Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Mối quan hệ tình bạn theo tinh thần kinh Hiền Nhân

23 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 15547)
Mối quan hệ tình bạn theo tinh thần kinh Hiền Nhân

MỐI QUAN HỆ TÌNH BẠN
THEO TINH THẦN KINH HIỀN NHÂN
Thích Thiện Bảo

Sự ảnh hưởng sâu rộng của Đức PhậtTăng đoàn đã làm cho ngoại đạo lo sợ quần chúng sẽ theo Phật và xa rời họ. Do đó, một nhóm ngoại đạo đã suy nghĩ, toan tính âm mưu triệt hạ uy danh Đức Phật. Sau cùng, một nữ đệ tử cuồng tín của họ tên là Tôn Đà Lợi đã chấp nhận hy sinh bản thân cho mục đích đen tối đó. Tôn Đà Lợi thường xuyên trang điểm đẹp đẽ, ôm hoa đến cúng dường Phật. Một thời gian sau, bọn chúng giết cô gái và vùi xác cô phía sau tinh xá, phao tin rằng Phật đã thủ tiêu cô gái nhằm ém nhẹm mối quan hệ bất chính của Ngài. Vụ việc khiến không ít người xôn xao, nghi hoặc. Vua Ba Tư Nặc cho người theo dõi, điều tra vụ việc. Cuối cùng, chân tướng sự việc đã được phát lộ do ngoại đạo tranh cãi về việc phân chia tiền bạc bất đồng sau khi vụ án hoàn thành

Qua câu chuyện trên, vua Ba Tư Nặc thắc mắc tại sao Đức Phậtđời sống trong sáng như vậy mà còn bị hãm hại. Theo đó, Đức Phật đã kể lại một tiền kiếp của Ngài, là nhân duyên của kinh Hiền Nhân.

Chuyện được bắt đầu từ một người tên Hiền Nhân, sinh trong một gia đình có 3 anh em. Sau khi thân phụ mất, 2 người anh tham lam, dẫn đến xung đột trong việc phân chia tài sản. Hiền Nhân quyết bỏ tất cả lợi dưỡng, ra đi tìm đường học đạo. Sau khi gặp được minh sư, ngộ được đạo mầu, Hiền Nhân dùng trí tuệ, phương tiện giáo hóa quần sinh. Vua nước Lâm Đạt cảm được đạo hạnh của Ngài, tôn làm quốc sư, góp phần giáo hóa, đem lại sự an bình cho nhân dân trong nước. Tuy thế, 4 vị quan tham ô trong triều sinh lòng đố kỵ, mua chuộc và xúi giục hoàng hậu bày hạ kế khiến vua phải đuổi Hiền Nhân đi.

Vua nghe lời hoàng hậu, ngược đãi Ngài. Hiền Nhân đọc được bạc tâm của vua và hoàng hậu, quyết định một y một bát vào núi ẩn cư tu hành. Trước khi ra đi, Ngài đã có một đối thoại vô cùng hữu ích với nhà vua, đó là một cái nhìn độc đáo về văn hóa ứng xử đạo đức cũng như phương cách sống của mọi người ở mọi vị trí khác nhau trong đời sống cộng đồng. Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá trong mọi hoàn cảnh xã hội, xưa cũng như nay.

Ở đây, chỉ trong phạm vi một lát cắt về tình bạn, đã được Đức Phật đề cập rất tinh tế, như là một chuẩn mực thể hiện đạo lý làm người, giúp chúng ta nhận chân được nhân cách con người thông qua hành vi giao tiếp, ứng xử. Lời dạy của Phật không chỉ là những tình huống ứng đối mà còn giúp chúng ta có một lối sống phù hợp với đạo lý làm người trước những hoàn cảnh trái với mong muốn.

Ngài dạy: “Thương yêu nhau rồi có sự giận ghét nhau, khi thương thì muốn nhờ cậy, lúc ghét thì chẳng muốn gần. Lấy sự cung kỉnh nhau để cầu thân thiện, lấy sự răn dạy lẫn nhau để tránh xa điều ác. (...) Người không có lỗi với mình, thì mình không nên bày đặt sự sai lầm mà vu oan cho họ. Người muốn xa ta thì ta không nên miễn cưỡng gần họ. Sự thương yêu đã xa lìa thì không nên nghĩ đến.

Con chim đậu gãy nhánh còn biết đi tìm nhánh khác để đậu, huống chi làm người qua lại có pháp độ, hà tất phải thủ thường. Cành mục ta không nên vịn nắm, người loạn ý ta chẳng phạm nhằm họ. Người muốn đem việc xấu cho nhau, dù thấy nhau cũng không vui, ta xướng mà người không phụ họa theo, nên biết đó là người ở bạc. Người muốn đem việc lành cho nhau thì dù chậm dù gấp cũng phải đi; đem lời trung chính nhắc nhở nhau, thì cũng đủ biết người ấy là người hậu. (...) Bạn tri thức gặp nhau, chủ đãi khách, đêm đầu thì quý như vàng, đêm thứ hai thì làm lơ như bạc, đêm thứ ba lạt nhách như đồng, chứng cớ rõ ràng như vậy, nếu tôi không đi, đợi đến chừng nào mới đi?”.

Trong cuộc đối thoại này, Hiền Nhân đã trình bày cho vua rất nhiều khía cạnh về sự ứng đối giữa người với người. Đặc biệt và đáng chú ý nhất có lẽ là sự khái quát về bốn cách kết bạn, như là một châm ngôn, một bài học luân lý - đạo đức Phật giáoĐức Phật đã gửi đến nhân loại: “Bạn có bốn thứ: một là kết bạn như hoa, hai là kết bạn như cân, ba là kết bạn như núi, bốn là kết bạn như đất”.

Sao gọi là kết bạn như hoa?

Khi bông hoa còn tươi tốt thì giắt trên đầu, khô héo rồi bỏ đi. Kết bạn cũng thế: hễ thấy giàu sang thì xu phụ theo, thấy nghèo nàn lại bỏ làm lơ.

Chúng ta thấy, Đức Phật đã minh họa một cách hình tượngthực tiễn như thế nào khi đề cập đến kiểu kết bạn thiếu nhân, thiếu nghĩa, chỉ xu theo vật chất, lợi dưỡng. Một người bạn mà ứng xử như thế thì làm sao chúng ta có thể kết bạn lâu dài? Chính điểm này, trong đoạn kinh, Hiền Nhân đã nói với vua: “Ở đời, có thịnh ắt có suy, có hội họp ắt có ly tán, lành dữ vô thường, họa phúc tự mình chuốc lấy. Kết bạn mà không bền chắc thì không nên thân. Thân mà không có chừng độ, thân lâu sẽ có khinh lờn. Ví như múc nước giếng, múc sâu thì nổi cặn. Gần người hiền được thêm trí tuệ, ở với kẻ dốt càng thêm ngu si. Thường thấy thì hay khinh lờn, xa nhau thì sanh oán giận. Giao tiếp người lành nên qua lại có chừng độ, thân mà có cung kỉnh thì thân lâu ngày càng có hậu. Giao thiệp với kẻ bất lương, họ ăn ở không thực thà, lời ngon tiếng ngọt chẳng qua là để lợi dụng mình, dù cho có kết hợp cũng không nên tin…” .

Trong cuộc sống, kiểu kết bạn này dường như không hiếm. Cho nên, trong cơn hoạn nạn mới có thể nhận thấy được đâu là tình bạn thủy chung, đích thực. Khi giàu sang hay khi quyền cao chức trọng, nếu có nhiều người đến giao du kết bạn, thì ta hãy khoan vội mừng, cho rằng mình được nhiều người quý trọng và lắm bạn hiền. Bạn hiền thì dù ta giàu hay nghèo, sang hay hèn, miễn là còn giữ được phẩm chất, nhân cách, thì bạn không bao giờ thay lòng đổi dạ.

Sao gọi là kết bạn như cân?

Khi để vật nặng thì đầu gục xuống, vật nhẹ thì đầu vổng lên, có qua lại thì cung kính nhau, không qua lại thì khi dể nhau.

Đó là tình bạn như cân, lúc vổng lên, lúc hạ xuống, khi tỏ vẻ trọng vọng, khi rất đỗi coi thường. Cũng như trên, ngày nay có không ít những “tình bạn” như thế. Nhất là trên “quan trường hoạn lộ”, khi ta còn đương chức đương quyền, có biết bao người đến thăm hỏi, quà cáp; khi ta thất thế hay về hưu thì tất cả những bạn bè trước đây đều không còn lui tới, qua lại. Tìm được người tri âm, tri kỷ có lẽ còn khó hơn tìm vàng.

Thời Đông Chu có câu chuyện về tình bạn như sau: “Bảo Thúc chết, Quản Trọng thương tiếc khóc ướt đầm cả vạt áo. Có người hỏi: Ông với Bảo Thúc vốn không phải họ hàng thân thích, cớ sao lại thương tiếc, khóc than như vậy?

Quản Trọng nói: Lúc nhỏ tôi khốn khổ, thường đi buôn chung với Bảo Thúc, lúc chia lãi bao giờ ta cũng lấy phần hơn mà Bảo Thúc không cho ta là tham, vì biết tôi gặp cảnh quẫn bách, bất đắc dĩ phải lấy như thế. Tôi ở chỗ chợ búa, thường bị lắm kẻ dọa nạt, Bảo Thúc không cho ta là kẻ hèn nhát, vì biết tôi có lượng khoan dung. Bàn việc với Bảo Thúc, nhiều khi việc hỏng, Bảo Thúc không cho tôi là ngu, biết con người có lúc may, lúc rủi cho nên công việc có lúc thành, lúc bại. Tôi ba lần ra làm quan, ba lần bị bãi chức, Bảo Thúc không bao giờ xem thường xa lánh, vì biết tôi chưa gặp thời… Đối với người hiểu mình, mình đem cả tính mạng ra cống hiến còn chưa là quá, huống chi thương tiếc mà khóc thế này thì thấm vào đâu...”.

Bạn như thế có mấy người? Nhân tình ấm lạnh, cuộc sống dễ đổi thay, đây là lẽ thực của nhân sinh...

Sao gọi là kết bạn như núi?

Hòn núi vàng, loài chim thú tụ về, lông cánh được chói màu vàng rực. Kết bạn cũng thế: khi sang thời sang với nhau, khi vui đồng vui.

Việt Nam chúng ta có câu “Giàu vì bạn, sang vì vợ”. Quý thay những người có thể hy sinh cả sự nghiệp cho bạn như chuyện Lưu Bình - Dương Lễ...

Bên cạnh đó, dường như ai trong chúng ta cũng biết câu chuyện Bá Nha - Tử Kỳ. Câu chuyện đã tạo nên một giai thoại, và cũng qua câu chuyện này, người đời có câu “tri âm tri kỷ” để chỉ cho kiểu tình bạn cảm thông, thấu hiểu, không phân biệt sang hèn.

Bá Nha và Tử Kỳ là hai người bạn tri âm thời Xuân Thu Chiến Quốc. Sách Lã Thị Xuân Thu chép: “Bá Nha gảy đàn, Tử Kỳ ở ngoài nghe trộm”. Tử Kỳ còn khen tiếng đàn của Bá Nha lúc thì “nguy nguy hồ chí tại cao sơn”, lúc thì “dương dương hồ chí tại lưu thủy”.

Bá Nha, họ Du tên Thụy, người nước Sở, nhưng làm quan Thượng Ðại Phu nước Tấn. Bá Nha nổi tiếng là một khách phong lưu văn mặc, lại có ngón đàn tuyệt diệu nhất đời và không bao giờ rời cây Dao cầm yêu quý của mình. Còn Tử Kỳ họ Chung tên Huy, là một danh sĩ ẩn dật làm nghề đốn củi để báo hiếu cha mẹ tuổi già nua, nhà tại Tập Hiền Thôn, gần núi Mã Yên, ở cửa sông Hán Dương.

Một hôm, Bá Nha đến cửa sông Hán Thương, gặp đêm trăng sáng, bèn cắm thuyền dưới chân núi Mã Yên, dồn hết tâm tư dạo một khúc đàn. Đàn chưa dứt bài thì dây bỗng đứt; Bá Nha nghĩ có người nghe trộm, bèn cho người đi tìm. Người chưa kịp đi thì nghe tiếng nói: - Xin đại nhân thứ lỗi cho, tiểu dân này đi kiếm củi về muộn, đi ngang qua đây, nghe tiếng đàn tuyệt diệu quá, nên cất bước đi không đành! Bá Nha cười lớn bảo: - Người tiều phu nào đó dám nói hai tiếng nghe đàn với ta? Tiếng nói từ trên núi lại đáp lại: - Đại nhân nói vậy, kẻ hèn này trộm nghĩ là không đúng. Há đại nhân không nhớ câu nói của người xưa: “Thập nhất chi ấp tất hữu trung tín” (Trong một ấp có mười nhà ắt có người trung tín). Hễ trong nhà có quân tử thì ngoài cửa ắt có người quân tử đến... Nếu đại nhân khinh chỗ quê mùa không người biết nghe đàn, thì cũng không nên khảy lên khúc đàn tuyệt diệu làm gì. Bá Nha có vẻ ngượng khi nghe câu nói của người tiều phu. Biết mình lỡ lời, liền tiến sát đến mũi thuyền dịu giọng nói: - Người quân tử ở trên bờ, nếu thực biết nghe đàn, biết vừa rồi ta khảy khúc gì không? - Khúc đàn đại nhân vừa tấu đó là: Ðức Khổng Tử khóc thầy Nhan Hồi, phổ vào tiếng đàn, lời rằng: Khả liên Nhan Hồi mệnh tảo vong / Giáo nhân tư tưởng mấn như sương / Chỉ nhân lậu hạng đan biều lạc. Hồi nãy, đại nhân đang đàn thì đứt dây, nên còn thiếu mất câu bốn là: Lưu đắc hiền danh vạn cổ dương...

Bá Nha vô cùng bái phục và xin kết nghĩa anh em. Năm sau, trở lại chốn cũ, hay tin Tử Kỳ đã mất, Bá Nha đến mộ lễ lạy, xong tấu khúc tiếc thương và đập vỡ Dao cầm. Vì Bá Nha hiểu rằng, từ đây, không ai có thể thấu được tiếng đàn / tiếng lòng của ông nữa... Dao cầm đập nát đau lòng phượng / Ðàn vắng Tử Kỳ, đàn với ai? / Gió xuân khắp mặt bao bè bạn / Muốn kiếm tri âm, ôi khó thay!

Sao gọi là kết bạn như đất?

Tất cả mọi vật đều dựa đất mà sinh. Làm bạn để nuôi dưỡng, ủng hộ, ân hậu không quên...

Đây là mối quan hệ bạn bè nương tựa nhau để cùng tiến bộ, là tấm gương bạn bè chân tình, cao quý - một trong những yếu tố tạo nên tinh thần tùy hỷ trong đạo Phật. Khi thấy bạn có những tiến bộ, mình không sanh lòng ganh tỵ; khi thấy bạn gặp cảnh ngộ thiệt thòi, kém sút, mình cũng không sanh tâm khi dể, rẫy ruồng.

Sự tương thân đó làm cho tánh vị kỷ không còn tồn tại trong mỗi con người. Chính vì sự vị kỷcon người sanh ra đố kỵ, làm cản trở sự tiến bộ của người khác.

Bồ tát Hiền Nhân đã nói: “Kẻ trí giả nhìn thấy rõ ràng đời là một sự biến đổi tang thương; trẻ trung rồi sẽ già nua, cường tráng rồi sẽ suy nhược, có sống thì sẽ có chết; giàu sang như mây nổi, đều là vô thường cả. Cho nên, lúc an ổn phải nghĩ đến khi nguy ngập, khi hưng thạnh thì nghĩ đến lúc vô thường, người lành thì kính mến, người ác thì phải lánh xa. Có giận hờn ai thì nên trừ bỏ, đừng vì thế mà gây ác hại người. Nhu hòa mà khó xâm phạm, yếu đuối mà người khó thắng. Người trí như vậy đó, ta không nên khinh thường…”

Trong xã hội Việt Nam chúng ta hiện nay cũng có những con người biết sống chia sẻ cùng nhau lúc khó khăn, được xem là “cổ tích thời hiện đại”. Điển hình như câu chuyện ở thôn Hội Phú, xã An Ninh Tây (huyện Tuy An - Phú Yên) - một học sinh lành lặn (Nguyễn Thị Định), cõng một học sinh khuyết tật (Lâm Thị Minh Trang) đến trường suốt những năm cấp 2; lên đến cấp 3, cả hai mới được đến trường bằng xe đạp... 

Có thể nói, tình bạn như thế đã nói lên sự hy sinh, giúp nhau cùng tiến bộ. Tình bạn đó không còn là tình bạn thường tình, mà đã tạo nên một nhân cách lớn, và không phải chỉ có trong những trang “cổ tích”, mà là một hình ảnh tuyệt đẹp giữa đời thường, trong xã hội hiện đại.

Qua bốn kiểu kết bạn trong kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận thức rõ lối ứng xử trong mối tương quan bạn bè, hay nói khác hơn, dù chúng ta làm bất cứ nghề nghiệp gì, khi chọn đối tác hay tạo mối quan hệ, chúng ta cũng có thể ứng dụng bốn cách này để có thể nhận chân về những mối quan hệ mà ta đang có, đồng thời tạo nên một lối ứng xử có thủy có chung, có văn hóa, đạo đức.

Có thể nói, qua đây, chúng ta cũng thấy rõ giáo lý đạo Phật không chỉ nói về những vấn đề “xuất thế”, mà Đức Phật cũng đã rất chú trọng về vấn đề “nhập thế” - hoàn thiện nhân cách trước khi đạt được thánh cách - giúp cho tất cả chúng ta một phương pháp ứng xử phù hợp với đạo lý làm người, tạo nên một nhân cách sống. Nhân cách sống đó, dù bất cứ ở đâu và bất cứ thời điểm nào, cũng có thể ứng dụng và mang lại những kết quả tốt đẹp.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7311)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4492)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4539)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7274)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2941)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12174)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3974)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3785)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4172)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3660)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5014)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6634)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3976)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4089)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5308)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3772)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4509)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3531)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3912)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4377)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5376)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3831)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3916)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3850)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4796)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4494)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4230)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3809)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4611)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4170)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6072)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4581)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4927)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4139)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4791)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5638)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3598)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4011)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4571)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5256)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3123)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4729)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4515)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4262)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4718)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4475)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4581)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7193)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5177)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4979)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4566)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5587)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5243)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4140)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5985)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4699)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4852)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5458)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5597)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5790)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant