Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thực tại và chí đạo

02 Tháng Chín 201100:00(Xem: 19418)
Thực tại và chí đạo

THỰC TẠI VÀ CHÍ ĐẠO
Phổ Nguyệt, Ph.D.

MỤC LỤC

PHẦN MỘT
Tri Kiến

CHƯƠNG MỘT: Về Thực Tại

A. Thực Tại Tuyệt Đố 
-Hegel- Schopenhauer - Kierkegard - Heidegger - Cơ Cấu Thuyết -
-Các Nền Triết Học Đông Phương.
B. Thực Tại Tương Đối
Danh và Thể
CHƯƠNG HAI: Tri Kiến Thiên Chúa Giáo

 -Jesus- Phato- Augustine. 
CHƯƠNG BA: Tri Kiến Phật Gíao 

 A.. Tổng Quát. 
 B. Tánh Không Duyên Khởi
 C. Chơn Không Diệu Hữu
 D. Tàng Thức (A laị da Thức)
1. Phân tích Tàng Thức
1.1. Sự phát triển
1.2. Cơ cấu
1.3. Sự chuyển hướng
1.4. Asanga và sự phối hợp Tàng Thức vào thế giới quan Duy Thức
1.5. Ý nghĩa và tác năng của Tàng Thức trong hệ thống Duy Thứ của Asanga
2. Từ Thực Tại Luận đến Giải Thoát luận
2.1. Tàng Thức như là nền tảng của tạp nhiễm lẫn tịnh hóa
2.2. Tự tính tùy thuộcchuyển y
2.3. Tàng ThứcPháp Thân trong chuyển y theo Asanga
3. Kết Luận
Câu Chuyện Nàng Bhadda

CHƯƠNG BỐN: Cơ Cấu của Lý Thuyết về Tri Kiến

 I. Theo Kant
1. Tính lưỡng phân
2. Cảm quan, không, thời
3. Suy tưởng
4. Từ Phán định đến Phạm trù
5. Hai phân nhánh
6. Ý thức chứ không phải là sự hữu là khởi điểm
 II. Theo Phật Giáo
Cấu trúc Tâm Kinh theo Viên Trắc
Bát Nhã Tâm Kinh qua cái nhìn của Duy Thức, HT. Thích Thắng Hoan
Tâm Phật theo kinh Hoa Nghiêm
Đại Thừa Tuyệt Đối Luận của Nguyệt Khuê Thiền Sư
Tâm và Tự Tính của Tâm theo Tạng Thư Sống Chết
CHƯƠNG NĂM: Kinh Nghiệm Giòng Sống Chết

 I. Tử Thư Tây Tạng (Padma Sambhava).
1. Lời Tựa
2. Lời Giới Thiệu
Những kinh nghiêm về cái Chết trong các truyền thống huyền môn.
II. Tạng Thư Sống Chết: Chết và Tái Sanh.(Sogyal Rinpoche). 
1. Nền Tảng
2. Nền tảng của Tâm phàm tình
3. Mẹ con gặp gở
4. Thời gian và Ánh Sáng căn bản
5. Cái chết của một bậc thầy
PHẦN HAI

Giải Thoát Tri Kiến

CHƯƠNG MỘT: Cái Nhìn Bát Nhã Tâm Kinh Qua Lăng kính Thời Không

 I. Mục Đích- Khái Niệm về Tư Duy Thời Không
1. Chủ Đích
2. Nhận Định về Thời Không
3. Thời Không và triết lý Duy Thức
 II. Cơ Cấu Cái Trí theo Thời Không
A.-Phân Tích Ngủ Uản
B.-Các Loại Trí
 III.-Phân Tích Bát Nhã Tâm Kinh
A. Trí quan sát (chủ thể quan sát): Năng Tri
B. Đối Tượng quan sát: Ngũ uẩnTánh Không: Sở Tri
C. Đặc Tính Các Pháp:
a) . Tự tính tuyệt đối
b) . Tự tính tùy thuộc
c) . Tự tính giả lập
d) . Tính vô ngả
e) , Không gian tính : Nhân duyên quả
f) . Thời gian tính
g) . Giải kiến Tánh Không của Tứ Diệu Đế
h) . Giải kiến Tánh Không của Trí và Đắc
D. Quả Đạt Được
1). Quả
a). Thoát khỏi khổ ách
b). Giác ngộ Niết Bàn
c). Chứng minh
2). Tán tụng
E. Kết Luận
 CHƯƠNG HAI: Thắp Sáng Hiện Hữu

 1). Minh Sát Tuệ
2).Quán Tứ Niệm Xứ
3). Quán Âm Thanh và Ánh Sáng
4). Niệm Phật
5). Niệm Thần Chú
6). Khán Thoại Đầu hay Công Án
7). Tĩnh Tâm hay Im Lặng Thánh

 CHƯƠNG BA: Chí Đạo
 I.- Thiệt Tánh Giác.
1).-Không Gian
2.-Thời Gian
 II.- Vài Thí Dụ về Sự Giải Thích Thiệt Tánh Giác

 1). Văn Thù Sư Lợi thăm bịnh Duy Ma Cật (kinh Duy Ma Cật)
2). Trực Tâm (phẩm Phật Quốc, kinh Duy Ma Cật)
3). Truyện Nàng Bhađda

 III.-Phương Tiện Biện Minh Cứu Cánh
 A.-Pháp Phương Tiện
B.- Chí Đạo: Pháp Bổn Như Vô Pháp

 1). Bình Thường Tâm là Đạo
2). Thiền Dzogchen

IV.- Cái Chết Của Sự Sống Tự Tại.

 1). Hành Trì Cho Người Sắp Chết
2). Tự Tại Khi Chết

 KẾT LUẬN
PHỤ TRANG: SÁCH THAM KHẢO

1. Ba Trụ Thiền, Philip Kapleau, Đỗ đình Hồng dịch. 1954
2. Bát Nhã Tâm Kinh Qua Cái Nhìn Của Duy Thức, HT.T.Thắng Hoan, 1996
3. Chuyện Cổ Phật Giáo, tập chép tay do Đ.H Nguyễn Phước Lộc Vũng Tàu
4. Đại Thừa Tuyệt Đối Luận,Nguyệt Khuê Thiền Sư, T.Duy Lực dịch
5. Kim Cang Tam Muội, Thuần Tâm
6. Kinh Duy Ma Cật, dịch giả T. Huệ Hưng,1970
7. Kinh Hoa Nghiêm Luận Giải, LH Tịnh Huệ, 2001
8. Kinh Pháp Bảo Đàn, HT. T.Thanh Từ,1998
9. Human Behavior, James V. McConnell,1983
10. Mật Giáo Thậm Thâm Nội Nghĩa, Nguyễn Pram,1993
11. Personality, William Samuel, 1991
12. Phủ Định Thức và Biện Chứng Pháp Trung Quán, B.K Martial, Thượng Tọa T. Viên Lý dịch, 2000
13. Tạng Thư Sống Chết, Sogyal Rinpoche, Trí Hải dịch, 1996
14. Tạng Thư Tây Tạng, Padma Sambhava, Xuân Thu, 1997
15. Tạp Chí Triết 1 (1995), Triết 2 (1996):
-Điểm Sách (Tài Liệu): LS Nguyễn Hữu Liêm, TS Luật;
-Tàng Thức, Như Hạnh, TS Triết và Tôn Giáo;
-Tân Tiến và Hậu Tiến, Nguyên Đạt Phạm trọng Luật, GS;
-Viên Trắc và Bát Nhã Tâm Kinh, Như Hạnh
16.Trancework, Michael D.Yapko, Ph.D 1990
17.Thiền Tông Việt Nam, TS T. Thanh Từ,1998
18.Tu Niệm Phật Tam Muội, Đường Đại Viên, T. Ấn Nghiêm dịch
19.Tự Gia Bảo, TS T. Thanh Từ, 1995
20.Vấn Đề Thực Tại, Phổ Nguyệt tham khảo sách Triết học.

LỜI TỰA

 Nỗ lực đi tìm chân lý nhứt là những tri thức dẫn đến sự giải thoát khỏi thân phận làm người đầy mọi ràng buộc khổ đau để tìm lại chính mình tự do tự tại, tất cần một ít trí tuệtích cực, đối với những ai có khát vọng hướng đến hay đạt đến vương quốc của Thượng Đế hay Thiên Đàng, Tây Phương Cực Lạc hay Niết Bàn. Phổ Nguyệt trình bày trong tập sách nầy những tri kiến thiết thực cho nhận thức, từ đó phát triển khả năng tư duy và tự vượt khỏi mọi ràng buộc với hai mục đích sau đây:

Phần Một: Điểm sách, ghi lại những tư tưởng về thực tại--của các triết gia, bậc trí giả, nhà đạo học, các tôn giáo và những nhận định của các dịch giả--cốt để tự học hỏi, nghiên cứu, mở rộng kiến thứcgiới thiệu đến những ai khao khát những tri thức dẫn đến chân phúc;

Phần hai: Giải thoát tri kiến tức là lột xác những tri kiến giả lập nầy để khôi phục chân tính của chúng, khai mở chúng để thấy được, giáp mặt và thâm nhập, trên tiến trình thể hiện và nắm bắt cứu cánh. Có như vậy thì cuốn sách nầy mới có nhiều lợi ích dẫn đến Chí Đạo.

Phần hai cuốn sách là phần trình bày lý giải và phương pháp của Phổ Nguyệt về "Tánh Giác" nói chung và "Bát Nhã Tâm Kinh Qua Lăng Kính Thời Không" nói riêng. Trí Bát Nhã Cứu Cánhcon đường đi đến chân nguyên một cách nhanh nhứt, con đường trực chỉ nhân tâm, một pháp môn đốn ngộ. Với ý chỉ và phương pháp của Trí Bát Nhã Cứu Cánh, tất nhiên sự giải lý và thực hiện phải trực tiếp thấy được, hiểu được ngay và hành được ngay; đó mới là chủ yếu. Kinh qua tư duythực hiện, thấy phương pháp của Bát Nhã Tâm Kinh thâm sâu và tối ưu, Phổ Nguyệt xin chia sẻ những gì đã trực ngộ tới những ai có lòng khao khát chân lý.

Cái tri kiến được nhận định về thực tại theo thế tục, ngay cả tri kiến dẫn đến thực tại theo tư duy của các tôn giáo, của các trí giả chú giải phê phán đều là những nhận định chủ quan mà thôi. Như tinh yếu của "Bát Nhã Tâm Kinh" là thể tài thâm sâu, mà biết bao nhiêu nhà đạo học, trí giả đã từng nghiên cứu và chú giảng; càng có nhiều tư tưởng diễn giảng thì càng có thêm nhiều ý kiến mới lạ dễ thấy nhiều đường suy nghiệm, rất gía trị cho tư duy. Tri kiến của các tôn giáo, chẳng hạn, "Trí Bát Nhã Cứu Cánh" tự nó có thể biện minh cứu cánh vì chính những tri kiến ấy đã mang chứa sẵn đầy đủ tự tính mọi sự vật. Những ai tri nhận thâm sâu thực tại mới có cái nhìn chính xác hơn.

Quan trọng ở phần hai cuốn sách là phần khai sáng giải lý cơ cấu tri kiếnphương tiện đạt cứu cánh chỉ là một phần chủ yếu trong cả quá trình tu học phức tạp và đầy đủ của các tôn giáo. Do đó, vấn đề giới luật, tín điều, giáo điều của các tôn giáo, hay nội qui của các pháp môn là sự quan thiết khác, không nằm trong nhận định lý giải phương pháp cứu cánh nầy.

Hình thức có nhiều sơ sót, như trình bày, chánh tả, đánh máy v.v... Riêng nội dung phần hai, ở mục phân giải "Tánh Giác" và "Trí Bát Nhã Cứu Cánh" là chủ kiến của tác giả; do vậy Phổ Nguyệt cần sự chỉ điểm thêm của các bậc đạo học, trí giả. Mong rằng quyển sách nầy sẽ đem lại lợi ích không nhỏ trong đạo sống hàng ngày cho quý độc giả.

Mùa Thu 2001
PHỔ NGUYỆT

 Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5202)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2671)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6149)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3063)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3112)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3315)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3247)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3307)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4565)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2737)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5225)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3881)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3850)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3212)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4149)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5055)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3520)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6752)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3971)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3226)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3106)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2972)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5873)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4641)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3506)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2905)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3317)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4436)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5733)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6646)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3732)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4542)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4619)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3979)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3412)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4639)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6064)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5850)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3644)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4694)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4465)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4542)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4273)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4601)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8227)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3929)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5729)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5217)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6860)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6186)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 6001)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5815)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6307)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6797)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4979)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5577)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6400)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3794)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5427)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10477)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant