Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương hai: Tri Kiến Thiên Chúa Giáo

02 Tháng Chín 201100:00(Xem: 9377)
Chương hai: Tri Kiến Thiên Chúa Giáo

THỰC TẠI VÀ CHÍ ĐẠO
Phổ Nguyệt, Ph.D.

PHẦN MỘT
TRI KIẾN

CHƯƠNG HAI
TRI KIẾN THIÊN CHÚA GIÁO

 
Phần Tri Kiến Thiên Chúa Giáo được trình bày vài nhân vật tiêu biểu trích trong Tạp chí Triết 1 & 2, mục điểm sách Karl Jaspers do LS Nguễn hữu Liêm soạn dịch.

 JESUS

Jesus đi vào con đường tư tưởng và hành động bằng một tiền đề chắc nịch và quyết định: Thế giới nầy đã đến ngày cùng tận. Một mối họa hãi hùng sẽ đến và đến rất gần trong cuộc đời của ông. Jesus nằm trong bối cảnh thần luận của Do Thái với tất cả những kháì niệm về ngày tận thế. Nhưng thông điệp của ông thì khẩn thiết hơn: "Này ta nói cho các ngươi nghe, rằng thế hệ nầy sẽ không qua khỏi. Thế hệ của thời Jesus sẽ chứng cảnh mặt trời sẽ tối đi, mặt trăng sẽ không có ánh sáng và sao trên trời sẽ rơi xuống". Một số ít người sẽ được cứu rỗi và sẽ thấy" “Con của Cha trên trời”. Tận thế sẽ là mốc điểm tối hậu cho mọi mục đíchlý tưởng hiện hữu. Và tận thế không có nghĩa là hết tất cả, là hư vô -mà là lúc khởi sinh của một hiện hữu vĩnh cửu huy hoàng hơn: Thiên Đường. Cái chung cuộc không những chỉ là một lời đe dọa mà là sự hứa hẹn lớn: Vương quốc của Thượng Đế (nước Chúa). Jaspers nhận xét, "Cảm giác là sự lẫn lộn của sợ hãi và hồ hởi". Con người tiếp nhận thông điệp nầy của Jesus đối diện với một khả thể chắc chắn: lịch sửthế gian nầy sẽ không còn nữa. Và hành trang dự bị chỉ có thể là niềm tin.

Nhưng gốc rễ vương quốc nầy đã nằm ngay nơi thế giannhân loại nầy, "vương quốc của Thượng Đế là ở trong chính ngươi". Có nghĩa rằng những dấu hiệu của vương quốc, Jesus, con người của ông, hành vi, thông điệp, là ở giữa thế gian. Tất cả là dấu hiệu của sự sắp xẩy ra. Khi ngày ấy đến thì kẻ mù sẽ sáng, kẻ què sẽ bước đi, người cùi sẽ hết hủi, kẻ điếc nghe, kẻ chết đội mồ sống dậy". Thông điệp của Jesus là cho người nghèo, kẻ khó, kẻ tật nguyền, kẻ yếu đuối tinh thần

"Những hành động của Jesus, như là của một người làm được nhiều phép lạ, hành vi của ông đối với kẻ có tội, kẻ ngoại đồ, kẻ đĩ điếm, ngôn từ của ông khuấy động tâm hồn cho kẻ lắng nghe: Tất cả đều là của những báo hiệu và những thí dụ. Chủ đích của ông không là để phát huy thế giới nầy, không để cải cách con người và cơ chế của họ, nhưng mà để cho những ai lắng tai nghe ông nhận ra rằng vương quốc của Thượng Đế là trong tầm tay". Jaspers viết. Đối với Jesus thì cái gì ở thế gian nầy đều chỉ là tạm bợ. Một nội dung thông điệp cùng ý nghĩa với của Buđdha (Đức Phật Thích Ca). Jesus nói: "Thế gian nầy chỉ là một chiếc cầu; bước qua nó, nhưng đừng xây nhà của ngươi trên nó". Nhưng không vì thế mà thế gian không có một giá trị cho chính nó: gia đình, thiên nhiêntác phẩm của Thượng Đế, chúng ta tôn trọng chúng vì chúng ta tôn thờ Thượng Đế. Thượng Đếbiện minh tối hậu, thiết yếu và duy nhất cho mọi giá trị. "Hãy đừng nghĩ ngày mai : vì ngày mai sẽ chính tự nó lo cho nó". Chỉ có một nỗi lo sợ duy nhất : được vào nước Chúa hay là không. Không có lập trường trung hòa. Hoặc là địa ngục hay là thiên đàng. Và sự thể chọn lựa là mệnh lệnh đạo đức tối cao.

Jaspers viết: "Tin phục Thượng Đếtín điều của Jesus, một người dân Do Thái, như đã là tín lý của dân tộc nầy xưa nay. Nhưng sự tuân phục ngoại tại, chấp hành theo phép tắc quy định là chưa đủ. Cái chính yếu là sự tòng phục bằng tất cả trái tim và hiện thân của con người. Jêremiah đã nói, Thượng Đế đã viết nên luật của Ngài trong trái tim con người". Nhưng ý muốn của Thượng Đế là gì? .... Khi chúng ta những mệnh lệnh từ Jesus nói lên ý muốn của Thượng Đế, chúng ta kinh ngạc với tính cực đoan của chúng: những đòi hỏi không thể được trong trần gian nầy, "Jesus đòi hỏi" một cách thể hiện hữu, không chỉ là hành vi ngoặc thể ..những gì không thể chú ý mà là nguồn gốc của tất cả ý lực. "Những mệnh lệnh sinh hiện mà Jesus rao giảng đều là của truyền thống kinh điển Do Thái Giáo, mà theo Jaspers thì" Jesus không đem ra cái gì mới cả". Jesus không đặt để một hệ thống đạo đức mới mà chỉ thanh lọc tín điều Thánh kinh và nắm lấy nó một cách nghiêm trọng như là nó được thỏa mãn trong vương quốc của Thượng Đế. Jaspers nhận xét, những gì mà Jesus thuyết giảng đều không theo quy pháp của luận lý, mà chỉ là dấu hiệu hơn là một hệ thống tư tưởng-và khi mà mọi thứ chỉ là một sự báo hiệu thì không có sự mâu thuẫn trong đó. 

Jesus là một nhân thể tạo nên sử tính cho nhân loại vì thế là một con người ngoại hạng do đó ngoại lệ. Không có ai ảnh hưởng nhiều đến lịch sử Tây phương và cả thế giới như Jesus. Ông là hiện thân trong truyền thống niềm tin về tiên tri vốn đã nuôi sống ông cũng như là cho cả nhân loại cả hàng thế kỷ. Với niềm tin, trong truyền thống nầy, nhân loại được tự do. Tự do đồng nghĩa với một trái tim thuần khiết trong niềm tin và thuần phục đến khái niệm Thượng Đế. Dù Jesus đứng bên lề cuộc đời nhưng chính ông đã đem niềm tinhy vọng đến cho những kẻ bị xã hội khinh mạt và xô đuổi. Ông đem sự sống tinh thần cho kẻ yếu, kẻ đau, kẻ khó, kẻ tật nguyền. Jesus là một người đánh thức nhân loại; những gì ông kêu gào phải có tác dụng phản tĩnh; ông chỉ con đường sống trong khả tính cao đẹp cho con ngườithực tế có thất bại và đau thương như thế nào. Và tất cả niềm tinhy vọng nầy đều nhằm vào một cõi khác, ngoài thế gian nầy. Đó là cái tuyệt đối trong tín điều về một chủ thể toàn năng, toàn thiệnđời đời : Thượng Đế.

Sau khi Jesus qua đời thì ông đã trở nên một biểu tượng thực tại cho khái niệm về tuyệt đối thể Thượng Đế. Ông trở thành Chúa (Christ)--" một tác phẩm dựng nên bởi giáo hội và St Paul." Từ đó lịch sử Tây phương chuyển động theo mô thức và biểu tượng nầy.

ảnh hưởng của Jesus thì "vô hạn". Từ St Paul mà Jesus trở nên con người của lịch sử. Cuộc đời của Jesus là năng động chính yếu cho sự trưởng thành và phát triển của nó: (1) sự chuyển hóa từ con người Jesus thành biểu tượng Chúa, con của Thượng Đế, và (2) con người Jesus được đưa lên là một mô hình cho tôn giáo nầy. Từ sự chuyển hóasáng tạo nầy, một hệ thống tín ngưỡng với đây huyền thoại và cơ chế, phép tắc, nghi thứcluận thuyết khởi sinh (phục sinh, giáo hội La Mã, đức mẹ Maria, các thánh đồ, thánh giá...). Gần như là lịch sử Tây phương từ Jesus bị đóng khung bởi một niềm tin. Thượng Đế như là một phạm trù siêu nghiệm đã được chân thật hóa vào thế gian--và con người Tây Âu trở nên con chiên vào khái niệm nầy qua một tác phẩm tôn giáo to lớn, bao trùm.

CHUYỆN NGƯỜI ĐÀN BÀ BỊ NÉM ĐÁ

một lần Chúa Jesus đang giảng kinh ở một nơi công cộng, đột nhiên có nhiều người có địa vị trong xã hội, trí thứctu sĩ chạy đến. Họ kéo theo đàng sau một phụ nữ mang tội tà dâm. Trong thời kỳ đó, nếu phụ nữ bị bắt về tội tà dâm, thì nhất định sẽ bị người ta ném đá cho đến chết. Thời đó họ có ba cách để xử tội, một là ném đá, hai là bỏ vào chuồng sư tử, ba là bị đóng đinh chết. Chúa Jesus bị đóng đinh, còn người đàn nầy sẽ bị ném đá.

Số người nầy muốn thử thách với Chúa Jesus nên hỏi Ngài : "Theo luật của Moses thì người phụ nữ nầy bị ném đá chết, Ngài phải xử ra sao?" Chúa Jesus không nói gì, Ngài dùng tay viết trên mặt cát: "Một đoàn người nói dối!" Số người đó cứ gạn hỏi Ngài; Chúa Jesus không thể không trả lời, nên Ngài nói: "Trong số các người đây, có người nào từ trước tới giờ không phạm tội, và cảm thấy bản thân mình thánh thiện nhất, trong sạch nhất, thì có thể ném một viên đá đầu tiên." Khi Ngài nói xong thì mọi người đều im lặng, và từ từ bỏ đi hết. Cuối cùng chỉ còn lại Chúa Jesus và người đàn bà phạm tội. Lúc đó Chúa Jesus mới hỏi người đà bà đó: "Những người tố cáo đã bỏ đi hết rồi, không có ai xử cô sao? "Người đó mới đáp: "Không có ai tố cáo tôi sao Ngài không tố cáo tôi?" Chúa Jesus đáp: "Tôi cũng không cáo buộc cô, tôi đến đây để cho cô một cơ hội, hãy đi về! (Chuyện Thánh kinh, BT 88 SM.C.H)

Theo Phổ Nguyệt, cơ hội mà Chúa Jesus đưa ra cho người đàn bà tội lỗi nầy, nói lên mốc điểm giữa chấm dứt tội lỗi và bắt đầu một cuộc đời mới. Ngay nơi chấm dứt là sự bắt đầu. Chấm dứt tội lỗi (quá khứ) là mốc điểm (hiện hữu) của khởi sinh (tương lai) một chuyển thế mới. Mốc điểm là cơ hội. Cơ hội có hai đường, một là đi đến vương quốc của Thượng Đế, hai là đi đến địa ngục. Mốc điểm càng kéo dài thì hạnh phúc càng lâu, vì ở mốc điểm là điểm không có quá khứ (không có tội lỗi), và không có tương lai (chưa gây tội lỗi).

Tâm hồn trong sángcon đường hứa hẹn đi đến nước Chúa. Do đó hiện hữuthế gian nầy là tuân phục, niềm tin nơi Chúa, với một ý lực, với đạo đức trong sáng trọn vẹn thì khi tận thế (hết đời mình ở thế gian ) thì chuyển thế (cuộc đời sau) há không phải thiên đường ư! Nếu hôm nay ta không lo (sống) có đạo đức thì mai saucon đường đi đến địa ngục. Sự cứu rỗi được thể hiện trong cuộc đời nầy là niềm tin nơi Thiên Chúa, nơi ý lực hiến dâng và tuân thủ mọi nguyên tắc tín điều của thánh kinh, trong đó đạo đức đối với gia đình, hôn nhân, xã hộigiáo hội được hoàn thiện. Một khi tội lỗi (quá khứ) được xưng ra trước đại diện Chúa là mốc điểm khởi sinh một chuyển thế mới đầy hứa hẹn.

PLATO

Toàn bộ triết học Plato được Jaspers phân thành những thể loại chủ thuyết: về Ý niệm, Khái niệm về Thượng Đếlinh hồn, về dự án chánh trị, về vũ trụ. Phạm vi bài nầy chỉ bàn đến ý niệm và khái niệm về Thượng Đế mà thôi.

Triết luận Plato được coi như là một tiến trình đi tìm cái lẽ của hiện hữu bằng sự xây đắp sự thật bằng đối thoại, trao đổi lý luận. Chân lý là sự hiện thân từ một quá trình chứ không phải là sự thể khách quan có thể tìm ra.

 Plato muốn hướng đến cái gì? Đó là cái Một--cái toàn thể, cái gốc cho tất cả và là nơi để tất cả trở về. Từ đó điểm phát xuất và chủ đích của Plato có một cái Một bao trùm kêu gọi chúng ta. Chân lý là "sự trở về" đến căn nhà của cái Một tối hậu. Tất cả đối luận chỉ là nỗ lực để khai phá một lối về đến cái Một vĩnh cửu nầy.

Đầu mối cho mọi suy thức Plato là câu hỏi về arete--là đức, là hảo. Arete mang ý nghĩa chữ Đạo của Á Đông. Đạo là cái lý bao trùm tất cả, từ vũ trụ đến con người--và cái Đạo chỉ được hoàn tất trong hành động của cá nhân đối với cuộc đời. Mỗi khuôn mặt của cuộc sống từ chánh trị, giáo dục, văn chương, lao động đều có cái arete của nó. Arete là tinh hoa tiềm ẩn chờ con người khai phá ra để hoàn tất nhân cách. Arete không thể truyền dạy ngoại trừ chỉ có thể hướng dẫn qua thể dạng kiến thức hay kỹ thuật. Nhưng khi arete trở nên tri kiến thì tự nó là cứu cánh cho năng động sinh hiện: đó là đạt đến trí tuệ. Con người từ đó được đánh giá bằng trình độ trí tuệ--mà những con người trí tuệ là nhưng nhân thể nhận chân và hiện thực được nội chất hiền minh của sự sống. Tuy nhiên Plato tiếp tục nêu lên những tiền đề cho vấn nạn trí thức: cái đẹp, cái chân, cái trí, cái thiện cho mục đích nào và trên căn bản nào? Cái thiện đặc thù cho một nhu cầu nhân thế thực tại? Cái chân tuyệt đối trong bản thể luận? Cái trí tột cùng của một thánh nhân với "tuệ nhãn"? Đối với Plato thì cái thiện cái đẹp nằm trong trí tuệ, có khả năng nhận thức ra tinh hoa arete trong từng bước chân sinh hiện. Hạnh phúc trần gian là biết cái chân, cái mỹ và cái thiện. Và tri kiến của Plato cũng phải phân biệt với kiến thức kỹ thuật. Cái khả năng biết đến để phân biệt được cái tốt cái xấu chính là nền tảng của trí tuệ. Từ đó, triết luận Plato mang nội dung mệnh lệnh đạo đức. Con người bận tâm đến cái tốt, xấu vì muốn thỏa mãn đến một thần đế vô hình nào đó. Và động cơ triết học phát xuất từ một mối sợ hãi mơ hồ và siêu hình.

Tuy nhiên, mối sợ hãi nầy chính là động cơ vượt thoát hiện tại bằng cách đi tìm ra cái lẽ chân hữu trong cuộc sống qua sức mạnh của tri kiến. Cái biết đầu tiên là biết rằng mình không biết--đó chính là biết vậy. Những tư tưởng nầy mang âm điệu của người Trung Hoa. Bước kế tiếp là biết về thế gianvũ trụ. Sau đó là biến đến cái Tâm trong năng thức hướng về cái Một. Khi đạt đến giai đoạn nầy thì con người bắt đầu bứớc vào lãnh vực kiến thức khoa học, kỹ thuật và tri thức học. Chân lý là sự vượt qua chính giới hạn tri kiến đang là để nhận ra một biên độ mới trong nhận thức đến sự hữu hạn của con người trước tất cả. Như vậy thì giá trị "cá nhân là cái Tâm hướng đến--năng lực trở nên thường trực nhằm cải thiện và hoàn chỉnh chính mình. Mệnh lệnh cho sinh hiện là sống trong hiểu biết--vì tất cả những gì mà cá nhânthể đạt đến phải đặt nền tảng trên cái biết có thực chất

TƯ TƯỞNG PLATO, tất cả đều nhắm về cái Một. Và arete là cái Một, chứ không phải cái nhiều. Cái Một chỉ là cái căn tính để khai sáng tất cả những ý niệm, là nền tảng cho tất cả mọi cứu cánh của suy tưởng có thể dựa vào như là điểm tựa cuối cùng. Từ đó, cái Một là nguyên lý hướng đạo mà cá nhân suy thức đến, hắn sẽ tìm ra ý nghĩa chân thật cho sự sống. Chúng ta không thể hiểu thấu cái Một nầy vì nó chỉ là con đường đi tới.

Nguyên lý của cái Một đồng nhứt với mức độ tự ý thức. Trong năng động suy tưởng về sự suy tưởng chúng ta có được kiến thức về cái khác đồng lúc với ý thức tự nó. Do đó, cá nhân nào muốn có sự hòa thuận với kẻ khác trước hết phải hòa thuận với chính mình. Hãy coi chính mình như người bạn nhứt trí để có thể đón tiếp tha nhân như là bằng hữu. Con người có phẩm chất quan yếu nhất khi hắn chính là hắn trong sự nhất trí nầy. Nhưng sự nhất trí nầy phải được đặt nền tảng trên cái thiện. 

Cái quan trọng của suy tưởng không phải là sự thâu nhập kiến thức về cái khác--mà là năng động suy thức. Trong suy thức và phản tưởng, cá nhân được chuyển hóa. Mỗi chúng ta mang một sứ mạng: chuyển hóa để vượt qua chính mình Đang Là qua kiến thứchiểu biết về chính mình. Và đây là tiền đề triết học căn bản cho triết học Tây phương mà Plato khởi đầu và kéo dài cho đến Kant.

Đối với Plato thì có hai tiền đề triết học quan trọng về tri kiến :

Vô minhtội lỗi: "Nếu vô minh chỉ là chuyện đùa chơi, nó chỉ là sự yếu đuối và chỉ là tội nhỏ; nhưng khi vô minh đi kèm với sự giả dối nhân danh kiến thức cộng thêm với quyền lực để mà phát động nó thì vô minh nầy là tội ác-- Kiến thứctri kiến trong vô tri kiến với sự điều hướng của cái thiện. Kiến thức hữu hạn là phương tiện cần thiết để có thể tìm đến chân lý nhưng chúng phải được đặt trên nền tảng trí tuệ vững chắc".

Không ai có thể tự ý sai lầm: "Chúng ta cho rằng con người bị chủ động bởi tham, sân, giận, và rằng chúng ta làm một điều gì đó dù rằng chúng ta biết rằng điều đó có hại, hay là chúng ta muốn những gì thực ra chúng ta không muốn. Nhưng đối với Plato thì tất cả những điều đó là không thể được.

Theo Plato thì sự bất đồng giữa đau đớn và khoái lạc liên hệ đến sư phán đoán trên căn bản lý trí là cái vô minh tệ nhất; nhưng điều đó cũng là lớn lao hơn cả vì nó ảnh đến phần đông linh hồn nhân loại. Cho đến tác phẩm cuối cùng, Luật pháp, Plato cũng nhắc lại câu nói tự khởi đầu, "Không có ai có thể tự ý làm điều gì sai lầm."

Và đó là tiền đề triết học cho mối liên hệ giữa ý chíkiến thức. "Ý chí chân thậtý chí có hiểu biết". Tham dục khi trở thành động cơ tác hành, trở nên là năng lực vô minh chứ không phải là ý chí. Cá nhân có thể ý lực khi hắn tác hành cái tốt, cái thiện. Cái thiện và cái hiểu biết chính là một--và đó chính là nền tảng căn bản của ý lực chân chính. Bởi vậy, mà không có ai có thể tự ý làm điều gì sai lầm vì khi hắn làm như thế, ý chí của hắn bị đánh mất và bị kiểm soát của vô minhdục vọng.

Tuy nhiên, Plato chỉ nói đến sự hiểu biết trên căn bản trí tuệ. Còn tất cả những tri kiến giới hạn vẫn chỉ nằm trong vũng tối của vô minh.

LÝ THUYẾT VỀ Ý NIỆM.-Về cái Thiện: Khoa học cao nhất, theo Plato, là sự khai sáng về cái thiện. Cái thiện nằm trong ý thức cũng như là mặt trời soi sáng thế giới vật thể. Nó là nguồn cội của sự sáng cho tất cả. Chúng ta không thể thấy được mặt trời mà chỉ có thể thấy tất cả qua ánh sáng của nó. Plato, cũng như Buđha, cho rằng viễn kiến trong trí tuệ thì cũng như ánh sáng mặt trời chứ không phải là mặt trời. Chúng ta không thể nắm được cái thiện như là một cứu cánh chắc mãn mà có thể thực hiện được tinh hoa cái thiện trong trí tuệ.

Về hai thế giới Ý niệm: Cái cao nhất, cái tinh hoa, cái nguyên lý, dĩ nhiên không phải là cái thiện. Cái mà Plato nói đến là một cõi Chân Hữu, cái không biến đổi, cái vĩnh cửu, cái vô thủy vô chung--cái vượt qua tất cả nhưng nằm trong tất cả để cho tất cả những gì hữu hạn vô thường được chính là chúng và làm cho chúng có ý nghĩa. Cái nầy có thể tạm gọi là Ideas. Ideas nầy trở nên hai thế giới: thế giới của hữu thể va øthế giới của Trở nên. Nhưng có một cõi thứ ba: không gian. Không gian là như thế, không thể hủy tan, nhưng nó chứa đựng tất cả hữu thể--tự tính không gian là vô hữu, nhưng từ mở rộng của vô thể nầy mà không gian dung chứa cho những gì có thể trở nên sự hữu.

Cõi Ý niệm là cõi siêu việt, cõi của tột trí vốn có thể nhận thức được bằng tri kiến. Từ cõi đó mà tinh hoa của sinh hữu phát xuất và tồn tại. Plato diễn tả cõi Ý niệm
"Nơi tất cả--của vô sắc, vô thể, tinh tuý vô cùng, là tinh yếu của tri thức, là chính đạo của linh hồn. Đó là nguồn cội của công lý, của hài hòa, của trí tuệ hài hòa, của trí tuệ tuyệt vời, không ở trên phạm trù của liên hệ hay sinh tác của sinh hiện như những gì mà con người biết đến, mà là một thứ sinh hữu tuyệt đối".

TỶ DỤ VỀ HANG ĐÁ:

Có lẽ câu chuyện ẩn dụ về hang đá Plato là nổi tiếng nhất--được trình bày trong cuốn Nền Cộng Hòa. Đây là sự so sánh về trình độhoàn cảnh tri kiếntâm thức của con người đối với chân tính của sự Hữu. Nhân loại sinh hiện như là những cá thể bị xiềng xích trong một hang đá tối tăm. Chúng ta chỉ nhìn thấy một hướng trong ánh sáng mập mờ từ ngọn lửa thấp thoáng. Cái gì thấy được chỉ là những chiếc bóng đổ lên tường đá ẩn hiện--mà con người cứ cho rằng chính là chân lý. Khi được cởi bỏ xiềng xích, cá nhân đứng dậy, vươn vai, nhìn quanh, và kinh nghiệm đầu tiên là cổ bị đau vì lần đầu tiên hắn biết nhìn theo hướng khác. Hắn nhìn tới đốm lửa sáng nhưng mắt bị chói nhức--và hắn chỉ muốn nhìn theo thói quen và chỉ muốn cho rằng các chiếc bóng ẩn hiện trên tường là thật theo thói quen. Khi hắn bị kéo ra khỏi hang đá, đối diện với ánh sáng mặt trời lần đầu, hắn không nhận ra gì cả. Và hắn nhận ra sự vật một cách chậm rải. Cho đến khi hắn nhận ra thực chất của vấn đềhoàn cảnh của hắn và đám người còn ở trong bóng tối hang đá, hắn muốn trở lại hang để cứu họ. Nhưng đám người kia phản đối hắn và đe dọa hắn nếu hắn can thiệp vào "sự thật" được diễn đạt theo bóng đen trên bờ tường kia.

Đây có thể là một trong những tỷ dụ triết luận quen thuộc nhất--cũng như là những câu chuyện "những thằng mù sờ voi" của Buđha. Tỷ dụ hang đá nầy biểu trưng cho ba tiền đề triết học căn bản của Plato.: Sự ngoái nhìn hay chuyển hướng tư tưởng, giai trình của tri kiến, và sự chuyển hướng hai chiều của nhân loại. Cá nhân phải có quyết định chuyển hướng tri thức như lần đầu tiên được cởi trói phải nhìn lại đàng sau lưng mình để có thể thấy được đống lửa trong hang đá dù cho đầu cổ có bị đau, mắt có bị chói lòa. Khi đã có ý chí vượt thóat trên căn bản tri thức thì hắn sẽ phải đi qua từng giai trình tiến hóa cho trí tuệ, từ giác quan đến tư tưởng và sau đó là Ý niệm, như là từ kiến thức tóan học đến khoa học biện chứng, từ Ý niệm đến cõi siêu việt cao hơn. Hay nói một cách khác, từ dục thức đến chánh kiến. Những tiền đề căn bản nầy của Plato cũng tương tự như của Buđha : quy y tức là chuyển hướng tri thức, bát chánh đạo cũng như là giai trình tiến hóa trí tuệ. Khi cá nhân ra khỏi hang đá, nhận thức được vấn đề, hắn phải trở lại để giải thoát như là một mệnh lệnh đạo lýPhật giáo đại thừa cũng có đề cập đến qua khẩu hiệu "Tự giác giác tha" 

Tuy nhiên, triết học Plato nhấn mạnh đến tính quan yếu của sự chuyển hướng hai chiều cho sinh mệnh cuộc đời: sự vươn lên đến cõi Ý niệm để tìm đến Chân,Thiện, Mỹ để rồi trở lại với sự sống thường nghiệm nhằm cải hóa cuộc đời. Plato không chủ trương từ bỏ cuộc đời, không nhằm đến một sinh hiện cô độckhổ hạnh. Cuộc đời chính là cõi thực nhất cho cá nhân khi tất cả những tinh hoa của Ý niệm đã được nhận thức.

LÝ THUYẾT VỀ EROS (TÂM):

Theo Jaspers thì Plato khai mở ba phương diện tinh yếu của triết luận: a) Suy tưởng như là một con đường nghĩ đến cái không thể nghĩ bàn; b) khả thể truyền đạt chính là điều kiện cho chân lý; và; c) phép biện chứng trong tư tưởng nhằm kiến tạo và giải hóa khái niệm và định kiến hữu hạn. Tất cả đều nhắm về mục tiêu vĩnh cửu: cái Một.

Năng động và tiến trình chuyển hóa về cái Một là bản chất tự do--của chính ta và tha nhân. Đây là tự do được kiến thành bởi tình yêu. Kiến thức triết họckiến thức trong tình yêu. Triết học không phải là trí tuệ mà là tình yêu về trí tuệ--một sự chuyển động của tình yêu. Sở dĩ triết học khởi đi từ tình yêu, vì theo Jaspers, Plato làm triết bởi tình yêu của ông dành cho người thầy Socrates. Đó là một Eros chân hữu, lớn lao và thực tế. Tình yêu của Plato là một huyền thoại, một vực sâu thẳm, cái gì nâng con người về cái Một tuyệt đối.

Trong tình yêu, tính dục cũng là điểm khởi đi, vừa là biểu tượng vừa là kẻ thù. Cái đẹp vĩnh cửu trong tình yêu phát xuất từ ấn tượng giác thức. Nhưng khi tính dục trở nên tự mãn, không còn gì để hướng về thì tính dụctội lỗi, là nô lệ, là bóng tối. Không có giác quan thì tính dục không có khởi động và trí thức chỉ là trống rỗng. Triết học cũng là đồng tính với tính dục: cả hai phát xuất từ sự chuyển động của Eros--năng lực sáng tạochuyển hóa. Triết học nâng trí thức về với cái Một bằng ngọn lửa nhiệt tình--và ở trong đó, sinh nghiệm được kiến tạo--một cõi sống ở giữa của trở-nên trong cái Đang - Là hữu hạn. Chỉ có những Thần Đế (God) thì không có yêu, không triết luận-vì chúng hiểu biết. Plato sống một cuộc đời cho tình yêu triết học--tức là tình yêu dành cho Socrates. Socrates khởi đi và Socrates là chung điểm của Plato. Ông khai mở tiền đề, vấn nạn, phạm trù--những lãnh thổ suy tư cho truyền thống Hy Lạp và Tây Âu. Từ Plato là một trung điểm khởi đi mọi hướng. Không có triết học nào, phân nhánh tư tưởng nào mà Tây Phươngthế giới hiện đại không nhắm về Plato với những gì ông ta đã đề cập đến.

AUGUSTINE
Nền Tảng Và Hướng Đi Của Tư Tưởng Augustine:

1)- Sự Chuyển Hồi : Theo Jaspers thì nền tảng suy thức của Auggustine phát xuất từ sự cải đạo--hay là sự chuyển hồi--từ đời sống vật chất, thế tục về với niềm tin Thượng Đế trong hệ thống tín lý Thiên Chúa giáo. Ở tuổi 19, ông bắt đầu say mê triết học, một nỗ lực suy thức về một tri kiến để có thể đưa dẫn chính mình về bề mặt đến tinh hoa của sự vật. Từ triết luận của Plotinus, Augustine bắt đầu chuyển hướng quan trọng cho cả cuộc đời: hành trình khai sáng một thực tính tinh thần để cởi bỏ gánh nặng của đờI sống nhục thân. Qua những nhận thức khởi đi nầy, dù là quan trọng, Augustine vẫn không thỏa mãn với hiện sinh. Cho đến khi ông cải đạo chính thức trở nên một tín đồ Thiên Chúa giáo, thì lúc đó cuộc đờI ông mới bắt đầu một biến cố khai ngộ quyết định--khởi lên từ môt quá trình lâu dài và nhiều do dự với một căn cơ vốn đã được dọn sẵn từ lúc ấu thơ.

Sau khi chính thức là một tín đồ, Augustine về sống với bạn hữu để thảo luận học hỏi triết học cổ điển. Ông bắt đầu trước tác những tác phẩm chứa đựng nhiều tinh túy của triết học cổ đại trong năng lực tái sinh với một tài năng mới.

Đối với Augustine thì nguồn năng lực triết học mới phải phát xuất từ Thiên Chúa giáo--nhưng trên căn bản lý tính: niềm tin từ Thượng Đế. Nhưng sự chuyển hóa nầy là gì? Nó có phải là sự thức tĩnh về với triết học, như Augustine đã--qua Cicero và Plotinus? Thưa không. Sự chuyển hóa nầy là một chấn động và thay đổi toàn thể hiện hữu của cá nhân về trong chủ hướng Thượng Đế. Sự trao thân và thức mệnh tuyệt đốitối hậu cho niềm tin vào Thượng Đế, trong tín lý Thiên Chúa giáo, qua Thánh kinhGiáo hội, là giải pháp toàn diện--mà Augustine đã được cứu rỗi sau khi ông đã thất bại phương pháp tu khổ hạnh để diệt dục.

2)-Sự Chuyển Hóa: Đây là năng động triết học quan trọng của Augustine. KhởI đi từ những ý niệm triết học độc lập để trở thành những yếu tố tư duy trên căn bản đức tin vào tiết lậu, Jaspers phiên giải. Theo đó, ngọn lửa nhiệt thành của triết học trở thành nhiệt độ của niềm tin. Cả hai có vẻ như là một, nhưng chúng được phân biệt bởi một bước nhảy vọt: sự chuyển hồi. Tinh hoa của suy tưởng đã được đổi thay. Đức tin mới được ưu thắng bởi một tri kiến bất tận trên nền tảng niềm tin. Khái niệm Thượng Đế, Chúa, Văn kiện Thánh kinh, cơ đồ giáo hội v.v... chẳng qua là hiện thân của một tín điều về những tiền đề cho sự Hữu. Tiền đề triết học trở thành tín điều của Giáo hội.

Thượng Đế (God) là chủ đích, là trung tâm của tư tưởng Augustine. Nhưng triết học của ông muốn nói về một Thượng Đế mới. Vào thời điểm nầy, thần học bị ngự trị bởi những khái niệm về God và một anti-God trong một cơ cấu huyền thoại của truyền thống nhị nguyên luận của Manichaen (Ba Tư)--những thế kỷ đầu của Tây lịch. Cộng vào đó là truyền thống triết học Hậu-Plato vẫn còn nuôi dưỡng khái niệm của cái Một nhất nguyên. Cả hai tiền đề về Thượng đế nầy đều không thỏa mãn Augustine. Thượng Đế của Manichaen thì là của đối nghịch, chiến tranh, đầy huyền hoặc. Cái Một của Plato thì quá trừu tượng, viễn vông. Từ đó, Augustine đi tìm Thượng Đế trong Bible qua ngôn ngữ Thánh kinh, và hiện thực hóa qua cơ chế Giáo hội. Với một Thượng Đế mới, khái niệm về chủ thể tuyệt đối mơ hồ nầy đã trở nên hiện thực qua niềm tin. Tư duy vẫn là một con lộ đến Thượng Đế nhưng niềm tin đã đặt để nền móng vững chắc cho con lộ tri thức nầy. Triết học Augustine được dìu dắt bởi thẩm quyền từ Bible từ Giáo hội chứ không bằng nguyên tắc triết học.

Bản chất nổi bật kế tiếp của triết học Augustine là nội dung triết học Plotinus. Những gì Plotinus nói về Thượng Đế đều được Augustine tái phân giải. God là thực tính và là cội nguồn của tất cả sinh hữu : là logos, ánh sáng tri thức, là tính thiện tự hữu cho tất cả mọi vật. Tất cả mọi lãnh vực triết học, về vật lý, về đạo đức, về logic đều phát nguồn từ God.

Tuy nhiên--Jaspers phân luận tiếp--triết học Plotinus, với những khái niệm về Thượng Đế vẫn còn là những phạm trù trừu tượng, khi qua lý thuyết của Augustine thì trở nên thực tại bằng phân định. Cái cấu trúc tam thể của Plotinus về cái Một siêu thoát, cái tinh thần trong sự hữu, cái hồn của thế giới như là thực tại : The trinity của tam vị nhất thể với Cha (God), Con (Jesus), và Thánh Linh (Holy Spirit). Đối với Plotinus thì cái Một là vĩnh cửu--là nơi phát xuất tinh thần, linh hồn thế gian và vật thể qua những chu kỳ bất tận; khi qua Augustine thì cái Một Thượng Đế trở nên một Thần Đế có quyền năng, sáng thành ra thế gian vớI Một đầu tiên và điểm cuối cùng. Cái Một của Plotinus là trung hòa; còn Thần Đế của Augustinelà cho chủ đích con người. Vì thế, Plotinus không cầu nguyện; còn Augustine thì cầu nguyện là quan trọng hàng đầu. Plotinus tìm niềm hứng khởi trong suy niệm siêu bổng; Augustine thì tự kiểm thảo chính mình nhằm minh định năng động của đức tin. Plotinus tìm ra bằng hữu với những triết gia rải rác khắp mọI nơi; Augustine thì tìm ra chính mình qua thẩm quyền của Giáo hội với bản chất thế quyền bằng một cơ cấu tổ chức thực tế.

3)-Sự phát triển của Tư Tưởng Augustine: Jaspers nhận xét: Sự chuyển động tư tưởng của Augustine là một tiến trình tổng thể của ba phương diện: Christian, Catholic và Giáo hội. Từ đó, Augustine vật vả với tư tưởng trên ba phương diện đó như là như là lịch sử vật vả của Giáo hội La Mã đối với thế gian. Những gì rất là thực tế của đời sống tinh thần trong Giáo hội chính là tâm điểm của tư tưởng ông. Những tiền đề về thiên sủng, về tội lỗi, về cứu rỗi đều phát khởiminh giải trong những luận đề biện minh cho Giáo hội. Bản tính Catholicity của Giáo hội như là một hiện thân huyền bí từ Chúa Jesus được đề raluận giải từ những bài biện hộ đối các phe phái khác cùng thời. Từ một triết gia trẻ với tất cả những gì trong sáng với tiêu chuẩn nền tảng của lý trí, Augustine bỏ mất giá trị độc lập của triết học để tìm về tư tưởng thần luận trên căn bản Thánh kinh--cái mà ông cho là quan trọng nhất.

Những Phương Diện Tư TưởngCon Người Của Augustine :

1) Minh giải về sinh hiện và phiên luận kinh Thánh : Jaspers phân chia tư tưởng 

Augustine ra thành nhiều phương cách:

 Thứ nhất : Về phạm vi siêu hình của kinh nghiệm nội tại: Augustine viết rằng, con người thế gian sao cứ say mê tìm hiểu, khai phá, thám hiểm những gì bên ngoài, như sông, núi, ngân hà, vũ trụ, nhưng lại không chịu khám phátìm hiểu chính mình và Thượng Đế. Khẩu hiệu cho chính mình của Augustine là Hãy cho tôi biết tôi, Hãy cho tôi biết Người. Mệnh lệnh của ông là mệnh lệnh nội tâm, nhìn vào bên trong. Jaspers viết, Sự khai phá của Augustine đối với linh hồn là sự khai phá Thượng Đế; ông nghiên cứu Thượng Đế chính là nghiên cứu tâm hồn. Ông thấy Thượng Đế trong chiều sâu tâm hồn, và thấy tâm hồn trong liên hệ đến Thượng Đế. Trong chiều hướng nghiên cứu đời sống tâm hồn nầy mà Augustine được gọi là nhà tâm lý học hiện đại đầu tiên--không phải trên căn bản thực nghiệm khách quan mà là trên năng ý giảo cứu nội tại. Ông đối diện với đáy sâu bất tận của tâm hồn và than lên, Con người là một vực sâu thăm thẳm, to lớn, và chính Ta trở nên một câu hỏi cho chính ta.

Từ triết luận của Augustine là một chuỗi dài những nghi vấn, những cách thế đặt câu hỏi, những phạm trù vấn nạn về trí nhớ, kinh nghiệm, về sự chắc chắn về chính mình. Augustine đã nói, Cho dù ta đang nghi ngờ, ta biết là ta đang nghi ngờchắc chắn điều đó. Ta biết chắc khi ta nghi ngờ. Từ đó hạt giống tri nghiệm được nêu lên : Ta hiện hữu khi ta nghi ngờ. Chúng ta chỉ có thể nghi ngờ nếu chúng ta Đang Là. Không như Descartes chỉ chắc chắn về cái Ta Đang Là, Augustine chắc mãn về một bản sắc cho cái Ta nầy: cái Ta nầy biết về chính mình, biết đến đúng và sai, mang ý lực về hạnh phúc, yêu thương cuộc đời và khao khát kiến thức. Chúng ta sinh hữu, chúng ta biết về sự hiện hữu của chúng ta, và chúng ta yêu mến hiện hữu nầy và kiến thức nầy. Nhưng tình yêu và ý lực nầy để làm gì? Augustine trả lời: tình yêu cho hiện hữukiến thức. Đây là sự chắc chắn, không phải chắc mãn rỗng không, mà sự chắc mãn đựơc chất đầy bởi tình yêu và ý nguyện. Đến đây thì Jaspers kiểm thảo, Nhưng sự chắc chắn nầy của Augustine có thể bị sụp đổ xuống thành một tiền đề trống không, vô nghĩa về sự hữu, hay là tình yêu chỉ là một khát vọng cho bất cứ cái gì của sự sống; hay là chân lý chỉ còn là những cái vô nội dung chỉ nói lên được một điều có vẻ chính xác. Vấn nạn: Nội dung của tính sung mãn nầy là gì? Là Thượng Đế--Augustine trả lời. Tất cả cuộc sống tình yêu, ý chí sự hữu đều đặt căn tính vào Thượng Đế. Nếu chúng ta hỏi tiếp rằng, nếu Thượng Đế chỉ là chỉ là một khái niệm vô nghĩarỗng tuếch thì căn tínhý nghĩa gì không? Đối với Augustine thì God là chân đứng tối hậu, một giả định căn bản và tiên thiên--nếu không chấp nhận gỉả định về God thì tất cả cấu trúc của Augustine chỉ còn là một bài thơ dài đầy mê tíndị đoan.

Về vấn nạn của Thời: Thời đối với Augustine là một huyền bí, một cái gì có vẻ như biết mà không nắm chắc được. Ông quan tâm đến vấn đề nầy thường xuyên và người dầu tiên đạt lên những nghi vấn, những tiền đề sâu sắc về triết học cho Thời. Ông cho rằng Thời là một sự khai rộng--và đầu óc con người tự chính nó là sự khai dài của Thời. Và câu than của ông đã trở thành kinh điển, Vậy thì Thời là chi? Nếu không ai hỏi tôi, tôi biết; nhưng nếu có ai hỏi đến và tôi phải giải thích cho họ, tôi không biết. Tôi chỉ suy hỏi đến mà thôi chứ không nói lên điều nào cả. Và Thời bắt đầu chỉ khi Thượng Đế sáng tạo ra vũ trụ và sự hữu. God không tùy thuộc vào Thời. Trước khi tạo thế thì không có Thời. Thời chỉ phát xuất từ sáng thế. Không có cái trước đó. God là một thể trạng ever-present eternity. Vấn nạn về Thời vẫn là như vậy vì càng hỏi đến, càng suy cứu nó lại càng trở nên khó hiểu. Chỉ có một điều được khai mở khi vấn nạn về Thời đựơc mang lên: sự chắc mãn về sự hữu của chính ta và về Thượng Đế.

Nhưng Thượng Đế được dựng lên từ đâu? Từ thẩm quyền của Thánh kinh Bible và sự phiên giải của nó. Nền tảng của Bible là sự tiết lậu--chữ viết văn ngữ có được là của Thượng Đế khai thị. Lý trí con ngườI dừng lại ở một sự chấp nhận đối với thẩm quyền nầy--mà Augustine gọi là đức tin. Đức tin là điểm cuối cho mọi nghi vấn. Nó là câu trả lời tối hậu. Lý trí phải được đặt nền tảng trên đức tin--và triết học là chỉ để khai sáng cho một biện minh về niềm tin nầy mà thôi. Và làm sao tìm ra tính thực tại cho thế gian nầy và tất cả vấn đề bình nhật của con người và của lịch sử? Augustine đã dọn sẵn một câu trả lời khác: Giáo hội (La Mã). Giáo hộithẩm quyền, thay mặt Chúa hành xử chuyện thế gian thực tế. Giáo hội và con chiên đến với Chúa qua đức tin trên căn bản ngữ từ của Bible.

 2)- Về Thượng Đế và Chúa: Augustine phát huy tư tưởng của ông thành hai ngả: Về God thì trở nên một đối thể huyền hoặc và cao siêu; Về Christ thì trở thành chân thựclộ diện qua sử tính và nhân thế. God là sự ra đi; Christ là bước chân trở về căn nhà nhân loại. God là vượt thoát; Christ là vấn thân vào khổ đau với con ngườitội lỗi.

Cái sâu sắc, tuyệt vời của lịch sử Thiên Chúa giáo Tây phương là sản phẩm Chúa (Christ). Từ St Paul mà cuộc đờI của Jesus trở nên một ý niệm vĩ đại. Những hình ảnh cụ thể của Chúa Jesus trên Thánh giá thì điều nầy trở nên thực tại : tội ác cực kỳ của con người; khái niệm về đau khổ tột cùng trong văn hóa Do Thái; tiếng than của Thần Đế trong thất bại; sự đau đớn tột cùng cho một nhân thể; biên độ hữu hạn của khả năng của con ngườibản chất vô hạn của tính tự hào của Ngài.

Tại sao các đồ đệ của Jesus biến Jesus một con người hữu hạn, thành môt Jesus của ý niệm Chúa? Trả lời : Hình ảnh và huyền thoại của Chúa Jesus giải quyết một đòi hỏi cho con người: chúng ta muốn một hiện hữu thân xác. Qua thân xác và cuộc đời hữu hạn của Jesus, Thượng Đế trở nên chân thực va ngôn từ trở thành xác thịt.

3)- Về Tự Do: Đối với Augustine, Jaspers viết, ý lựctrung tâm của sinh hữu, là chính cuộc đời. Tuy nhiên, từ trong tự do, kinh nghiệm căn bản vẫn là sự dằng co giữa thực tính tự do và khả năng ý chí : tôi năng ý nhưng tôi không thể chú ý cái ý lực của mình. Tôi muốn đi tìm cái gốc nguồn ý lực--vốn nằm ngoài tôi. Vậy thì ý lực, vốn là của tôi, mà không đến từ tôi. Tôi không thể làm cho tôi yêu ai nếu tôi không yêu người đó. Tôi là tôi nhưng tôi có thể làm cho tôi sai lầm. Chính ta phản bội ta là điều thường nghiệm. Cái ta nầy được giao cho tôi --tôi tin nó nhưng không cậy nó được. Khitôi sinh sản ra cái Ta qua tác hành hay ý chí.

Luận đề nầy là một vấn nạn quen thuộc trong truyền thống Ấn Độ. Nhưng Ấn Độ có câu trả lời : cái Ta nầy được trao cho ý thức về ta từ nghiệp quả vốn cấu thành từ muôn vạn kiếp trước. Từ đó, sinh mệnh là một mệnh lệnh tu tĩnh để giải thoát cái Ta nầy ra khỏi ý thức về ta để đạt được một thực tính tự do không là Ta. Cả Thiên Chúa giáo lẫn Ấn giáo và Phật giáo ký thác căn tính tự do vào một cái ngoài Ta--tính ngoại thân là nguồn cội của ý chítự do. Đó là Thượng Đế, hay là nghiệp quả, hay là gì đó. Cái Ta chỉ là một hiện thân từ một cái không phải là Ta.
Theo Jaspers, thì Augustine tìm ra một phân định cho tự do khác để bỏ mất cái đẹp, cái độc lập, cái bi thảm vốn phát huy mạnh từ văn minh Hy Lạp.

Chưa có triết gia nào trước Augustine quan tâm đến vấn nạn bất thường của tự do, căn tính khả thể tự nó, hay là nghi vấn về ý nghĩa thực hữu cho tự do. Jaspers nhận xét. Từ Plotinus và St Paul mà Augustine tìm cho mình một cõi tự do mới : từ Chúa Jesus như là một Thượng Đế qua thân xác, của Giáo hội như là cơ đồ thế gian của Chúa. Cái Ta nầy là một nhân cách không bị đánh mất vào cái Một mơ hồ-- mà là một năng động thực hữu. Tự do, vì thế, là cho Ta trong hướng đi của Giáo hội, của đức tin cho Chúa cùng vớI suy niệm về Thượng Đế. Tự do, cuối cùng, chỉ là một phạm trù ý thức về cái Ta hiện thực hóa sự chắc mãn trong tín lý và khai phá nội tâm để biết cái nào là cái Ta và cái nào là cái không Ta.

4)-Và trong năng động tâm thức cá nhân, cái quan trọng nhất là tình yêu. Yêu là khao khát cái gì chưa phải là. Nó là năng lực ý chí.. Nó là khao khát khi muốn chiếm hữu; hạnh phúc khi đã có; lo sợ khi chiếm hữu bị đe dọa; thảm sầu khi bị mất. Tất cả những gì con người tác hành, ngay cả tộI ác, cũng chỉ vì tình yêu. Nhưng con người không thể diệt được tình yêu. Chỉ có cách là thanh lọc và điều hướng năng lực ý chí nầy. Tình yêu chân thực là tình yêu cho Thượng Đế. Nhưng yêu God là sao, là gì? Là cái miên viễn, thường trụ, cái thiện. Có thực vậy không? God là một khái niệm trở nên đối thể của ý thức nay trở thành người yêu chân hữu? Yêu Thượng Đế là tung đôi ý chí và tự-ngã vào khoảng không? Để đạt được những phạm trù phủ định: bất tử, không mất mát, không hủy diệt. Có phải đây là một trạng thái tâm lý gượng gạo của một tín đồ cực đoan sống trong một truyền thống tín điều? 

Augustine, qua Jaspers, cho rằng tinh hoa của cá nhân là tình yêu. Cái biết về thiện chưa đủ, hắn phải yêu cái thiện. Nhưng cái thiện ở đâu? Có phải là ở nơi từng hoàn cảnh thực tại giữa thế gian nầy. Nếu chỉ có caritas (yêu God) mà không yêu thế gian thì chữ thiện nằm trong khoảng không? Augustine chủ trương tình yêu cho Thượng Đế như là hướng đi cho mệnh lệnh--vì yêu thế gian là yêu cái vô thường, nó chỉ là libido, là tình yêu xác thịt.

Cái to tát, vĩ đại của tư tưởng Augustine là khả năng đánh thức chúng ta về những vấn đề lớn cho hiện hữu : của Thượng Đế, của linh hồn, của tuyệt vọng, dằn vặt, tội lỗi, chiêm nghiệm, cô đơn. Từ tín lý tuyệt đối với Giáo hội và Bible qua khái niệm Thượng Đế, Augustine làm cho chúng ta phải giật mình và nghĩ về một phương hướng sinh hữu khác bao gồm những thứ trên. Từ trong nô lệ của tư duy, chúng ta ý thức được ánh sáng tự do trước mặt.

 Jaspers viết, Augustine là biểu tượng của Thiên Chúa giáo, qua phái Catholic: Của một phong khí khiêm tốn một cách tự mãn, của tính khắc kỷ nặng tính giác quan, của sự che chụp và xoay ngược liên tục (của đời sống tâm lý)--chạy suốt cả dòng sinh hữu của tôn giáo nầy hơn tất cả các tôn giáo khác.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1617)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1739)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1304)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 995)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1304)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1789)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1355)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1458)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1285)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2580)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1278)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1303)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1583)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1565)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1529)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1363)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2502)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1511)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1499)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1282)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1331)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1495)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1450)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1333)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1300)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1415)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2067)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1442)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1409)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1502)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1747)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1426)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1290)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1566)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1307)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1597)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2208)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1374)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1848)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1576)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1664)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1516)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1856)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1566)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1353)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1626)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1484)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1448)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1241)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1165)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1208)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1433)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1542)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1516)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 957)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1403)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1416)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1553)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1798)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1404)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant