Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

01. Ấn Ðộ đến thời đức Phật

09 Tháng Mười 201100:00(Xem: 12134)
01. Ấn Ðộ đến thời đức Phật

CÁC BÀI
HỌC PHẬT
PHÚC TRUNG Huỳnh Ái Tông

Phần 1: ĐẠI CƯƠNG

Ấn Ðộ đến thời đức Phật

*

Ấn Độ là một trong những quốc gia nổi tiếng trên thế giới vì đất rộng, người đông, có dãi Hy mã lạp sơn cao nhất thế giới, có một nền văn minh khá cao và lâu đời, con số 0, số Pi (3,1416...) do người Ấn sử dụng đầu tiên trong toán học, Kinh Vệ Ðà đã được người Ấn sáng tạo từ 1800 đến 500 năm trước công nguyên, Ấn Ðộ là quê hương của đức Phật, hay nói khác hơn đó là nơi đạo Phật phát sinh, ngày nay đã lan tràn khắp thế giới vì sự hành trìtriết thuyết của đạo Phật thích ứng với thời đại. Do đó việcTime New Roman tìm hiểu về Ấn Ðộ là một điều cần thiết.

I.- Ấn Ðộ từ cổ đại đến trước thời đức Phật

Từ xa xưa, Ấn Ðộ đã có nền văn hóa cao, trở thành một đất nưóc huyền bí, có sức thu hút nhiều người, chẳng hạn như Columbus đã tìm ra châu Mỹ mà đến chết vẫn tưởng là mình đã tìm tới được Ấn Ðộ. Trung Quốc đã có Pháp Hiền rồi Huyền Trang, Nghĩa Tỉnh đã tới Ấn Ðộ thỉnh kinh, Việt Nam trước đó theo truyền thuyết đã có Từ Ðạo Hạnh, Nguyễn Minh Không lặn lội sang Tây Trúc để học đạo thần thông.

Ấn Ðộ là một nước có từ lâu đời, phía Bắc giáp với Nepal, Trung Quốc, phía Ðông giáp với Miến Ðiện, phía Tây giáp với Ba Tư và A Phú Hãn, sau nầy Ðông Hồi và Tây Hồi tách ra khỏi Ấn Ðộ. Ðịa lý tự nhiên chia Ấn Ðộ ra làm 3 miền :

1.- Rặng Hy Mã Lạp Sơn: Rặng núi nầy quanh năm tuyết phủ, cho nên theo tiếng Phạn có nghĩa là “nơi cư trú của tuyết” là vòng cung lồi, chạy dài chừng 2600 cây số, gồm nhiều đợt núi chạy song song, tạo thành chiều ngang rất rộng, gồm nhiều đỉnh cao, có 40 ngọn cao từ 7 ngàn đến 8 ngàn thước, nó là tường thành án ngữ về phía Bắc nên gió từ đại dương bị giữ lại, biến thành mưa tưới nước cho đồng bằng Ấn Hằng rộng lớn, 4 phần năm diện tích Hy Mã Lạp Sơn là rừng rậm, có nhiều thú, nhiều đạo sĩ Ấn Ðộ đến chốn cô tịch nầy để tu hành, dân Ấn tin rằng nơi đây có nhiều thần linh. Cho nên rặng núi nầy chẳng những hữu ích cho nông nghiệp Ấn Ðộ mà còn ảnh hưởng đến văn hóatâm linh của người dân Ấn.

2.- Ðồng bằng Ấn Hằng: Ðồng bằng này là một trong những đồng bằng rộng lớn nhất thế giới, nó kéo dài từ biển Ô Man đến vịnh Ben Gan chiều rộng từ 260 đến 600 cây số, chiều dài chừng 3600 cây số, sông Ấn và sông Hằng đều phát xuất từ rặng Hy Mã Lạp Sơn, sông Ấn ở phía Tây, dài 2900 cây số chảy qua vùng Pen Giáp có 5 phụ lưu đổ ra biển Á Rập. Sông Hằng ở phía Ðông dài 3090 cây số, chảy ra vịnh Ben Gan, người Ấn tin tưởng đó là một con sông linh thiêng, có thần thánh bảo trợ cho họ.

Theo truyền thuyết sông Hằng trước kia ở tận trên trời, sau nhờ thần Si Va, kéo nó chảy qua đầu tóc mình, lẩn quẩn ở đó hàng ngàn năm, rồi mới đổ xuống trần thế, tạo thành 7 nguồn sông ở bên sườn Hy Mã Lạp Sơn. Sông Hằng chảy qua một thành phố từ ngàn đời nay, là nơi linh thiêng nhất của người dân Ấn, đó là thành phố Va Na Ra Si (Bê Na Rét). Theo người Ấn, được tắm trong dòng nước mát và được chết bên bờ sông Hằng, tại khúc sông Hằng chảy qua thành phố nầy, là diễm phúc lớn nhất của cuộc đời. Lại nữa, hàng năm có hàng chục ngàn người lặn lội tới tận thượng nguồn sông Hằng để trẩy hội dâng hương, những mong tìm kiếm được phúc lành trong cõi thế gian đầy khổ đau nầy.

3.- Bán đảo Ðê Căng: Chủ yếu là cao nguyên Ðê Căng và hai dãi đồng bằng hẹp từ 20 đến 60 cây số, tạo thành hình chữ V, chạy dài theo bờ biển từ Ðông sang Tây, cao nguyên nầy thường được coi như nhà bảo tàng cổ xưa nhất của Ấn Ðộ, ở đây người ta tìm thấy những bộ lạc gần như nguyên thủy, những thổ ngữ rất xưa, nên người ta cho rằng: người Ấn Ðộ bản địa lâu đời nhất đã từng sinh sống tại đây.

Ấn Ðộ trải qua hàng chục ngàn năm gồm thiên di và xâm nhập, đã lai tạo các giống dân nên đa dạng về chủng tộc. Tuy nhiên về đại thể, có thể chia thành bốn giống chính đã từng sống ở Ấn Ðộ.

1.- Chủng tộc Nê Grô Íđ: Là chủng tộc bản địa cổ xưa nhất, tồn tại lâu đời, trong đó có giống người Ved Ða và Gôn Ðờ, sống ở Nam và trung cao nguyên Ðê Căng, các giống người nầy chủng tộc da đen, vóc người nhỏ, mũi tẹt, tóc xoắn.

2.- Chủng tộc Ðra Vi Ði An: (còn gọi là chủng tộc Ôt Xtra Lô Ít hay Mê La Nô Anh Diêng), có nguồn gốc đại dươngchủng tộc di cư đến Ấn Ðộ sớm nhất, nên được coi như người bản địa, cư trú phần lớn ở cao nguyên Ðê Căng. Giống người nầy nước da nâu sẫm, khuôn mặt hẹp, mũi thẳng, tóc đen. Sự khác biệt chủng tộc nầy với giống A Ry An là hệ thống ngôn ngữ.

3.- Chủng tộc A Ry An:chủng tộc da trắng hoặc da nâu sáng, vóc người cao, mũi thẳng, có nguồn gốc bên ngoài lãnh thổ Ấn Ðộ, có thể là giống dân Caucasoid xuất phát từ vùng Caucasus (nay thuộc lãnh thổ Liên Xô, nằm tiếp giáp Thổ Nhĩ Kỳ và I Ran) khoảng nữa sau thiên niên kỷ thứ 2 trước công nguyên, từ Tây Bắc tràn vào đồng bằng sông Ấn, dần dần lan sang phía Ðông tới châu thổ sông Hằng và xuống phía nam tới cao nguyên Ðê Căng, dân bản địa Ðra Vi Ði An bị bắt làm nô lệ, đồng thời hổn chủng với giống dân nầy, phần khác bị dồn xuống phía Nam. Ðặc điểm là ngôn ngữ của họ có nhiều quan hệ với ngôn ngữ Âu Châu, gọi chung là ngữ hệ Ấn - Âu, trải qua hàng chục thế kỷ, người A Ry An trở thành dân cư chính yếu của Ấn Ðộ.

4.- Chủng tộc Mông Gô Lô Íđ: Giống da vàng, thuộc tiểu chủng Miến-Tạng, không có râu, gò má cao. Chủng tộc nầy xâm nhập vào Ấn Ðộ từ hướng Bắc và Ðông Bắc, một số lan sang phía Ðông, do sự lai tạo lâu đời, ngày nay chủng tộc nầy không còn giữ được đặc trưng thuần khiết của giống dân mình.

Nói chung, về phương diện lịch sửvăn hóa, giống Ðra Vi Ði An như là nền tảng, còn giống dân A Ry An là yếu tố chủ thể của nước Ấn Ðộ truyền thống.

Ấn Ðộ là nước đa dạng và phức tạp về ngôn ngữ, tiền tệ Ấn Ðộ đồng Ru Bi có ghi đến 12 thứ chữ khác nhau. Ngày nay Ấn Ðộ chính thức công nhận 15 ngôn ngữ, không kể Anh ngữ gần như thông dụng trong giao dịch, người ta chia ngôn ngữ Ấn Ðộ thành hai nhóm chính : Nhóm ngôn ngữ A Ry An gồm có cổ ngữ San Skrít (tiếng Phạn), được coi là ngôn ngữ chính thống trong nền văn hóa cổ đại và ngôn ngữ Hin Ði hiện nay thông dụng nhất (140 triệu người dùng). Nhóm ngôn ngữ Ðra Vi Ði An được dùng ở cao nguyên Ðề Căng gồm có tiếng Tê Lu Gu, Mun Ða (có họ hàng gần gủi với hệ Môn Khmer), Uốc Ðu là ngôn ngữ đặc biệt kết hợp Ấn Ðộ với Hồi Giáo, được viết theo chữ Á Rập và ngữ pháp Hin-Ðu.

Về mặt tôn giáo, theo thống kê năm 1971 được công bố như sau:

  • Ðạo Hin Ðu ( Ấn Ðộ Giáo ) -- 83% dân số
  • Ðạo Hồi --------------------------11% -
  • Ðạo Sích --------------------------2% -
  • Ðạo Phật --------------------- 0,75% -
  • Ðạo Jai Na (Kỳ Na Giáo)--- 0,50 % -
  • Ðạo Ba Tư, Gia Tô, Do Thái --- 2% -

Thuở xưa, Ấn Ðộ đã có nền văn hóa vùng sông Ấn (nay sông Ấn thuộc Hồi quốc ở về phía Tây Ấn Ðộ) vào khoảng 2500 năm đến 1500 năm trước công nguyên, thời kỳ này được gọi là Văn hóa tiền Vệ Ðà sau đó đến nền văn hóa Vệ Ðà của giống dân A Ry An (Aryan) khoảng từ 1800 đến 500 năm trước công nguyên.

Người Ấn Ðộ sống ở vùng sông Ấn đã có tín ngưỡng thần linh, nhất là nữ thần, người A Ry An sùng bái các lực lượng tự nhiên như thần không trung Va Ru Na, thần bão táo In Ðra, thần lửa A Nhi..., họ tổ chức cúng tế những tín ngưỡngtôn giáo nguyên thủy đó, người ta gọi là đạo Vệ Ðà, sự dung hợp hai yếu tố văn hóa A Ry An và dân bản địa sông Ấn vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ 2 trước công nguyên, làm cho nền văn hóa thành thị của dân bản địa chuyển thành tính chất nông thôn, cũng biến đổi nền kinh tế chăn nuôi của giống A Ry An sang kinh tế trồng trọt, hình thành nền văn hóa cổ đại Ấn Ðộ, thống nhất đượm tinh thần đạo Vệ Ðà, nó có tánh chất nền tảng, người ta gọi đó là nền văn hóa Hin Ðu.

Ðời sống kinh tế của người Ấn chủ yếu là nông nghiệp và thương mại, về mặt xã hội từ các bộ tộc họ đã sớm chuyển thành các quốc gia, đứng đầu là một vị quốc vương. Những hình thức tế lễ, quyền uy của hạng người võ sĩ, sớm hình thành xã hội có đẳng cấp để bảo vệ các quyền lợi của giai cấp. Xã hội Ấn Ðộ cổ thời chia thành bốn giai cấp, đứng đầugiai cấp của những người tế lễ, đọc kinh Vệ Ðà, thuyết giáo cho quần chúng, đó là giai cấp Bà La Môn, kế đó là giai cấp của những người thống trị như vua, quan, nhà quý phái gọi là Sát Ðế Lợi, kế đó là giai cấp của những người bình dân, gồm công, nông, thương gọi là giai cấp Tỳ Xá, cuối cùnggiai cấp tiện dân, đời đời làm những nghề hèn hạ và nô lệ.

Giai đoạn Vệ Ðà gắn liền với sự xâm nhập của người A Ry An vào vùng đất Ấn, họ đã có sản phẩm tinh thần là các bộ kinh Vệ Ðà viết bằng tiếng Phạn, nó gồm có 4 bộ:

  • Rig Vệ Ðà: Nội dung ca tụng các thần linh.
  • Ya Juna Vệ Ðà: Tập hợp các nghi thức lễ và tế tự.
  • Sa Ma Vệ Ðà: Gồm những khúc ca cầu nguyện.
  • Ác Tha Va Vệ Ðà: Sưu tập những câu phù chú.

Bộ Vệ Ðà toát lên giáo lý cơ bản là con người thường xuyên có những mối liên hệ với thần linh, phản ánh sự hòa đồng giữa con ngườivũ trụ. Nhờ cúng tế, con người sẽ được các thần linh đó phù hộ che chở, sẽ tránh được điều rủi gặp được điều may.

Dần dần những người cúng tế để củng cố địa vị mình, họ đã sáng tác bộ thánh điển Brah Ma Na là tập sách chú giải, diễn nghĩa gắn liền với từng bộ kinh Vệ Ðà, đây là giai đoạn đạo Bà La Môn, những tăng lữ này có uy thế và đặc quyền, trong quyển luật Ma Nu thời cổ đại Ấn Ðộ, đã khẳng định và dành sự ưu đãi đặc biệt là không ai có thể bắt tội hoặc xử tử người thuộc đẳng cấp nầy.

Hiện tượng “Bà La Môn hóa” đối với các từng lớp xã hội khác lúc đó, là thuyết về bốn giai đoạn của cuộc đời. Theo đó, một người Ấn Ðộ lần lượt trải qua các giai đoạn: đồ đệ Bà La Môn, chủ gia đình, ẩn sĩđạo sĩ khất thực, như vậy trong 2 giai đoạn cuối của cuộc đời, người Ấn Ðộ hầu như đều trở thành đạo sĩ Bà La Môn. Tất cả những điều này củng cố thêm quan niệm trật tự xã hội, một quy phạm có tánh cách vĩnh hằng. Người ta cho rằng đạo Bà La Môn xây dựng trên nền tảng có ba yếu tố: đạo, đẳng cấp và các giai đoạn đời sống.

Giai đoạn cuối cùng dài nhất của đạo Bà La Môn, là sự chuyển hóa thành Ấn Ðộ Giáo (đạo Hin Ðu) hình thức phát triển cao của đạo Bà La Môn. Kinh điển Ấn Ðộ Giáo gồm có kinh Vệ Ðà và các tác phẩm văn học. Về kinh điển có bốn bộ kinh Vệ Ðà, những cuốn sách chú giải Brah Ma Na, đỉnh cao của hệ thống giáo lý tự biện của Ấn Ðộ Giáo tập trung trong những bộ kinh U Pa Ni Sáđ. Về tác phẩm văn học số lượng đa dạng, chủ yếu là cuốn truyện cổ tích Pu Ra Na, hai cuốn sử thi Ma Ha Bha Ra Ta và Ra Ma Ya Na. Nổi bật nhất là tác phẩm Chí Tôn Ca (Bha Ga Vad Ghi Ta) lồng vào sử thi Ma Ha Bha Ra Ta. Tác phẩm nầy là bản tổng kết xuất sắc giáo lý Ấn Ðộ Giáo, một nhà nghiên cứu đã đánh giá: “một cuốn thánh kinh vĩ đại, đầy đủ và vắn tắc nhất trong tất cả thánh kinh của nhân loại”

Cặp phạm trù cơ bản nhất của Ấn Ðộ Giáo là Át Man và Brah Man: Brah Man là cái bản ngã vũ trụ, cái tuyệt đối, dưới khía cạnh tôn giáoyếu tố thần linh được bao chứa và thấm nhuần trong vạn vật. Còn Át Man là cái bản ngã cá thể, cái đặc thù trong từng sự vật, con người là một mảnh của Brah Man, tồn tại một cách cụ thể và đơn nhất. Vậy Át Man cũng chính là Brah Man và ngược lại.

Nếu Át Man và Brah Man là nền tảng của thế giới quan thì Kác Man và Sam Ma Ra là nền tảng nhân sinh quan. Theo thuyết Sam Ma Ra, cái chết của con người là sự chuyển hóa sang kiếp sống khác, sự tái sinh trong luân hồi, gắn liền với Sam Ma Ra là Kác Man, đây là quan hệ nhân quả, theo đó bất cứ hành động nào của con người cũng được trả giá, nó toàn năng ngoài ý muốn con người, theo đuổi con người không bao giờ lầm lẫn. Và thuyết Mok Sa là con người rất khó nhưng có thể tránh khỏi luân hồi nghiệp báo bằng cách gắng sức thì có thể đi đến giải thoát. Vì vậy khi giác ngộ được chân lý Át Man - Brah Man, ý thức được đời sống phù du, hiểu thấu lẽ sống chết, sẽ dập tất động lực đẩy bánh xe nghiệp báo, luân hồi, nó sẽ dừng lại.

Tác Phẩm Chí Tôn Ca chỉ ra ba con đường cho người muốn giải thoát, đó là : Con đường hành động, hăng hái làm tròn bổn phận ở đời, con đường trí thức, rũ bỏ mọi cám dỗ, chuyên tâm rèn luyện tinh thầncuối cùngcon đường sùng tín, tin yêu một vị thần do mình lựa chọn, tôn kính như đấng chí tôn.

Các nghi lễ cúng tế Ấn Ðộ Giáo cải cách đơn giản rất nhiều so với Bà La Môn.

II.- Thời Kỳ Ðức Phật:

A.- Kỳ Na Giáo:

Cùng thời gian đạo Phật, Ấn Ðộ có Kỳ Na Giáo, giáo chủ là Vardhamana (Ðại Hùng), ông sinh ra ở gần thành Vaisali nước Líc Sa Víc cũng thuộc vùng biên giới Ðông Bắc Ấn Ðộ, ông là hoàng tử của một triều đình, có vợ và con gái, sau đi tu trong 12 năm rồi đắc đạo dưới gốc cây Bồ Ðề trở thành đấng giác ngộ, được suy tôn là Ma Ha Vi Ra. Theo truyền thuyết, trước đó đã có những vị tu đắc đạo, Ma Ha Vi Ra là vị đắc đạo cuối cùng thứ 24. Sau khi đắc đạo ông vẫn sống khổ hạnh cùng với 11 môn đệ đi khắp nơi truyền đạo. Năm 527 trước công nguyên, Ma Ha Vi Ra mất tại Pát Na, thọ 72 tuổi, được các tín đồ cho là ông đã tịch diệt vào cõi niết bàn, lúc đó tăng ni theo ông đến 50 ngàn người, đa sốphụ nữ.

Kỳ Na Giáo phủ nhận giáo lý Vệ Ðà, thừa nhận tính đa diện của hiện thực, thường lấy ví dụ 6 người mù rờ voi, mỗi người mù chỉ biết một phần con voi, từ đó suy ra con người nhận thức sự vật cũng phiến diện như các anh mù.

Kỳ Na Giáo cũng có một số nét giống đạo Phật, họ có khái niệm Tam Bảo (ba phép quý) : lòng tin đúng đắn, nhận thức đúng đắn và hạnh kiểm đúng đắn. Còn 5 điều răn cấm là: không sát sanh, không nói dối, không trộm cắp, không gian dâm, không giữ của riêng.

Ðặc biệt Kỳ Na Giáo có thuyết A Him Sa (không giết hại sinh linh), được coi như một nguyên tắc quán triệt mọi ý nghĩ và hành động của tín đồ. Sự thực hành cụ thể của A Him Sa là tu khổ hạnh, ăn chay để tránh nghiệp báođạt đến Niết bàn, họ có tục tuyệt thực, nó đã ảnh hưởng sau nầy đối với thánh Găn Ði trong cuộc tranh đấu bất bạo động, để giành lại nền độc lập cho Ấn Ðộ từ đế quốc Anh.

Sau khi giáo chủ Ha Ha Vi Ra qua đời một thời gian, Kỳ Na Giáo phân thành hai phái, phái không y gọi là Lõa hình và phái Bạch Y (mặc y trắng). Phái không y cho rằng họ gìn giữ theo truyền thống khổ hạnh và không công nhận kinh sách, bị coi là do người đời sau đưa vào, giáo lýgiới luật của phái Bạch y có phần cởi mở hơn. Nhìn chung hai phái không có gì mâu thuẩn, đối lập nhau.

B.- Lục sư ngoại đạo phái:

Ðương thời đức Thế Tôn có 6 nhà ngoại đạo, chủ trương lý thuyết khác nhau, Phật giáo gọi là Lục Sư ngoại đạo, các phái nầy chỉ bộc phát nhứt thời rồi tiêu diệt. Ðại cương có :

1.- Phái Nan Ðà Ca Diếp (Pùrana Kàssápa): Phái nầy chủ trương thuyết ngẫu nhiên, không tin luật nhân quả. Phật giáo gọi phái nầy là “Phái vô nhân quả”.

2.- Phái Mạt Già Lê Câu Xá Lợi (Makkhali Gosàla): Phái nầy chủ trương thuyết tự nhiên, mọi sự vật không bị ảnh hưởng bởi nguyên nhân nào cả. Phật giáo gọi phái nầy là “Tà mệnh ngoại đạo”.

3.- Phái A Di Ða Thúy Xá Khâm Bà La (Ajitakesa Kambali): Phái nầy chủ trương thuyết Duy vật luận. Cho rằng con người do tứ đại “Ðất, nước, lửa, gió” hợp thành, chết thân hoàn về tứ đại, không tôn trọng tinh thần, đạo đức, chủ trương hưởng khoái lạc của nhục thể là mục đích.

4.- Phái Bà Phù Ðà Ca chiên Diên (Pakudha Katyàyana): Phái nầy chủ trương sinh mệnhvật chất thường trụ, các vật tạo thành nương vào sự hòa hợp của 7 yếu tố “Ðất, Nước, Lửa, Gió, Khổ, Vui, Ðời sống”. Vậy sinh tử chỉ là sự tụ tán của 7 yếu tố đó, còn 7 yếu tố thì bất diệt.

5.-Phái Tán Nhạ Da Tỳ La Lê Tử (Sãnjaya Belatthiputta): Phái nầy chủ trương thuyết tu định, thuộc phái ngụy biện. Họ cho chân lý không phải là không biến đổi, nên việc tu đạovô ích mà chỉ lo tu thiền định.

6.- Phái Ni Kiền Ðà Nhã Ðề Tử (Nigantha Nàtaputta): Phái nầy chủ trương tu khổ hạnh, cho rằng sướng vui họa phúc do tiền nghiệp, muốn thoát khỏi tiền nghiệp phải tu khổ hạnh để cầu giải thoát.

C.- Sáu phái triết học:

Kỳ Na GiáoLục Sư ngoại đạo đều không thuộc tư tưởng của Bà La Môn giáo, nhưng đương thời của đức Phật còn có 6 phái triết học, các phái nầy chịu ảnh hưởng của kinh Vệ Ðà, Bra Ma Na hay U Pa Ni Sad. Sáu phái nầy vì có những quan điểm tương đồng nên có thể chia làm 3 nhóm :

  • Nhóm có những yếu tố duy vật : Nyàya - Vaisésika
  • Nhóm duy tâm cực đoan : Mimàmsà - Vedànta
  • Nhóm gồm cả duy tâmduy vật : Sàmkhya - Yoga

Tư tưởng đại cương của các phái ấy như sau :

1.- Chính lý phái ( Nyàya): Tư tưởng của phái nầy thuộc đa nguyên luận, lấy kinh điển Nyàya-Sutra làm căn cứ. Phái nầy cho rằng con người sinh nơi trần thế có đầy dẫy những tác nghiệp, tác nghiệp làm cơ sở cho phiền não, phiền nãocăn bản của vô tri. Vậy muốn lìa khổ phải diệt vô tri, tiêu diệt vô tri thì đạt tới an vui giải thoát. Thuyết này tương đương với 12 nhân duyên của Phật giáo. Về phương thức nghị luận, phái này chia làm 5 giai đoạn : Tôn, Nhân, Dụ, Hợp, Kết. Về sau phương thức nầy được Thế ThânTrần Na phủ chính chỗ thiếu sót, chuyển thành luận lý học trong Phật giáo.

2.- Thắng luận phái (Vaisésika): Phái này chủ trương “thanh thường trụ” (âm thanh thường còn), họ đứng trên lập trường tự nhiên của triết học để giải thích vạn hữu trong vũ trụ, khai tổ là Ca Na Ðà (Kanada), kinh điển căn cứ là Vaisésika-Sutra, trong đó nêu ra 6 phạm trù: Thực cú nghĩa (Thể), Ðức cú nghĩa (Tướng), Nghiệp cú nghĩa (Dụng), Ðồng cú nghĩa, Dị cứu nghĩa, Hòa hợp cú nghĩa làm nguyên lý để thành lập vạn hữu. Trước hết hết quán sát vạn hữu ở phần cụ thể, nên thành lập Thực cú nghĩa, khi quan sát về tính chất hay thuộc tính thì thành lập Ðức cú nghĩa, để hợp với khái niệm vận động thì thành lập Nghiệp cú nghĩa. Tóm lại vạn hữu thành lập do 3 nguyên lý “Thực, Ðức, Nghiệp” Căn cứ vào 3 nguyên lý ấy mà quan sát vạn hữu, nếu chúng quan hệ với nhau thì thành lập Ðồng cú nghĩa, nếu chúng đối nghịch nhau thì thành lập Dị cú nghĩa, nếu 5 nguyên lý trên liên kết với nhau thì thành lập Hòa hợp cú nghĩa. Ðó là 6 nguyên lý hay 6 phạm trù căn bản để phái nầy thuyết minh và lý giải vạn hữu.

Về phương diện nhân sinh, phái này cho rằng con người được hình thành do 8 yếu tố : Thứ nhất Át Man yếu tố bất sinh, bất diệt, thứ hai Ý (Manas) là cơ quan liên lạc giữa Át man và ngũ căn, ngũ căn hoàn toàn do vật chất tạo thành Nhãn căn do hỏa đại, Nhĩ căn do không đại, Tỵ căn do địa đại, Thiệt căn do thủy đại, Thân căn do phong đại tạo thành. Ðối tượng của ngũ cănngũ trần : Sắc, thanh, hương, vị, xúc. Át man là chủ thể, các cơ quan khác phụ thuộc để nhận thức và hành động. Yếu tố thứ tám là Nghiệp lực (Adrata), do nghiệp lực huân tập nên bị luân hồi, muốn thoát khỏi luân hồi phải diệt nghiệp lực bằng cách tu trì khổ hạnh để đạt tới cảnh giới thuần túy Át Man, đó là lý tưởng giải thoát.

3.- Phái số luận (Sàmkhya): Khai tổCa Tỳ La (Kapia) phái này chủ trương nhị nguyên luận là tinh thầnvật chất. Vật chấtyếu tố thành lập vạn hữu, vật chất luôn luôn biến động, đối lập với vật chấtvô số linh hồn, linh hồn tự do, kết hợp với vật chất tạo ra sinh vật. Nương theo 3 nguyên chất là Hỷ, Ưu, Ám, gọi chung là 3 Ðức, căn cứ vào sự phối hợp của 3 đức để thuyết minh hiện tượng vạn hữu, nếu 3 đức ấy từng cập một chi phối lẫn nhau là động lực tạo thành, nếu 3 đức ấy đứng ở trạng thái riêng lẻ là nguyên nhân tiêu diệt.

4.- Phái Du Già (Yoga): Khai tổBát Tử Xà Lê (Patanjali), lấy kinh điển Yoga-Sutra làm căn cứ. Phái này chú trọng pháp môn tu thiền định để mong cầu giải thoát, theo phương pháp tu tập chia làm 8 giai đoạn : Cấm chế (Yama), Khuyến chế (Niyama), Tọa pháp (Asana), Ðiều tức (Prànàyàma), Chế cảm (Pratyàkàra), Chấp trì (Dhàranà), Tỉnh lự (Dhyàna), Ðẳng trì (Samadhi).

- Cấm chế : Cần giữ năm giới điều : Không sát sanh, không trộm cắp, không gian dâm, không nói dối, không tham lam, (thuộc đức độ tiêu cực).
- Khuyến chế : Cần phải làm 5 việc : thanh tịnh, mãn định, khổ hạnh, học tập kinh điển, định thần, (thuộc đức độ tích cực).
- Tọa pháp : Là điều hòa thân thể.
- Ðiều tức : Là điều hòa hơi thở.
- Chế cảm : Thống ngự ngũ căn
- Chấp trì : Tập trung tư tưởng.
- Tỉnh lự : Thống nhất cái tâm.
- Ðẳng trì : Ðể tâm trở thành vắng lặng như hư không, chỉ còn có cảnh giới xán lạn, tức là chứng được tam muội (Sammadhi), chỉ còn một "thần ngã" giải thoát tự tại.

5.- Phái Nhĩ Man Tát (Mimàmsà): Khai tổ là Sà Y Nhĩ Ni (Jaimini), lấy kinh điển Mimàmsà-Sutra làm căn cự Phái nầy chú trọng về phương diện luân lý triết học, phục tùng mệnh lệnh và cấm chế của kinh Vệ Ðà, chủ trương thuyết “âm thanh thường trụ”. Về lý tưởng giải thoát, phái nầy cho rằng hiện thếlai thế muốn được sung sướng, cần phải dùng nhiều hình thức hy sinh, những sự hy sinh sẽ được báo đáp trong hiện tại hay vị lai.

6.- Phái Phệ Ðàn Ða (Vedànta): Khai tổ là Bà Ðạt La Gia Na (Bàdarayana), lấy kinh điển Vedànta do Bàdarayana trước tác làm căn cứ. Tư tưởng triết học của phái nầy cho rằng Bràhman là tổng nguyên lý của vũ trụ, vạn hữu, là duy nhấtsiêu việt. Vạn hữu trong vũ trụ bao hàm trong Bràhman, do Bràhman khai triển ra hiện tượng giới. Trước nhất Bràhman khai triển ra Hư không, Hư không sinh ra Gió, Gió sinh ra Lửa, Lửa sinh ra Nước, Nước sinh ra đất. Năm nguyên tố nầy, một mặt tổ chức thành vật khí thế gian, một mặt tổ chức thành hữu tình thế gian.

Căn cứ kinh Vedànta Sutra thì Bràhman và Atman là một thể. Khi ở giai đoạn chưa triển khai thì Atman là bào thai của Bràhman, nhưng ở giai đoạn khai triển thì Atman của con ngườiđịa vị độc lập, chịu phần chi phối của Bràhman. Ðặc chất của Atman là trí tuệ, hành vi, nương theo vào tự do ý chí phán đoán, tạo thành nhiều loại tác nghiệp, do tác nghiệp huân tập nên quên mất cố hương, chỉ theo huân tập nên chịu sanh tử luân hồi trong hiện tượng giới, chịu khổ não trong loài hữu tình. Hữu tình là một bộ phận của Bràhman, đầy đủ thể tính thanh tịnh như Bràhman, muốn trở lại với Bràhman thì cần phải tu hành để giải thoát. Do công phu tu hành giải thoát, Atman dung hợp với cảnh giới Bràhman, đây là giai đoạn đạt tới hoàn toàn được giải thoát vĩnh viễn.

Ðó là sự hình thành xã hội Ấn Ðộ trước và trong thời đại đức Phật. Những giáo lý đức Phật đã dạy có phải là được xây dựng trên những triết thuyết, những học phái đã có thời ấy hay chính giáo lý của đức Phật, ngài đã tìm thấy như thế, tự nó soi sáng cho những chỗ đúng sai của các học thuyết trên. Dù sao thì đương thời đức Phật đã xóa bỏ giai cấp xã hội Ấn Ðộ thời bấy giờ, thứ giai cấp đã được xây dựng từ lâu và được bảo vệ vững chắc nhất, đã là một cuộc canh tân vĩ đại, đem lại sự bình đẳngcông bằng cho mọi người, dễ cảm hóa người ta theo đạo Phật, hơn nữa giáo lý nguyên thủy thực tế, phù hợp với tất cả mọi người với bốn chân lý : Khổ, Tập, Diệt, Ðạo qua bài pháp đầu tiên nơi Vườn Nai, thời pháp ấy cộng với Mười hai nhân duyên, gồm đủ nhân sinhvũ trụ quan Phật Giáo.

Dec. 12, 1999

Sách tham khảo :

  • Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm Lịch sử Phật Giáo Ấn Ðộ Vạn Hạnh, Sàigòn, 1963
  • Nguyễn Thừa Hỷ Ấn Ðộ NXB Văn Hóa, Việt Nam, 1986
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2017)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 3017)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2631)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3534)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3365)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4202)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3710)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4262)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2352)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3508)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4190)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3970)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2903)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3380)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3516)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4571)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3900)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4787)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4060)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 3049)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3794)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3939)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 3108)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3630)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4474)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3744)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2277)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2645)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 3053)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2743)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4611)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4942)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2846)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5309)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2870)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3309)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4396)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4966)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4724)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3263)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4572)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4295)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6163)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3531)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 4054)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 6036)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5434)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 4085)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 33167)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3188)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4180)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4753)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 3107)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3831)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3565)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6568)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2791)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3250)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4602)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3476)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant