Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

10. Năm giới

09 Tháng Mười 201100:00(Xem: 12313)
10. Năm giới

CÁC BÀI
HỌC PHẬT
PHÚC TRUNG Huỳnh Ái Tông

Phần 2: GIÁO LÝ CĂN BẢN

Năm giới

I.- Nhập: Ðể cho việc tu học được tinh-tấn, hồi Ðức Thế Tôn còn tại tiền, ngài chế ra giới luật, cũng như những luật lệthế gian dùng, người cư sĩ tại gia phải giữ năm giới, vào chùa tu tập, giữ Tám giới gọi là Bát Quan Trai, hay nguyện tu Bồ Tát hạnhBồ Tát Ưu Bà Tắc giới gồm 6 giới Trọng và 28 giới Khinh, còn quý vị xuất giaSa Di hay Sa Di Ni thọ 10 giới, tỳ kheo thọ 250 giới còn Tỳ Kheo Ni thọ 348 giới và Bồ Tát Giới của quý vị xuất gia có 10 giới trọng và 48 giới Khinh.

Năm giới này là những lời nói, việc làm không tốt cho bản thân và cho xã hội, giữ được Năm giới sẽ tránh được nhân quả xấu, muốn tích cực hơn, người Phật tử nên tu tập theo Mười điều thiện.

II. - Năm giới: lòng từ bi đối với tất cả chúng sanh, vì để tránh quả báo xấu phải chịu trôi lăn trong luân hồi nhiều đời nhiều kiếp, nên Phật chế ra Năm giới này cho người tu tại gia. Ðạo Phật là đạo đem sự an vui đến để cứu khổ cho mọi người, đạo Phật tôn trọng sự bình đẳng và nhất là sự tự-do, bởi vì con người chúng ta tự làm chủ lấy vận mệnh của chúng ta, chúng ta tự do lựa chọn con đường tu, chúng ta tự do hành động và tự chúng ta chịu trách nhiệm về hành động của mình qua luật nhân quả, Phật không bao giờ bắt buộc chúng ta phải làm điều này điều kia, Phật không bao giờ có thưởng hay phạt bất cứ ai. Người Phật tử giữ năm giới là một việc làm hoàn toàn tự nguyện, khi mình bị sai phạm, tự mình biết và tự mình sám hối. Năm giới đó là: Không giết hại (sát), không trộm cướp (đạo), không tà dâm (dâm), không nói sai sự thật (vọng ngữ), không uống rượu (ẩm tửu). Trong Thiên Thai Nhơn Vương Kinh có nói rằng Ngũ giới của Ðạo Phật tức là Ngũ thường của đạo Nho: Bất sát sanh = Nhân, Bất du đạo = Nghĩa, Bất tà dâm = Lễ, Bất vọng ngữ = Tín, Bất ẩm tửu = Trí.

1- Không giết hại: Ðức Phật chế ra giới không sát hại vì những lý do sau:

A) Tôn trọng sự bình đẳng: Chúng ta thường nghe câu Ðức Phật nói: "Nhất thiết chúng sanh, giai hữu Phật tánh" Như vậy mọi chúng sanh đều có Phật tánh, ta không được giết hại một Phật tánh này để nuôi dưỡng một phật tánh khác hay là để giải trí.

B) Nuôi dưỡng lòng từ bi: Từ bi là ban vui cứu khổ, bất cứ một con vật nào trước khi chết cũng đều chống chỏi cái chết, để dành lấy sự sống cho mình, con bò, con heo khi bị đập đầu thọc huyết đều kêu la thảm thiết, chúng ta bị một vết thương đau đớn, rên la biết bao nhiêu, thì con vật cũng đau đớn dường ấy, chúng ta sợ chết biết kêu la cầu cứu, tại sao ta nỡ nào giết hại con vật khác? Tôi nhớ có người bạn là Bác sĩ thú y, anh ta nói hồi còn làm việc ở Lò thịt Chánh Hưng, những con trâu hay bò muốn làm thịt phải đưa qua cho anh khám, nếu nó già cỗi mới được làm thịt, nếu nó còn tơ không được làm thịt, anh thấy rõ hầu hết đều có linh tính, nó không muốn bước tới chỗ khám, khi bắt buộc nó bước tới chỗ khám, hai hàng nước mắt nó chảy dài !

C) Tránh luật nhân quả báo ứng, oán thù: Chúng ta gieo Nhân thì chúng ta sẽ gặt quả chẳng sớm cũng muộn mà thôi, một người gieo hạt đậu, dĩ nhiên sẽ được cây đậu đơm bông kết trái cho người ấy hạt đậu, đậu có được sớm hay muộn, tốt hay xấu còn do những yếu tố đất đai, mưa nắng... Sự giết hại sẽ tạo thành mối oán thù, cứ giết hại lẫn nhau, chiến tranh cũng vì thế mà có.

Tự mình giết, sai bảo người khác giết, thấy người khác giết mà mình sanh tâm vui mừng, tưởng nghĩ đến sự giết hại thảy đều phạm vào tội giết hại.

Sự lợi ích của không giết hại: Về mặt cá nhân, chúng ta tạo được quả tốt, trưởng dưỡng được lòng từ bi của chúng ta, về mặt xã-hội sẽ không có chém giết nhau, sẽ không có chiến tranh gây ra biết bao nhiêu đau khổ, tang thương, thế giới sẽ được hòa bình, nhà nhà ấm no hạnh phúc.

2- Không trộm cướp: Trộm là lén lấy vật gì của người khác, cướp là dùng sức mạnh uy hiếp người khác để lấy tài sản của họ. Những trộm cướp đều do lòng tham, tật xấu gây ra. Phật chế ra điều này vì:

A) Tôn trọng tư hữu: Mỗi người có của cải riêng, mỗi khi bị mất, ai cũng đều tiếc của, cho nên ta không nên lấy của người khác.

B) Diệt trừ lòng tham: Tham lam, giận dữ, si mê gọi là ba thứ độc hại Tham, Sân, Si. Người ta thường nói "lòng tham không đáy", một người có lòng tham, khi muốn có món nầy được rồi lại muốn có món khác, muốn mà không có được nhiều khi ăn không ngon, ngủ không yên, có khi lại sanh tâm làm quấy như trộm cướp của người, sẽ gây ra biết bao nhiêu tội lỗi. Trốn thuế, cờ bạc, gian lận diều gì cũng phạm tội trộm cướp này.

Sự lợi ích của không trộm cướp: Về bản thân, chúng ta giữ được tâm bình thản, không lo nghĩ buồn rầu vì những ham muốn không thành, ăn ngon, ngủ yên. Về mặt xã hội, nếu không có trộm cướp thì mọi người được sống an vui, không lo sợ mất mát của cải, chiến tranh cũng sẽ không xảy ra. Muốn giữ cho giới này được tốt, chúng ta cần phải bố thí. Hạn chế: Chúng ta diệt lòng ham muốn, nhưng ham muốn thành một vị Phật thì nhất thiết phải có.

3- Không tà dâm: Không được sống đời sống trác táng ăn chơi hoang đàng. Kinh dạy rằng: Cội gốc sinh tử luân hồi, dâm dục là thứ nhất. Cư sĩ chúng tahoàn cảnh phải có gia đình, sanh con đẻ cái nhưng không được hành dâm trái với luân thường đạo lý. Phương tiện tà dâm có Thân: Sống trác táng, ăn chơi, đọc xem phim ảnh nói về tà dục. Miệng: Nói những lời tà dục. Ý: Thầm nghĩ những chuyện tà dục trái luân thường đạo lý.

Phật chế ra giới này để:

A) Tiết dục: Người tu hành phải diệt dục, cư sĩ phải tiết dục, nhờ đó giữ được thân thể khỏe mạnh, trí tuệ minh mẫn, tu học càng tinh tấn.

B) Bảo vệ hạnh phúc gia-đình: Sự ngoại tình làm mất hạnh phúc, cho nên không có tà dâm thì gia đình sẽ được đầm ấm, an vui, hạnh phúc, phong tục được tốt đẹp.

C) Tránh quả báo xấu và oán thù: Tà dâm gây ra oán thù và nhất là có quả báo xấu. Người ta thường nói: "Nhứt hậu hôn, nhì điền thổ", những chuyện đàn ông đi lấy vợ người ta hay đàn bà ngoại tình, thứ nữa là cướp đoạt vườn đất của người, hai thứ này sẽ tạo thành mối thâm thù, hay gây ra án mạng.

Sự lợi ích của không tà dâm: Về bản thân, thân thể khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn, tu học rất tinh-tấn, gia đình luôn luôn được an vui hạnh phúc. Về mặt xã hội không gây ra những hủ hoại cho phong tục, không tạo những mối thù hận, chém giết nhau.

4- Không nói sai sự thật: Có 4 cách nói sai sự thật:

A) Nói dối hay nói láo: Việc có nói không, việc không nói có, việc phải nói trái, việc trái nói phải... nó gây những tác hại, thường làm cho người ta hiểu lầm, gây chia rẻ..

B) Nói thêu dệt: Việc ít mà xít ra nhiều, gây ra những sự ghen ghét, phiền não, thù hận nhau.

C) Nói lưỡi hai chiều: Ðến chỗ này nói thế này, đến chỗ kia nói thế khác, thường làm cho hai bên có xích mích, mâu thuẫn càng tăng thêm lên, nhiều khi vì đó mà xảy ra mất tình hòa hiếu, đi đến xung đột với nhau bằng lời nói hay thậm chí đánh nhau, giết nhau.

D) Nói lời hung ác: Nói ra những lời thô tục, cộc cằn, chửi mắng người khác làm cho người ta buồn rầu, xấu hổ.

Vì sao Phật chế ra điều Không nói sai sự thật:

1) Tôn trọng sự thật: Ðức Phật đã tìm ra chân lý tức là tìm ra sự thật cho nên Ðạo Phật luôn luôn tôn trọng sự thật.

2) Vì lòng từ bi: Ðạo Phật là đạo Từ Bi, nếu ta nói sai sự thật sẽ làm cho người khác đau khổ, trái với giáo lý nhà Phật.

3) Tránh quả báo xấu: Chửi mắng người, nói sai sự thật người ta làm theo, nhân quả ấy ta cũng sẽ gánh chịu.

Sự lợi ích của không nói sai sự thật: Nếu ta không nói sai sự thật, mọi người sẽ tin tưởng ta, dành cho ta sự kính phục, về mặt xã hội cũng vậy, sẽ được những người chung quanh, đoàn thể tin cậy.

Hạn chế: Nói dối là một tai họa cho bản thân và cho người khác, nhưng đôi khi cũng phải nói sai sự thậtlòng từ bi. Chẳng hạn như người ta đi săn bắn, hỏi ta có thấy thú ở đâu không, ta nói có, họ sẽ lùng giết hại, nếu ta nói không, thợ săn sẽ bỏ đi, thú rừng khỏi chết. Vậy nói sai sự thật để cứu mạng chúng sanh, vì lòng từ bi ta nói sai sự thật thì không phạm tội.

5- Không được uống rượu : Rượu là một chất độc có hại cho sức khoẻ, làm hư trí thông minh, làm đau dạ dày. Phật chế ra điều này vì:

A) Bảo toàn hạt giống trí tuệ: Rượu sẽ làm hỏng hệ thần kinh, làm giảm sút trí tuệ vì vậy không uống rượu để bảo toàn hạt giống trí tuệ.

B) Ngăn ngừa nguyên nhân sanh ra tội lỗi: Nhiều tội lỗi chỉ do uống rượu mà sanh ra, những trận đánh nhau chỉ vì rượu vào, lời ra, kích bác nhau, sanh ra xích mích rồi đánh nhau, giết nhau. Tai nạn xe cộ xảy ra thường do uống rượu rồi gây ra.

Sự lợi ích của không uống rượu: Uống rượu dễ sinh ra nhiều thói hư, tật xấu vì vậy xã hội thường xa lánh người uống rượu. Nếu ta không uống rượu, về bản thân sẽ được mọi người kính nể, trí tuệ luôn luôn minh mẫn, ít bệnh tật, tuổi thọ càng cao. Về mặt xã hội sẽ được an vui, gia đình đầm ấm hạnh phúc, không gây cho xã hội những cảnh xấu xa.

Hạn chế: Trong trường hợp bịnh hoạn, uống thuốc ngâm rượu thì không phạm giới, bia (beer) cũng là rượu, nằm trong giới cấm.

III.- Kết luận: Sau khi thọ tam quy, người Phật tử cần phải giữ giới, nếu ta giữ được năm giới thì càng tốt, xòn bằng chưa giữ được thì trước giữ 2, 3 giới cho được nghiêm mật rồi dần dần tăng lên. Phật dạy: Sau khi Phật nhập diệt, chư tăng lấy giới luật làm Thầy. Do đó, Giới hết sức quan trọng, chúng ta cần phải giữ giới để được lợi ích cho bản thân và cho xã hội.

Sách tham khảo:

Minh Châu, Thiên Ân, Chơn Trí, Ðức Tâm Phật Pháp, THPGVN, Sàigòn, 1951

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7313)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4493)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4540)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7278)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2941)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12174)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3974)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3787)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4172)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3660)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5016)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6634)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3976)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4090)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5310)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3772)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4509)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3532)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3912)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4377)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5378)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3832)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3917)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3850)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4799)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4494)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4232)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3810)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4611)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4170)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6076)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4582)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4928)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4141)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4792)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5638)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3602)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4011)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4572)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5256)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3123)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4730)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4517)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4263)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4721)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4477)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4581)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7193)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5179)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4979)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4568)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5587)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5244)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4141)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5985)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4699)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4853)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5458)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5597)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5791)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant