Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thực tại và chí đạo

02 Tháng Chín 201100:00(Xem: 19421)
Thực tại và chí đạo

THỰC TẠI VÀ CHÍ ĐẠO
Phổ Nguyệt, Ph.D.

MỤC LỤC

PHẦN MỘT
Tri Kiến

CHƯƠNG MỘT: Về Thực Tại

A. Thực Tại Tuyệt Đố 
-Hegel- Schopenhauer - Kierkegard - Heidegger - Cơ Cấu Thuyết -
-Các Nền Triết Học Đông Phương.
B. Thực Tại Tương Đối
Danh và Thể
CHƯƠNG HAI: Tri Kiến Thiên Chúa Giáo

 -Jesus- Phato- Augustine. 
CHƯƠNG BA: Tri Kiến Phật Gíao 

 A.. Tổng Quát. 
 B. Tánh Không Duyên Khởi
 C. Chơn Không Diệu Hữu
 D. Tàng Thức (A laị da Thức)
1. Phân tích Tàng Thức
1.1. Sự phát triển
1.2. Cơ cấu
1.3. Sự chuyển hướng
1.4. Asanga và sự phối hợp Tàng Thức vào thế giới quan Duy Thức
1.5. Ý nghĩa và tác năng của Tàng Thức trong hệ thống Duy Thứ của Asanga
2. Từ Thực Tại Luận đến Giải Thoát luận
2.1. Tàng Thức như là nền tảng của tạp nhiễm lẫn tịnh hóa
2.2. Tự tính tùy thuộcchuyển y
2.3. Tàng ThứcPháp Thân trong chuyển y theo Asanga
3. Kết Luận
Câu Chuyện Nàng Bhadda

CHƯƠNG BỐN: Cơ Cấu của Lý Thuyết về Tri Kiến

 I. Theo Kant
1. Tính lưỡng phân
2. Cảm quan, không, thời
3. Suy tưởng
4. Từ Phán định đến Phạm trù
5. Hai phân nhánh
6. Ý thức chứ không phải là sự hữu là khởi điểm
 II. Theo Phật Giáo
Cấu trúc Tâm Kinh theo Viên Trắc
Bát Nhã Tâm Kinh qua cái nhìn của Duy Thức, HT. Thích Thắng Hoan
Tâm Phật theo kinh Hoa Nghiêm
Đại Thừa Tuyệt Đối Luận của Nguyệt Khuê Thiền Sư
Tâm và Tự Tính của Tâm theo Tạng Thư Sống Chết
CHƯƠNG NĂM: Kinh Nghiệm Giòng Sống Chết

 I. Tử Thư Tây Tạng (Padma Sambhava).
1. Lời Tựa
2. Lời Giới Thiệu
Những kinh nghiêm về cái Chết trong các truyền thống huyền môn.
II. Tạng Thư Sống Chết: Chết và Tái Sanh.(Sogyal Rinpoche). 
1. Nền Tảng
2. Nền tảng của Tâm phàm tình
3. Mẹ con gặp gở
4. Thời gian và Ánh Sáng căn bản
5. Cái chết của một bậc thầy
PHẦN HAI

Giải Thoát Tri Kiến

CHƯƠNG MỘT: Cái Nhìn Bát Nhã Tâm Kinh Qua Lăng kính Thời Không

 I. Mục Đích- Khái Niệm về Tư Duy Thời Không
1. Chủ Đích
2. Nhận Định về Thời Không
3. Thời Không và triết lý Duy Thức
 II. Cơ Cấu Cái Trí theo Thời Không
A.-Phân Tích Ngủ Uản
B.-Các Loại Trí
 III.-Phân Tích Bát Nhã Tâm Kinh
A. Trí quan sát (chủ thể quan sát): Năng Tri
B. Đối Tượng quan sát: Ngũ uẩnTánh Không: Sở Tri
C. Đặc Tính Các Pháp:
a) . Tự tính tuyệt đối
b) . Tự tính tùy thuộc
c) . Tự tính giả lập
d) . Tính vô ngả
e) , Không gian tính : Nhân duyên quả
f) . Thời gian tính
g) . Giải kiến Tánh Không của Tứ Diệu Đế
h) . Giải kiến Tánh Không của Trí và Đắc
D. Quả Đạt Được
1). Quả
a). Thoát khỏi khổ ách
b). Giác ngộ Niết Bàn
c). Chứng minh
2). Tán tụng
E. Kết Luận
 CHƯƠNG HAI: Thắp Sáng Hiện Hữu

 1). Minh Sát Tuệ
2).Quán Tứ Niệm Xứ
3). Quán Âm Thanh và Ánh Sáng
4). Niệm Phật
5). Niệm Thần Chú
6). Khán Thoại Đầu hay Công Án
7). Tĩnh Tâm hay Im Lặng Thánh

 CHƯƠNG BA: Chí Đạo
 I.- Thiệt Tánh Giác.
1).-Không Gian
2.-Thời Gian
 II.- Vài Thí Dụ về Sự Giải Thích Thiệt Tánh Giác

 1). Văn Thù Sư Lợi thăm bịnh Duy Ma Cật (kinh Duy Ma Cật)
2). Trực Tâm (phẩm Phật Quốc, kinh Duy Ma Cật)
3). Truyện Nàng Bhađda

 III.-Phương Tiện Biện Minh Cứu Cánh
 A.-Pháp Phương Tiện
B.- Chí Đạo: Pháp Bổn Như Vô Pháp

 1). Bình Thường Tâm là Đạo
2). Thiền Dzogchen

IV.- Cái Chết Của Sự Sống Tự Tại.

 1). Hành Trì Cho Người Sắp Chết
2). Tự Tại Khi Chết

 KẾT LUẬN
PHỤ TRANG: SÁCH THAM KHẢO

1. Ba Trụ Thiền, Philip Kapleau, Đỗ đình Hồng dịch. 1954
2. Bát Nhã Tâm Kinh Qua Cái Nhìn Của Duy Thức, HT.T.Thắng Hoan, 1996
3. Chuyện Cổ Phật Giáo, tập chép tay do Đ.H Nguyễn Phước Lộc Vũng Tàu
4. Đại Thừa Tuyệt Đối Luận,Nguyệt Khuê Thiền Sư, T.Duy Lực dịch
5. Kim Cang Tam Muội, Thuần Tâm
6. Kinh Duy Ma Cật, dịch giả T. Huệ Hưng,1970
7. Kinh Hoa Nghiêm Luận Giải, LH Tịnh Huệ, 2001
8. Kinh Pháp Bảo Đàn, HT. T.Thanh Từ,1998
9. Human Behavior, James V. McConnell,1983
10. Mật Giáo Thậm Thâm Nội Nghĩa, Nguyễn Pram,1993
11. Personality, William Samuel, 1991
12. Phủ Định Thức và Biện Chứng Pháp Trung Quán, B.K Martial, Thượng Tọa T. Viên Lý dịch, 2000
13. Tạng Thư Sống Chết, Sogyal Rinpoche, Trí Hải dịch, 1996
14. Tạng Thư Tây Tạng, Padma Sambhava, Xuân Thu, 1997
15. Tạp Chí Triết 1 (1995), Triết 2 (1996):
-Điểm Sách (Tài Liệu): LS Nguyễn Hữu Liêm, TS Luật;
-Tàng Thức, Như Hạnh, TS Triết và Tôn Giáo;
-Tân Tiến và Hậu Tiến, Nguyên Đạt Phạm trọng Luật, GS;
-Viên Trắc và Bát Nhã Tâm Kinh, Như Hạnh
16.Trancework, Michael D.Yapko, Ph.D 1990
17.Thiền Tông Việt Nam, TS T. Thanh Từ,1998
18.Tu Niệm Phật Tam Muội, Đường Đại Viên, T. Ấn Nghiêm dịch
19.Tự Gia Bảo, TS T. Thanh Từ, 1995
20.Vấn Đề Thực Tại, Phổ Nguyệt tham khảo sách Triết học.

LỜI TỰA

 Nỗ lực đi tìm chân lý nhứt là những tri thức dẫn đến sự giải thoát khỏi thân phận làm người đầy mọi ràng buộc khổ đau để tìm lại chính mình tự do tự tại, tất cần một ít trí tuệtích cực, đối với những ai có khát vọng hướng đến hay đạt đến vương quốc của Thượng Đế hay Thiên Đàng, Tây Phương Cực Lạc hay Niết Bàn. Phổ Nguyệt trình bày trong tập sách nầy những tri kiến thiết thực cho nhận thức, từ đó phát triển khả năng tư duy và tự vượt khỏi mọi ràng buộc với hai mục đích sau đây:

Phần Một: Điểm sách, ghi lại những tư tưởng về thực tại--của các triết gia, bậc trí giả, nhà đạo học, các tôn giáo và những nhận định của các dịch giả--cốt để tự học hỏi, nghiên cứu, mở rộng kiến thứcgiới thiệu đến những ai khao khát những tri thức dẫn đến chân phúc;

Phần hai: Giải thoát tri kiến tức là lột xác những tri kiến giả lập nầy để khôi phục chân tính của chúng, khai mở chúng để thấy được, giáp mặt và thâm nhập, trên tiến trình thể hiện và nắm bắt cứu cánh. Có như vậy thì cuốn sách nầy mới có nhiều lợi ích dẫn đến Chí Đạo.

Phần hai cuốn sách là phần trình bày lý giải và phương pháp của Phổ Nguyệt về "Tánh Giác" nói chung và "Bát Nhã Tâm Kinh Qua Lăng Kính Thời Không" nói riêng. Trí Bát Nhã Cứu Cánhcon đường đi đến chân nguyên một cách nhanh nhứt, con đường trực chỉ nhân tâm, một pháp môn đốn ngộ. Với ý chỉ và phương pháp của Trí Bát Nhã Cứu Cánh, tất nhiên sự giải lý và thực hiện phải trực tiếp thấy được, hiểu được ngay và hành được ngay; đó mới là chủ yếu. Kinh qua tư duythực hiện, thấy phương pháp của Bát Nhã Tâm Kinh thâm sâu và tối ưu, Phổ Nguyệt xin chia sẻ những gì đã trực ngộ tới những ai có lòng khao khát chân lý.

Cái tri kiến được nhận định về thực tại theo thế tục, ngay cả tri kiến dẫn đến thực tại theo tư duy của các tôn giáo, của các trí giả chú giải phê phán đều là những nhận định chủ quan mà thôi. Như tinh yếu của "Bát Nhã Tâm Kinh" là thể tài thâm sâu, mà biết bao nhiêu nhà đạo học, trí giả đã từng nghiên cứu và chú giảng; càng có nhiều tư tưởng diễn giảng thì càng có thêm nhiều ý kiến mới lạ dễ thấy nhiều đường suy nghiệm, rất gía trị cho tư duy. Tri kiến của các tôn giáo, chẳng hạn, "Trí Bát Nhã Cứu Cánh" tự nó có thể biện minh cứu cánh vì chính những tri kiến ấy đã mang chứa sẵn đầy đủ tự tính mọi sự vật. Những ai tri nhận thâm sâu thực tại mới có cái nhìn chính xác hơn.

Quan trọng ở phần hai cuốn sách là phần khai sáng giải lý cơ cấu tri kiếnphương tiện đạt cứu cánh chỉ là một phần chủ yếu trong cả quá trình tu học phức tạp và đầy đủ của các tôn giáo. Do đó, vấn đề giới luật, tín điều, giáo điều của các tôn giáo, hay nội qui của các pháp môn là sự quan thiết khác, không nằm trong nhận định lý giải phương pháp cứu cánh nầy.

Hình thức có nhiều sơ sót, như trình bày, chánh tả, đánh máy v.v... Riêng nội dung phần hai, ở mục phân giải "Tánh Giác" và "Trí Bát Nhã Cứu Cánh" là chủ kiến của tác giả; do vậy Phổ Nguyệt cần sự chỉ điểm thêm của các bậc đạo học, trí giả. Mong rằng quyển sách nầy sẽ đem lại lợi ích không nhỏ trong đạo sống hàng ngày cho quý độc giả.

Mùa Thu 2001
PHỔ NGUYỆT

 Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7355)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4521)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4574)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7341)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2965)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12220)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3996)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3807)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4225)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3686)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5064)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6691)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4011)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4126)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5341)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3789)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4535)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3552)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3934)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4392)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5396)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3844)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3941)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3877)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4828)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4527)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4261)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3833)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4640)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4211)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6116)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4611)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4952)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4195)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4826)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5671)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3653)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4042)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4591)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5288)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3149)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4766)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4559)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4300)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4743)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4495)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4607)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7220)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5214)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5010)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4599)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5618)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5273)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4164)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6022)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4722)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4882)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5485)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5622)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5824)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant