-Bảo, cũng là tán thán, khuyến thỉnh, tùy hỷ công đức. Kiết xuất sanh cúng dường ấn, hai tay chấp lại mười ngón ngoài tréo nhau, hai lóng đầu của các ngón giao nhau, để trên đảnh đầu, tụng xuất sanh cúng dường Chơn ngôn 21 biến: ÚM. Do Chơn ngôn này và ấn oai lực không thể nghĩ bàn, tự nhiên biến khắp pháp giới, xuất sanh vô tận hương hoa, đèn nến, tràng phan, bảo cái, y phục, ngọa cụ, lầu các, âm nhạc v.v… các món cúng dường đầy đủ biến khắp pháp giới vô tận Tam-Bảo v.v… Nếu không có các món ẩm thực hương hoa v.v… chỉ đối trước Phật vận tưởng kết ấn tụng chú, cũng tự nhiên xuất sanh các món cúng dường như trên đầy đủ khắp pháp giới Tam-Bảo.(Ðây là biến thực Chơn ngôn lý thú công đức như sau sẽ rộng rõ).

1- KẾ ÐẾN TU BI ÐIỀN

Muốn cúng chí đồ ăn cho chư Tiên, lấy một cái đồ thanh tịnh đựng đầy các thức ăn uống, tụng biến thực Chơn ngôn 21 biến, ném vào trong dòng nước trong sạch, tức biến thành món ăn mỹ diệu của Thiên Tiên, cúng dường trăm ngàn ức hằng hà sa số chư Tiên, hết thảy các chư Tiên kia được gia trì món ăn mỗi mỗi đều thành tựu sở nguyện các thiện công đức. Nếu người nào lấy Chơn ngôn này gia trì trong đồ ăn uống cúng thí cho chúng chư Tiên, hay khiến hiện đời tăng trưởng phước thọ, tâm được thanh tịnh thấy nghe chánh giải, đầy đủ thành tựu Phạm Thiên oai đức, tất cả oán thù không thể xâm hại.

Muốn cứu tế các loài ngã quỷ, mỗi buổi sớm chiều hay các thời khác cũng đều không ngại. Lấy đồ sạch đựng ít nước tịnh thủy để vào ít cơm và đồ ăn như bánh, lấy tay trái cầm đồ đựng, tay mặt kiết Bảo ấn. (Lấy ngón tay cái, ngón tay trỏ, ngón tay giữa, ngón tay út mở ra, lấy ngón vô danh dùng khoáy vào trên đồ ăn, thí cho các Tiên ăn cũng dùng ấy này). Tụng Biến thực Chơn ngôn 7 biến gia trì rồi nhiên hậu xưng danh hiệu bốn đức Như Lai.

Nam Mô Ða Bảo Như Lai (hay phá nghiệp xan lẫn của ngã quỷ, được phước đức viên mãn.)

Nam Mô Diệu Sắc Thân Như Lai (hay trừ hình hài xấu xí của ngã quỷ, được sắc tướng đầy đủ.)

Nam Mô Quảng Bát Thân Như Lai (hay khiến yết hầu ngã quỷ mở lớn ăn được đồ cúng thí, hết thảy được no đủ.)

Nam Mô Ly Bố Úy Như Lai (hay trừ tất cả sự sợ hãi của ngã quỷ được xa lìa quỷ đạo.)

Xưng Như Lai danh hiệu rồi, gảy móng tay bảy lần, lấy đồ ăn kia để trên đất sạch, mở tay mặt rưới đó (trên đá sạch, cây, đồ sành cũng được.) Phật dạy gia trì Ðà Ra Ni này 7 biến, hay khiến tất cả các món ăn uống biến thành các thứ cam lồ, ăn uống no đủ, trăm ngàn ức na do tha hằng hà sa số tất cả quỷ thần và hết thảy các loại ngã quỷ khác đều được no đủ, các chúng ngã quỷ như vậy, mỗi mỗi đều được 49 hộc to lớn các đồ ăn uống, như nước Ma Già Ðà. Nước và đồ ăn uống đồng pháp giới, ăn được đồ ăn vô tận ấy đều được thành Thánh quả, giải thoát khổ thân được sanh lên cõi trời và sanh về Tịnh độ. Người hay cúng thí, hiện đời được đầy đủ vô lượng phước đức, thời đồng với công đức cúng dường trăm ngàn ức các đức Như Lai không khác.

GIẢI: Phải biết đây là sức vô lượng oai đức, tự tại quang minh thắng diệu. Biến thực Ðà Ra Ni, tức là bí tạng của ba đức. Bí tạng này, đầy đủ tất cả pháp, có công năng lưu xuất vô cùng, xuất sanh vô lượng châu biến pháp giới, khắp cúng dường ba đức: Pháp thân, Bát Nhã, Giải thoát và đầy đủ Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, bốn đức của pháp thân, không riêng gì Pháp thân có đầy đủ Bát NhãGiải thoát; mà Bát Nhã, Giải thoát cũng đầy đủ như vậy. Nói oai đức tự tại ấy; tức là Giải thoát đức. Quang minh ấy; là Bát Nhã đức. Thắng diệu ấy; là Pháp thân đức. Lực ấy là sức của ba đức. Phạm ngữ Ðà Ra Ni đây dịch rằng: Tổng trì nghĩa là Tổng trì ba đức, tóm lại là ở nơi nhứt tâm, một tâm đủ tam đức, pháp nhĩ đầy đủ như vậy. Song nhứt tâm tức Ðà Ra Ni. Ðà Ra Ni tức là pháp thực, đều lấy ba đức chung làm Thể, cũng đều lấy ba đức chung làm Dụng. Người ở bên Viên giáo, do hay rõ biết bí tạng của ba đức đầy đủ tất cả pháp, tất cả các pháp thể của nó là ba đức. Cho nên nêu Thể khởi Dụng làm ra hiện tiền những phần ban thí ra các món ăn, ở trong mỗi mỗi món ăn ấy, xuất sanh tất cả Thiên Tu Ðà Cam Lồ Vị và hết sức vui mừng, phàm những món như bơ, phô ma, đề hồ, tất cả các món ăn mỹ vị thảy đều đầy đủ. Ở đây trong mỗi mỗi vị cũng lại xuất sanh hương thơm vi diệu, hoa báu nhiệm mầu, áo trời đẹp đẽ, chuỗi ngọc trân châu, các thứ xe báu, tất cả đồ phục dụng, chuông khánh, kim bạt, thiều sáo, sừng ốc, nhạc cụ, đờn ca, tất cả diệu âm, dòng suối trong mát, ao tắm thanh tịnh, hoa trái vườn rừng, hào quang chiều sáng, lâu đài cung điện, tất cả trụ xứ. Lại ở trong mỗi mỗi mỹ vị, mỗi mỗi phục dụng, mỗi mỗi diệu âm, mỗi mỗi trụ xứ. Mỗi vật kia xuất sanh tất cả diệu cúng của lục trần, như trên đều chu biến khắp hết. Một món đồ ăn đựng nhỏ cho đến một thìa, mà chỗ thọ dụng năng thí mầu nhiệm không thể nghĩ bàn ấy. Vì đây một tức toàn thể của ba đức.

Tôi nay trì ba đức này, đã huân ướp diệu cúng của sáu trần khắp thí pháp giới vô lượng quần sanh, một thời đầy đủ, không còn thiếu kém. Tuy vật ban thí mà cũng vốn không có ta, và chúng sanh, cũng không có tướng, là vì không quán vậy. Tuy lại không, mà cùng không giữ lấy, không vật, không ta, không chúng sanh, người thí, kẻ thọ và những vật trong ấy đều uyển nhiên rõ ràng có thể thấy được, là bởi vì nhờ ở sự quán tưởng, trong một tâm rõ biết người thí, kẻ thọ và các vật đã bố thí, chẳng phải có, cũng chẳng phải không có, tam luân cu tuyệt (cả ba đều tuyệt nhiên vắng lặng). Là bởi vì trong ấy do sức quán tưởng, ba quán chiều trong một niệm, đắc không sau, không trước, tưởng gì? Nghĩ gì? Hãy luyện pháp quán tưởng như vậy mà tu hạnh bố thí. Ấy là không trụ tưởng bố thí, hay là các chúng sanh thọ thí. Khi bố thí này mỗi mỗi món ăn tự nhiên đều được thiền duyệt pháp hỷ. Vì vậycõi Trời chuyển thêm thắng phước, nơi cõi Người thì đốn ngộ nguồn chơn, ở Tu la thì tâm được điều phục, ở Ngã quỷ thì được no đủ, ở Súc sanh thì tự được trí huệ, nơi Ðịa ngục vĩnh thoát giam cầm câu thúc. Liền khi bấy giờ đều hối hận ăn năn nghiệp nhơn đã tạo, tiến cầu đạo quả xuất thế. Nên biết là pháp, là thực đều được lợi lạc. Thí như ướp thuốc, thuốc tùy sức lửa, nhập vào trong thân người, bịnh hoạn trừ diệt trở lại khỏe mạnh, pháp thực ăn vào cũng lại như vậy. Hoặc gần hoặc xa trọn phá vô minh.

Nếu lấy một bát nước, dùng Cam lồ Chơn ngôn gia trì 7 biến, tán rải nơi hư không, một giọt nước kia, tức biến thành 10 hộc vị cam lồ, tất cả ngã quỷ đều được uống đủ, không có thiếu kém, thảy đều đầy đủ sung mãn.

Chơn ngôn: Nam Mô tố rô bá da, đát đa nga tha da, đát điệt tha – Úm tố rô tố rô bá ra tố rô bá ra tố rô ta phạ ha (7 biến). 

GIẢI: Giả như không có đồ ăn uống, tức dùng Cam lồ Chơn ngôn gia trì trong nước đem thí, khiến tất cả ngã quỷ thảy đều no đủ. Nếu có bốn chúng đệ tử, dùng Chơn ngôn này và danh hiệu bốn đức Như Lai gia trì đồ ăn uốngbố thí các loài ngã quỷ, thì hay được đầy đủ vô lượng công đức, tuổi thọ sống lâu phước đức tăng vinh. Lại được nhan sắc trắng đẹp, oai đức mạnh mẽ, mau chóng đầy đủ đàn Ba la mật (Bố thí Ba la mật). Tất cả Dạ Xoa, La Sát, các ác Quỷ Thần, người chẳng phải người v.v… đều kính nể người đó, không dám lại gần xâm hại.

TRÍ CỰ NHƯ LAI TÂM PHÁ ÐỊA NGỤC CHƠN NGÔN

Kinh Biệt Hành nói: Thần chú này nếu tụng một biến, địa ngục Vô gián tan nát như vi trần, những chúng sanh thọ khổ ở trong đó, thảy đều sanh về Cực Lạc. Nếu viết Thần chú này bằng chữ Phạn nơi chuông, nơi trống, nơi linh, nơi khánh, có các âm thanh, hoặc trên bảng mộc v.v… Chúng sanh nào nghe được tiếng ấy, các tội thập ác ngũ nghịch thảy đều tiêu diệt, không còn đọa vào trong các ác thú.

Chơn ngôn: Nẵng mồ a sái tra tất để nẫm, Tam ma dã tam mẫu đà cố trí nẫm; Úm cấn nghiết nẵng phạ bà, tất đề lị đề lị hồng. (Viết chữ Hán và chữ Phạn trên chuông, trống rất là nhiệm mầu.)

TỲ LÔ GIÁ NA PHẬT ÐẠI QUÁN ÐẢNH QUANG CHƠN NGÔN

Kinh Bất Không Quyến Thần Biến nói: Nếu có các chúng sanh tạo đủ mười điều ác, năm nghịch tội, bốn trọng giới, tội số như vi trần đầy khắp thế giới, thân hoại mạng chết thần thức đọa vào các ác đạo. Dùng Chơn ngôn này gia trì vào đất, cát, 108 biến tán rải nơi vong linh, nơi tử thi, nơi hài cốt, rải trên mồ mả, vong linh kia nếu ở địa ngục, ngã quỷ, tu la, súc sanh v.v… nhờ sức Chơn ngôn gia trì tức liền khi ấy được ánh hào quang của chư Phật rọi vào, thân trừ các tội báo, bỏ thân khổ sở, vãng sanh về Tây phương Cực Lạc thế giới, hóa sanh trong hoa sen, thẳng đến thành Phật, không còn đọa lạc.

Chơn ngôn: Úm a mộ già vĩ lô tả nẵng ma hạ, mẫu nại ra ma nĩ bát nạp mạ nhập phạ ra, bát ra mạt đa dã hồng (108 biến).

GIẢI: A mộ già đây nói rằng vô gián đoạn. Vĩ lô tả nẵng cũng nói Phệ lô giá na. Hoặc dùng giấy, vải lụa, viết chép Thần chú này để nơi vong nhơn nơi trên thân, hoặc trên hài cốt cũng rất nhiệm mầu. Có bài kệ rằng: Chơn ngôn Phạn tự chạm xúc nơi thi cốt của vong nhơn, được sanh về cõi tịnh độ, thấy Phật nghe pháp, gần gũi thọ ký mau chứng Vô thượng đại Bồ đề. Kinh Bất Không Quyến nói: Nếu nghe Thần chú này hai, ba, đến bảy lần trải qua nơi tai mình, tức được trừ diệt tất cả tội chướng. Nếu có chúng sanh, chầy năm nhiều tháng bịnh hoạn khổ sở hoành hành, vạn mối sầu khổ; ấy là người bịnh do nghiệp báo đời trước, tụng Chơn ngôn này trước người bịnh nhơn một, hai đến ba ngày, mỗi ngày lớn tiếng tụng Thần chú này 1080 biến thì được trừ diệt túc nghiệp bịnh chướng. Nếu bị quỷ mị làm nhiễu hại cuồng loạn mất tiếng không nói được, trì Chơn ngôn này gia trì nơi tay 108 biến thoa nơi đầu mặt, để tay nơi ngực nơi trán gia trì 1080 biến bịnh được trừ lành. Nếu các quỷ thần vọng lượng làm bịnh, gia trì nơi chỉ ngũ sắc 108 biến thành 108 gút, đeo trên lưng, tay, cổ người bịnh, hoặc gia trì nơi áo mặc, bịnh kia liền trừ lành.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5202)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2671)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6148)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3063)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3112)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3314)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3247)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3307)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4564)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2737)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5223)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3881)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3850)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3212)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4147)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5055)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3519)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6750)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3971)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3226)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3106)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2969)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5873)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4640)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3504)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2904)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3316)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4433)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5732)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6646)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3732)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4542)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4617)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3978)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3412)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4633)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6062)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5850)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3643)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4693)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4464)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4533)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4273)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4601)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8226)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3928)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5728)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5216)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6860)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6185)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 6000)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5813)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6306)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6796)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4979)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5577)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6400)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3794)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5427)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10477)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant