Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Niệm Phật

09 Tháng Mười 201100:00(Xem: 12190)
04. Niệm Phật

CÁC BÀI
HỌC PHẬT
PHÚC TRUNG Huỳnh Ái Tông

Phần 3: THỰC HÀNH

Niệm Phật

I.-Dẫn nhập: Phật Giáo có hai môn phái nhiều người biết, đó là Thiền Tông và Tịnh Ðộ Tông. Pháp môn tu của Thiền Tôngngồi thiền. Còn pháp môn tu của Tịnh Ðộ Tông là Niệm Phật. Nói đến Niệm Phật, người ta sẽ đạt câu hỏi do đâu mà niệm Phật? Niệm Phậtlợi ích gì ? Phải niệm Phật njhư thế nào cho đúng? Đại loại đó là những câu hỏi quan trọng, chúng ta cần phải biết qua, tránh những sai lầm, cũng để chọn pháp môn tu học thích hợp với mình.

II - Do đâu có pháp môn niệm Phật: Có lẽ cũng nên dẫn một chuyện sau đây: Thái tử A Xà Thế là con vua Tần Bà Sa La và hoàng hậu Vi Ðề Hy, nghe lời xúi dục của Ðề Bà Ðạt Ða, đoạt ngôi vua cha, còn Ðề Bà Ðạt Ða sẽ giết Ðức Thích Ca để lên ngôi vị Phật. A Xà Thế kiếp trước là một vị tu sĩ ở trên núi, vua Tần Bà Sa La chưa có Thái Tử để nối ngôi, vua cầu con, có vị đạo sĩ chỉ cho vua biét có vị tu sĩ ở trên núi kia, sau khi mãn kiếp sẽ đầu thai thành thái tử. Nhà vua vì không con, nóng lòng nên lên núi tìm gặp tu sĩ ấy, yêu cầu ông ta hóa kiếp đi để vua sớm có hoàng tử, vị tu sĩ cho biét rằng 3 năm sau ông mới mãn kiếp, nếu vua bức bách ông ta phải chết, ông ta e rằng kiếp sau sẽ có mối thù và vua phải chịu quả báo. Vua Tần Bà Sa La vẫn cương quyết bắt ông phải hóa kiếp sớm, ông tu sĩ ấy phải tự tử rồi đầu thai thành Thái Tử A Xà Thế.

Nghe lời Ðề Bà Ðạt Ða, A Xà Thế bắt vua cha nhốt trong ngục thất, không cho ăn uống để phải chết đói, Hoàng hậu biết vậy, liền xin A Xà Thế cho vào thăm, bà lén đắp thức ăn vào người, để vào ngục thất cho vua ăn. A Xà Thế biét được vua cha vẫn còn sống nhờ thức ăn của mẹ, ông liền hạ lệnh giam hoàng hậu. Trong lúc cực kỳ đau khổ đó, hoàng hậu Vi Ðề Hy tưởng niệm đến Ðức Phật. Ðức Phật liền hiện ra giảng cho bà biết nhân qủa ngày trước vua Tần Bà Sa La đã bức bách vị tu sĩ kia chết, nay phải chịu quả báo. Ba VI Ðề Hy xin Phật cứu độ bà ra khỏi cõi ta bà. Phật đã dùng thần lực của ngài, hiện ra nhiều cõi Phật để bà chọn lựa cõi nào bà muốn; cuối cùng bà chọn cõi tịnh độ của Ðức Phật A Di Ðà, là nơi cực lạc hơn các cõi khác. Do đó Phật đã dạy bà phép quán vô lượng thọ là phép quán để sau khi chết được về cõi Phật A Di Ðà. Tưởng cũng nên nói thêm, trong kinh Pháp Hoa, Ðức Thế Tôn cho biết, Ðề Bà Ðạt Ða trong nhiều kiếp trước, là vị đã truyền cho Ðức Thế Tôn kinh Pháp Hoa, và Ðức Thế Tôn cũng thọ ký cho Ðề Bà Ðạt Ða sẽ thành Thiên Vương Như Lai sau này.

Gần đây có quyển Tây Phương Du Ký của Ngài Khoan Tịnh Ðại Sư là đệ tử của Hư Vân Hoà Thượng, đã được Ðức Quán Thế Âm đưa đi đến cõi cực lạc từ 25 tháng 10 năm Ðinh Mùi (1967) đến khi trở về là ngày mồng 8 tháng 4 năm Qúy Sửu (1973), tính ra 6 năm 5 tháng, nhưng trên cõi ấy, ngài tưởng chừng như chỉ có 20 giờ mà thôi. Ngài có găp Hư Vân Hòa Thượng, Ðức Di Lặc Tôn Phật, Ðức Phật A Di Ðà có dạy bảo ngài Khoan Tịnh, nếu ai được nhất tâm bất loạn, chỉ cần niệm 10 danh hiệu của Ngài cũng sẽ được sanh về cõi cực lạc. Sách do Lư Thế Hoa lược dịch và 2 dịch gỉa Hữu Từ, Tâm Hảo là những bạn đạo của chúng tôi, tu theo pháp môn Tịnh Ðộ ở Quan Âm Tu Viện, thuộc thành phố Biên Hòa.

Trong kinh điển bổn A Di Ðà, chúng ta thường tụng khi cầu siêu độ cho người quá vãng, Ðức Thế Tôn có dạy nếu ai trì danh hiệu Phật A Di Ðà từ một ngày, hai ngày... bảy ngày, nếu tâm không bị loạn động, khi mất sẽ được Phật A Di Ðà và chư Bồ Tát hiện ra trước mắt, nếu người nàuy khi mất, tâm không điên đảo sẽ được sanh về cõi Cực Lạc. Cõi này có 9 phẩm, do công hạnh tu chứng cầu vãng sanh về cõi cực lạc của mình, sẽ có một cái hoa sen cho mình ở cõi cực lạc. Sau khi mình lìa cõi ta bà, mình sẽ được Ðức Phật A Di Ðà hay chư Bồ Tát đón về cõi cực lạc trong cái hoa sen, khi hoa sen nở mình sẽ sinh ra, chớ không có cha mẹ sinh ra như trong cõi ta bà này.

Còn trong kinh Ðại A Di Ðà, có vị quốc vương Kiều Thi Ca, nghe Phật Thế Tự Tại Vương thuyết pháp, vua xuất gia làm Tỳ kheo Pháp Tạng. Ngài có 48 lời phát nguyện, về sau công hạnh viên mãn thành Phật A Di Ðà. Trong đó, lời phát nguyện thứ 29 như sau: Nguyện đến khi tôi làm Phật, các Trời và nhân dân ở trong vô lượng thế giới 10 phương hết lòng tín mến, nguyện sanh về nước tôi, mười tiếng niệm danh hiệu của tôi, đều đặng vãng sanh, chỉ trừ người phạm tội ngũ nghịch và khinh dễ chánh pháp, nếu tôi nguyện không đặng như vậy, tôi chẳng làm Phật.

Cũng trong kinh Pháp Hoa, Phẩm Phổ Môn, chúng ta thường tụng để cầu an, Phật dạy rằng Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát luôn luôn quan sát thế gian, ai gặp hoạn nạn, niệm danh hiệu của Ngài, thì tai qua nạn khỏi. Ngài thường cứu độ cho và nhất là ban cho sự không sợ hãi.

Chúng ta còn biết rằng, khi chúng ta niệm danh hiệu Phật hay Bồ Tát, tức là chúng ta tưởng nhớ đến hạnh nguyện các Ngài để chúng ta tu tập theo, trong khi niệm Phật hay chư Bồ Tát, ba nghiệp của chúng ta được thanh tịnh. Nếu chúng ta muốn được vãng sanh về Cực Lạc thì niệm danh hiệu Ðức A Di Ðà.

III - Niệm phật như thế nào? Có những cách niệm Phật sau đây:

- Tụng niệm: Qùy trước bàn Phật hay đi kinh hành, niệm lớn tiếng, có chuông mõ.
- Niệm thầm: Niệm ở ngoài đường khi đi lại, chỗ làm việc, trước khi đi ngủ...
- Khẩn niệm: Gặp những khi bệnh hoạn, tai nạn, lo sợ chúng ta niệm danh hiệu Ðức Dược Sư, đức Quán Thế Âm.
- Niệm Phật lần chuỗi: Dùng chuỗi tràng (chuỗi 108 hạt), chuỗi tay (18 hạt), chuỗi trung (người Nhật dùng 27 hạt) để niệm một danh hiệu, lần một hạt chuỗi, cũng là cách ghi số lượng niệm Phật, khỏi dùng tâm để nhớ.
- Quán niệm: Nhìn vào tượng Phật, chú tâm chiêm ngưỡng tướng tốt của Phật hay tưởng tượng hình ảnh Phật trước mắt.
- Niệm Phật công cứ: Người ta làm một cuốn sổ tay, cứ niệm được 1000 danh hiệu Phật thì ghi 1 chấm hoặc niệm 1000 danh hiệu Phật thì bõ vào ống một khúc chân nhang.
- Chuyên niệm: Ði, đứng, nằm, ngồi lúc nào chúng ta cũng niệm Phật.

Khi chúng ta niệm có tiếng, trong kinh Ðại Tập nói: "Niệm lớn thấy Phật lớn, niệm nhõ thấy Phật nhỏ", chúng ta là những người căn cơ còn thấp kém, cần phãi nhờ vào tiêng niệm Phật của mình đẻ chú tâm vào đó, như vậy mới được nhất tâm.

Khi chúng ta niệm thầm, ta cũng phải chú tâm vào từng niệm, không rời một giây phút, không cho nó chạy theo bất cứ hình ảnh, âm thanh, ý tưởng nào để cho tâm chuyên chú vào một việc, gọi là nhất tâm.

Khi lần chuỗi niệm Phật, ta chĩ chú tâm vào danh hiệu Phật đã niệm Phật, việc lần từng chuỗi hạt để cho tay tự động làm. Về sâu chuỗi, có một chỗ người ta làm dấu như bình tịnh thủy, một hạt to hơn... nơi đó tượng trưng cho Tam bảo. Lần hạt bắt đầu từ chỗ đó lần đi, đến khi lần tới chỗ đó là đủ một tràng hạt 108 niệm, nếu chuỗi tay phải 6 lần (6x18 = 108), chuỗi trung phải 4 lần (4 x 27 = 108). Không bao giờ lần qua chỗ làm dấu, khi lần tới đó phải quay xâu chuỗi lần ngược lại, người ta cho rằng lần qua chỗ tượng trưng tam bảo, cũng như tay ta để qua Phật, sẽ bị tội. Nhưng theo chỗ chúng tôi nghĩ, có lẻ thiền môn đặt ra lệ ấy để tới đó ta biết rằng được một chuỗi, cũng như tụng kinh lâu lâu thỉnh một tiếng chuông để cảnh tỉnh vậy. Nhờ lần chuỗi, ta biêt được số lượng, thời gian niệm Phật.

Ðiều quan trọng nhất, cốt yếu nhất của niệm Phật là phải có Tín, Hạnh, Nguyện. Tín là chúng ta phải tin chắc cõi ta bà này Sinh, lão, bệnh, tử đều là khổ, pháp môn niệm Phậtkim ngôn của Ðức Thế Tôn, niệm Phật ta sẽ được sanh về cõi cực lạc, cõi ấy có thật, trang nghiêm thanh tịnh do Ðức Phật A Di Ðà làm giáo chủ. Hạnh là chúng ta phải từng giờ từng phút niệm Phật. Nguyện là chúng ta phải thành tâm chí nguyện cầu sau khi lâm chung sẽ được Phật A Di Ðà và Thánh Chúng tiếp dẫn về cõi Tây Phương cực lạc. Nên biết pháp môn niệm Phật lấy Tín, Hạnh, Nguyện làm tông chỉ: Hạnh như cỗ xe, nguyện như người phu xe, còn tín như kẻ dẫn đường, đủ ba mới thành tựu sự tấn thối của xe. Người tu tịnh độ còn phải trì giới, bởi vì nếu không trì giới, phạm giới tức là gieo nhân ác, chúng ta phải chịu luân hồi trở lại cõi ta bà này để trả 1uả, chớ làm sao mà về cõi tây phương được!

IV- Vài chuyện về pháp môn niệm phật:

- Tần Thị có chồng họ Vu, làm nghề đánh cá ở sông Tiền Ðường. Con của bà chơi bời theo du đãng, phạm hình luật, bị bắt đến quan, khiến cho sản nghiệp đều tiêu tán. Tần Thị sầu khổ, đến mé sông muốn tự trầm. Vừa may đâu bà gặp một vị Tăng ở chùa Tịnh Trụ, hỏi thăm biết duyên cớ, khuyên bảo rằng: "Người đời khi bị những cảnh khổ bức bách, đó đều là nghiệp duyên kiếp trước. Vậy nên cố gắng an lòng nhẫn chịu. Nếu quẫn trí mà tự tử, tất gốc tội nghiệp càng sâu. Muốn giải trừ nghiêp khổ, chỉ có con đường duy nhất là làm lành, niệm Phật." Tần Thị nghe nói tỉnh ngộ, liền đốt một ngón tay trước bàn thờ Phật để cúng dường, và phát nguyện ăn chay trường, tu tịnh độ. Bà hành trì như thế hơn mười năm không biếng trễ. Khi gặp mọi người đều chắp tay xưng là Phật tử. Một hôm Tần Thị thỉnh tăng đến nhà tụng kinh Quán Vô Lượng Thọ còn mình thì ngồi lần chuỗi niệm Phật. Khi tụng đến chương Quán Tượng, bà ngồi yên lặng mà thoát hóa.

- Từ Thị người ở Tòng Giang, gã về nhà chồng là Dương Thất Trai tại bản quận. Năm 32 tuổi, cô ăn chay trường niệm Phật, kiêm chí thành trì chú Ðại Bi cầu sanh Cực Lạc. Mỗi bữa khuya, cô thức dậy sớm, súc miệng rửa mặt, lên hương đèn, lễ bái tụng chú Ðại Bi 21 biến, niệm Phật 1000 câu, rồi mới lo đến việc nhà. Cô tu hành một mực không đổ thay thiếu sót như thế, trãi vài mươi năm. Mùa Hạ, niên hiệu Càn Long thứ 35, Từ Thị cảm bịnh nhẹ. Ðến ngày mùng 8 tháng 6, cô theo lệ thường tụng niệm. Khi vừa trì chú được hơn một khắc, người nhà cảm nghe âm thanh lần thoát ra ngoài cửa. Tất cả chạy lại xem thì cô ta đã mỉm cười ngồi thoát hóa. Bấy giờ nhằm thời tiết nóng nực, để quàn ba ngày nhan sắc vẫn tươi như còn sống. Ðến khi thiêu hóa y phục, các ngọn lửa bốc lên, đều hóa thành hình hoa sen năm sắc. Mọi người trông thấy lấy làm lạ thở than khen ngợi.

- Thích Phật An, tự Thệ Nguyện, người đời Thanh ở Tô Châu, năm ông hơn 30 tuổi, nhà gần bên nhân đám cúng giết heo, khi mổ bụng ra, trên lá phổi con vật có hai chữ Tào Tháo, thấy thế ông kinh hãi, tỉnh ngộ, tin sâu thuyết nhân quả luân hồi, phát tâm vào am Thiên Trúc ở Tân Kiều, xuống tóc làm Tăng. Sau thời gian xuất gia không bao lâu, Phật An đến chùa Phật Vương ở Bắc Hào, chuyên tâm niệm Phật. Khi được tiền cúng dường, sư liền mua hương hoa dâng Phật, hoặc phóng sanh các loài chim cá. Năm Càn Long thứ 41, vào tháng ba, Phật An vướng bệnh, sai đệ tử đến chùa Sư Lâm thỉnh chư tăng lễ tịnh độ, sám ba ngày và lập một đàn Du già thí thực. Công việc hoàn mãn, sư thiết tiệc chay, mời các tân khách đến giã biệt. Ngọ trai xong, sư cao tiếng niệm Phật, đệ tử hòa theo. Khi cây hương vừa tàn, Phật An nói: "Tôi đi đây!" Liền ngồi ngay thẳng mà hóa. Bình sanh lúc ngẫu nhiên làm thi, sư đều có ý khuyên mọi người nên niệm Phật. Có hai bài khi sắp viên tịch như sau:

Tây Phương màu đẹp bảo liên đài
Trong tịnh sáng tươi một đóa khai
Xanh đỏ trắng vàng phô sắc diệu
Tầm tâm chỉ nguyện thấy Như Lai

*

Khảy ngón kim kiều bước đến mau
Ai rằng Cực Lạc cách xa nào ?
Di Ðà cười mỉm tay vàng đón
Khen ở Ta Bà giới hạnh cao !

- Cư sĩ Ngô Minh Hồng, tự Thúc Bảo, người đời Minh, quê ở Thái Thương. Ông gia thế dư gỉa, ưa bố thí, nhưng không thông hiểu Phật pháp. Ðến hơn 60 tuổi, một hôm ông bỗng tắm gội, đi từ biệt mọi người, rồi thỉnh Ấn Sơ pháp sư ở chùa Long Phước đến truyền thọ tam quy ngũ giới cho mình. Sau khi thọ quy giới xong, ông ngồi xuống chắp tay hô lớn ba lần: "Mau thoát ly!" Rồi nhắm mắt mà qua đời. Khi người nhà còn đang vây quanh, cùng hàng xóm hay tin chạy tới thăm, cư sĩ bỗng mở mắt ra bảo: "Tôi vừa phát nguyện thoát ly trần thế, dõng mãnh thầm niệm A Di Ðà Phật thì cảnh Liên Hoa thế giới đã hiện ra trước mắt. Tự xét mình bình sanh không có tu hành chi, nay chỉ niệm Phật mấy câu, tại sao lại được quả báo thắng diệu như thế? Vậy xin khuyên các vị nẻn cố gắng tu hành!" Nói xong bảo người nhà đem một chậu nước lại, soi mặt nhìn chăm chú vào trong. Giây phút bỗng như tỉnh ngộ, bảo: "Ðời nầy là Ngô Thúc Bảo, kiếp trước là Từ Hòa Thượng, lành thay! Vui thay!" Rồi chắp tay niệm Phậtmãn phần. Lúc ấy mùi hương lạ phát đầy nhà.

Chư Tổ của Tịnh Ðộ Tông không có truyền thừa như Thiền Tông, sở dĩ có chư Tổ là do đời sau chư tăng tục tu môn Tịnh Ðộ suy tôn, trong Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục ghi 11 vị Tổ, nơi đạo tràng Linh Nham, Ấn Quang đại sư họp các liên hữu tăng tục suy tôn chư tổ thứ 10, 11, 12. Sau khi Ấn Quang đại sư vãng sanh, chư liên hữu nhận thấy ngài hạnh đức trang nghiêm có công hoằng dương tịnh độ, mới họp lại đồng suy tôn tổ thứ 13. Theo thứ tự chư vị Tổ tông Tịnh độ như sau:

- 1- Huệ Viễn Ðại sư 2- Thiện Ðạo đại sư 3- Thừa Viễn đại sư 4- Pháp Chiếu đại sư 5- Thiếu Khang đại sư 6- Diên Thọ đại sư, tự Xung Huyền, tham học với Thiều Quốc sưThiên Thai, tỏ ngộ tâm yếu, được Quốc sư ấn khả, Trung ý Vương nhà Tống thỉnh trụ trì chùa Vĩnh Minh, lại tôn hiệu là Trí Giác thiền sư. 7- Tỉnh Thường đại sư, tự Thứu Vi 8- Châu Hoằng đại sư, tự Phật Huệ 9- Trí Húc đại sư, tự Ngẫu Ích 10-Hành Sách đại sư 11- Thật Hiền đại sư, tự Tư Tề, hiệu Tỉnh Am 12- Tế Tỉnh đại sư, tự Triệt Ngộ 13- Ấn Quang đại sư.

Trong 13 vị Tổ Tịnh Ðộ tông có 7 vị Thiền sư được chánh truyền, sau chuyển tu pháp môn tịnh độ, bảy vị đó là : Thừa Viễn, Vĩnh Minh, Liên Trì, Ngẫu Ích, Hành Sách, Tỉnh Am và Triệt Ngộ.

V - KẾT: Thiền tông hay Tịnh độ tông, chúng ta không nên phân biệt pháp môn cao hay thấp, cần biết rõ pháp môn nào hợp với mình thì nên tu, khi chứng đắc rồi thì thiền hay tịnh chỉ là một, cốt làm sao cho Tâm ta được nhất tâm bất loạn, xin lục lại bài Tứ Liêu giản của Diên Thọ Ðại sư, Ngài so sánh, khuyên giải chúng ta tu. Xin hãy tu mau kẻo trễ !

Có Thiền không Tịnh độ Có Thiền có Tịnh độ
Mười người chín lạc lộ Như thêm sùng mãnh hổ
Ấm cảnh khi hiện ra Hiện đời làm thầy người
Chớp mắt đi theo nó Về sau làm Phật, Tổ

* *

Không Thiền không Tịnh độ Không Thiền không Tịnh độ
Muốn tu muốn thoát khổ Giường sắt, cột đồng lửa!
Vãng sanh thấy Di Ðà Muôn kiếp lại ngàn đời
Lo gì chẳng khai ngộ Chẳng có nơi nương tựa

Louisville, 18-5-1996

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2022)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 3023)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2638)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3547)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3374)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4210)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3722)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4266)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2355)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3517)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4195)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3978)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2917)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3397)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3520)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4581)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3918)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4804)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4070)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 3057)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3797)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3946)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 3115)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3636)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4485)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3750)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2286)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2653)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 3065)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2754)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4622)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4969)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2863)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5356)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2890)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3323)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4416)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4973)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4734)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3281)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4587)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4310)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6172)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3534)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 4067)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 6050)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5440)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 4097)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 33266)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3202)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4195)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4763)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 3115)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3844)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3581)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6587)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2803)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3255)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4618)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3486)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant